Minh Thạnh
Vừa qua, chúng tôi có
nhận được phản hồi từ bạn đọc, rằng cấu trúc của thành phố Sài Gòn do thực dân
Pháp thiết kế vào cuối thế kỷ XIX không phải là lấy sông Sài Gòn làm mặt tiền
như chúng tôi trình bày trong những bài đầu tiên của loạt bài này, mà Sài Gòn
được cấu trúc theo 2 hướng chính là Đông – Tây và Nam – Bắc. Nguồn tài liệu dẫn
chứng cũng được trích dẫn.
Theo chỉ dẫn của bạn đọc,
chúng tôi đã tìm đến tài liệu nêu ý kiến nói trên, đó là bài viết “Di sản kiến trúc đô thị Sài Gòn thời cận đại” của tác giả Nguyễn Thị
Kim Anh (Thư viện Khoa học Tổng hợp TPHCM) in trong sách “Nam bộ Đất và Người”, tập IX, Hội Khoa
học và Kỹ thuật TPHCM tổ chức biên soạn, PGS TS Vũ Văn Sen chủ biên, nhà xuất
bản Đại học Quốc gia TPHCM xuất bản năm 2013, với thông tin chi tiết như sau (trang
129): “Về quy hoạch, Sài Gòn vẫn được xây dựng dựa
trên các trục đường của Gia Định Thành thời Nguyễn, đó là hai trục Cardos (Nam –
Bắc, đường Lê Duẩn) và Decumanus (Đông – Tây, đường Đồng Khởi), lấy dinh
Thống Nhất và nhà thờ Đức Bà là điểm kết. Hai trục phụ là Nguyễn Huệ và Lê Lợi,
với Ủy ban Nhân dân Thành phố và Nhà hát Lớn là điểm kết. Các đường còn lại chạy
song song theo ô vuông bàn cờ, lề đường trồng cây, có các ngã tư, ngã năm, ngã
bảy, quảng trường, bùng binh, công viên, chỗ đậu xe…”.
Theo nội dung tài liệu
vừa dẫn ở trên, thì lập luận của chúng tôi nêu ra trước đây vẫn không sai. Đó là
nhà thờ Đức Bà vẫn giữ vai trò trung tâm trong thiết kế đô thị Sài Gòn. Đó là
điểm kết của 1 trong 2 trục chính, mà ở đây là trục Đông Tây. Hai điểm kết trong
2 trục có giá trị như 2 điểm nhấn trung tâm. Trung tâm quyền lực tôn giáo của
Sài Gòn là Nhà thờ Đức Bà, bên cạnh trung tâm hành chính (thế quyền) là Dinh
Thống Nhất.
Hai đại lộ Nguyễn Huệ và
Lê Lợi được coi là 2 trục phụ. Vì vậy, trung tâm chính quyền thành phố, tòa đô
chính (nay là Ủy ban Nhân dân TPHCM) chỉ là trung tâm phụ, trung tâm loại 2.
Đối chiếu kết luận này
với kết luận của chúng tôi trong bài viết trước, rằng quy hoạch đô thị Sài Gòn
của thực dân Pháp có quan điểm đặt giáo quyền của đạo Ca tô La Mã lên trên chính
quyền thành phố, thì 2 bên vẫn không có gì khác. Bài viết mà bạn đọc chỉ dẫn tôi
tham khảo rốt cuộc đi đến cùng một kết luận với ý kiến của tôi, dù rằng quá
trình chứng minh có hơi khác. Nhưng theo cách nhìn nào, thì rõ ràng, thiết kế đô
thị Sài Gòn của thực dân Pháp thể hiện quan điểm tôn cao giáo quyền đạo Ca tô La
Mã, ở mức tương đương với chính quyền trung ương qua quy hoạch điểm kết thứ hai
của 2 trục chính và ở trên chính quyền địa phương (quy hoạch điểm kết của 2 trục
phụ).
Trong quy hoạch mới của
TPHCM, trung tâm của thành phố vẫn được xác định là khu trung tâm hiện hữu. Các
tuyến đường cơ bản vẫn như cũ, chỉ có trụ sở các cơ quan hành chính sẽ được xây
dựng mới. Như thế, quan điểm thiết kế đô thị Sài Gòn của thực dân Pháp sẽ được
duy trì có thể là hàng trăm năm nữa.
Quan điểm như thế của
thực dân Pháp trong thiết kế đô thị Sài Gòn không phản ánh bước phát triển mới
trong sinh hoạt tôn giáo của TPHCM, không phản ánh sự tương quan của thế quyền
và giáo quyền đạo Ca tô La Mã hiện nay, đề cao giáo quyền đạo Ca tô La Mã một
cách không phù hợp, mang biểu hiện lệch lạc của thời thực dân, tiếp tục thể hiện
những vấn đề trong diện mạo kiến trúc thành phố.
Cũng đáng lưu ý là những
nhận định tiếp theo trong bài viết của tác giả Nguyễn Thị Kim Anh: “Thành phố chủ yếu vẫn chia làm hai khu thời
Gia Định thành, phần đất cao là trung tâm xây cất kiểu trình diễn phô trương
thanh thế của chính quyền thuộc địa với dinh thự, công sở, nhà Tây; phần đất
thấp hơn chạy dọc theo kinh rạch kéo dài đến Chợ Lớn là không gian làm ăn sinh
sống của người bản địa. Sài Gòn thời Pháp cùng lúc tồn tại song song các lối
sống và văn hóa khác nhau: Thành phố vườn của người châu Âu (quận 1, quận 3),
phố ngõ nhỏ hẹp theo bang hội của người Hoa (dọc theo rạch Bến Nghé, kênh Tàu Hủ
đến Chợ Lớn), nhà phố liên kế của người Ấn Chetty (quanh chợ Cũ, chợ Bến Thành)
và mạng lưới hẻm nhỏ, chật chội, nhà lá của người Việt (phía Tân Định, Phú
Nhuận, Hòa Hưng, Khánh Hội…)”
Theo nhận định trên, thì
trong khu công thự của Sài Gòn (tức khu “thành phố vườn của người châu Âu”), chỉ
có ngôi chùa là chùa Xá Lợi và Vĩnh Nghiêm, cùng Thiền viện Quảng Đức. Điều này,
cũng phù hợp cơ bản với ý kiến của chúng tôi trong loạt bài này.
Như thế, đối với Phật
giáo thì chỉ có trụ sở hành chính trung ương của Giáo hội là tọa lạc ở khu công
thự của thành phố (trước tiên ở chùa Xá Lợi, sau đó là Thiền viện Quảng Đức).
Trong khi đó, trụ sở của Ban Trị sự GHPGVN TPHCM vẫn tọa lạc ở khu lao động (đó
là khu Vườn Lài, nơi tọa lạc chùa Ấn Quang, đườgn Sư Vạn Hạnh). Thực tế do lịch
sử để lại này có các vấn đề của nó, trong đó có vấn đề thể diện của GHPGVN
TPHCM.
Đường Sư Vạn Hạnh hiện
nay vẫn là khu lao động, sản xuất thủ công đồ nhôm gia dụng, buôn bán các mặt
hàng kim khí như dao, búa, đinh, dây xích, soong nồi…, lụp xụp, chật chội chen
chúc. Phía sau còn là một khu trung cư cũ, điều kiện vệ sinh kém, mật độ cư trú
đông đúc. Khung cảnh chung quanh hoàn toàn tương phản với một trung tâm hành
chính của Phật giáo. Điều mà mỗi lần chư tôn đức tăng ni Phật tử tề tựu về chùa
Ấn Quang đều cảm nhận được hiện tượng xô bồ, phơi phóng diễn ra phía trước, phía
sau, hai bên chùa tạo áp lực rất nặng nề về tình trạng thiếu tôn nghiêm, kém vệ
sinh. Dù là một ngôi chùa lớn, kiến trúc đẹp, nhưng do vị trí như thế trong
thành phố, Ấn Quang chưa thể trở thành một trung tâm du lịch văn hóa thành phố.
Điều này dẫn đến vấn đề trong diện mạo kiến trúc tôn giáo thành phố hiện nay,
thể hiện sự khiếm khuyết trong kiến trúc Phật giáo ở khu trung tâm. Tất nhiên,
không thể làm gì hơn, vì Sư Vạn Hạnh là một khu phố lao động.
Trở lại vấn đề kiến trúc
tôn giáo ở khu trung tâm TPHCM, thì chúng ta lại vướng vào ngay sự bất hợp lý
của kiến trúc Phật giáo. GHPGVN TPHCM là một thiết chế trong các tổ chức của
TPHCM, cần sự hiện diện tương xứng và còn có ý nghĩa thể hiện sự tôn nghiêm
trong sự hiện diện ở khu trung tâm, thay vì khu lao động của thành phố.
Hiện nay, rõ ràng là
không tìm được nơi xây chùa ở các vị trí dù là kém hơn không so sánh được với
nhà thờ Đức Bà, nhưng vẫn còn trong khu công thự của thành phố như đối với trung
tâm Mục vụ, Tòa Tổng Giám mục, trụ sở các dòng tu ở khu Tú Xương, Nguyễn Thông,
Lý Chính Thắng…
Phật giáo TPHCM chỉ còn
cơ hội ở khu đô thị mới Thủ Thiêm, được xác định là khu tung tâm mở rộng của
thành phố và ở nơi có thể nhìn thấy từ khu trung tâm thành phố hiện hữu, chưa
xây dựng, còn trong tình trạng đất trống, có thể nghĩ đến việc điều chỉnh quy
hoạch.
Trong bước đi lên chung
của TPHCM, trước những tiến bộ trong hoạt động chỉnh trang đô thị, thiết tưởng,
đã đến lúc GHPGVN TPHCM đặt vấn đề sĩ diện, tương xứng, trong kiến trúc Phật
giáo ở thành phố. Phật giáo TPHCM cần có sự hiện diện kiến trúc xứng tầm ở khu
trung tâm, vượt khỏi giới hạn khu xóm lao động hiện tại.
Thiết tưởng, đây là cơ
hội thuận lợi, vì hiện nay dường như, trước mặt Phật giáo TPHCM không có một áp
lực tài chính từ một công trình xây dựng nào lớn. Ngược lại, kiến trúc một ngôi
chùa phù hợp ở khu trung tâm mở rộng của của TPHCM sẽ là một đề án kiến tạo
thích hợp cho sự phát triển của Phật giáo TPHCM trong những năm sắp tới.
Nếu bỏ qua cơ hội này,
có lẽ, trong nhiều trăm năm sau, diện mạo kiến trúc tôn giáo TPHCM vẫn là diện
mạo của một tôn giáo khác. Và tiếc rằng, đó lại là di sản của một chế độ thực
dân.
MT