Phần 2: Buổi
chiều
Trại Vô Thần
Phần 1: Xin mời xem ở địa chỉ
http://www.trankiemdoan.net
Bữa cơm trưa “vô thần” khác hơn bữa
cơm trưa “hữu thần” tôn giáo là trước khi ăn người ta hát một bài cám ơn những
bàn tay làm nên cuộc sống chứ không có lắng lòng cầu nguyện “ơn trên” đã ban cho
vật chất và tinh thần làm nên bữa ăn.
Sau bữa ăn trưa, có vài giờ sinh hoạt
tự do. Giới trẻ thích tham gia các môn thể thao, người lớn thích chuyện trò hay
suy tư trong tĩnh lặng giữa thiên nhiên. Tôi quen dần với các sinh hoạt của
nhiều lứa tuổi. Tâm sinh lý của từng lứa tuổi có những nhu cầu và phản ứng riêng.
Những cuộc sinh hoạt dã ngoại như thế nầy giúp người ta dễ dàng cởi mở với người
khác và hiểu chính mình sâu hơn. Càng đi sâu vào tìm hiểu tâm tư của những người
“vô thần” mà được gặp trong trại Camp Quest, tôi càng có cảm tưởng họ là những
người “hữu thần” hơn ai hết. Sự nghịch lý đó phát xuất từ những tác động chính
trị và xã hội hơn là từ sự quyết đoán của một đức tin mới.
Đa số những phụ huynh có con em tham
gia Trại Vô Thần đều là những “cựu tín đồ” của các tôn giáo lớn. Họ đều có mẫu
số chung rằng là: Họ đã từng bị trói buộc bởi những tín điều hẹp hòi, nửa vời và
khắc nghiệt do những người có thế mạnh giáo quyền trong tôn giáo của họ. Những
người nầy đã kéo hình tượng và khái niệm cao cả cùng tột của Thượng Đế xuống
thấp ngang tầm với lòng tham lam, tính hiếu thắng và khát vọng quyền lực của họ.
Người đồng đạo bị áp bức phải ly khai đi tìm một thế giới mới, trái ngược với
thế giới cũ đầy tiêu cực của những người núp bóng Thượng Đế và Thần Thánh. Giới
phụ huynh muốn thế hệ con cháu của họ sẽ độc lập vươn lên trong tự do. Gởi con
cái đến Trại Vô Thần trong thế giới Âu Mỹ đang là một sự thử nghiệm hơn là một
sự khẳng định rạch ròi về Thượng Đế và Thần Linh.
Buổi họp mặt thứ hai tại phòng hội
Camp Quest vào buổi chiều có vẻ đông đảo hơn buổi sáng. Người dẫn giải chương
trình hội luận buổi chiều giới thiệu nội dung đề tài là: “Thượng Đế chết rồi
hay Thượng Đế không có thật” (God is dead or never existed). Tôi ngỏ ý muốn
mời một người khác trong cử tọa giúp tôi vì đề tài đã đi quá xa, vượt ra ngoài
sự hiểu biết vả nghiên cứu giới hạn của tôi. Một thành viên trong Ban điều hợp
và thuyết trình, Ted Miller, cười ruồi và ghé nói nhỏ vào tai tôi:
“Bạn sợ hãi rồi phải không?”
Tôi thắc mắc:
“Sợ cái gì hả ông bạn?”
Ted cười thành tiếng và nói với giọng
đùa cợt:
“Sợ không đủ kiến thức nói về Thượng
Đế!”
Tôi đáp ngay:
“Chỉ có đàn cừu ngoài kia mới dám chủ
quan cho rằng, có thể mang kiến thức nói về Thượng Đế. Đây là một đề tài mà nhân
loại đã nói từ khi mới mở mắt nhưng chẳng ai hoàn toàn đồng ý với ai và sự nhập
nhằng giả định nầy vẫn còn kéo dài cho đến hôm nay. Believe or not believe
that is the question! – Tin hay không tin đó là vấn đề.”
Nghe tôi nhại lại câu nói của
Shakespeare một cách khôi hài, Ted cười thành tiếng. Anh ta lại nói lầu bầu như
một người say rượu phẫn chí:
“Hì, hì… bầy cừu! Chúng nó, mỗi đứa
tự dán cho ‘cái tôi u mê’ (dump ego) của mình một nhãn hiệu ‘Thượng Đế’ nên thay
vì xéo lên nhau thì chối bỏ hay tôn xưng Thượng Đế vô tội vạ theo sự hiểu biết
cạn cợt của chúng nó. Ê, anh bạn tốt của tôi. Đừng ‘run away’ – ù té chạy – mà
nên ở lại trong phòng nầy; ok?”
Tôi hơi ngỡ ngàng vì Ted Miller có
những phản ứng bất thường nhưng ngang tàng và độc đáo làm tôi quan tâm. Tôi chưa
hiểu đối tượng “chúng nó” mà Ted muốn ám chỉ là ai. Giữa khi còn đang dùng dằng
có nên rút lui hay không thì một phụ huynh, bà Jean Turner, mở đầu buổi hội luận
với câu hỏi đã kéo tôi về lại với hiện thực:
“Gandhi nói rằng, đạo Phật không phủ
nhận Thượng Đế nhưng định nghĩa Thượng Đế theo một cách khác. Vậy theo
anh thì đạo Phật chấp nhận có Thượng Đế theo ‘một cách khác’ như Gandhi
nhận xét hay không?”
Tôi đã nghe ai đó nói về ý nầy từ
trong buổi ăn trưa và không ngừng suy nghĩ về điều nầy cho đến khi bà Turner đặt
câu hỏi. Tôi đáp:
“Gandhi cho như thế vì ông định nghĩa
‘Chân lý là Thượng Đế, Thượng Đế là Chân Lý’ (The Truth is God, God is the
Truth.) Trong lúc đó đạo Phật cho rằng Tánh Không và Duyên Khởi là chân lý
của vạn pháp. Như thế, vô hình chung, theo cách định nghĩa của Gandhi thì có thể
nói Tánh Không và Duyên Khởi là một khái niệm về ‘Thượng Đế’ theo tinh thần đạo
Phật chăng (?!)”
Bà Turner chụp ngay cơ hội:
“Sao lại không thể đã chứ. Nhân loại
có thêm hai ông triết gia chối bỏ hoàn toàn Thượng Đế là Nietzsche và Osho.
Nietzsche thì gào lên: ‘Thượng Đế đã chết!’ Osho thì cãi lại: ‘Trật
lất! Thượng Đế đã sinh ra đâu mà chết nhỉ?!’ Nguyên nhân sâu xa của hai thái
độ bài bác nầy là do các tôn giáo đương thời nhân danh Thượng Đế để làm điều
ngược lại với nền tảng thiêng liêng của sự sống con người. Nietzsche thì gọi tên
Thượng Đế qua hình dung của các giáo hội thờ phụng Thiên Chúa nhưng lại hành xử
tàn bạo với những người không theo họ như nhân danh Thượng Đế để hành hình kẻ bị
cho là theo ‘dị giáo’ hay xua binh lực đi tiêu diệt những dân tộc và xã hội
không cùng đức tin qua gần hai mươi cuộc Thánh Chiến (Crusades – Holy Cross
Wars) kéo dài gần 5 thế kỷ (X – XV) từ châu Âu sang Trung Đông. Osho thì gọi tên
Thượng Đế qua hình dung của Ấn Độ và Bà La Môn giáo. Giai cấp Tăng Lữ và Quý Tộc
ở Ấn Độ đã nhân danh Thượng Đế để chia xã hội thành nhiều giai cấp từ xưa đến
nay và đã có những thời kỳ giai cấp toàn trị có thể công khai giết chết giai cấp
bị trị như một sự trừng phạt hợp lý đương nhiên mà Thượng Đế đã phó thác cho
họ...”
Bà muốn nói nhiều hơn nữa nhưng người
dẫn chương trình đã ngăn lại và mời tôi góp ý:
“Tôi e rằng, không chừng chúng ta lại
đi lạc vào thế giới của danh từ – Thượng Đế – bởi vì có bao nhiêu cá nhân, có
bao nhiêu tôn giáo hay bao nhiêu nhóm phái khi nói đến sức mạnh tâm linh tận
cùng cao tột của mình thì sẽ có bấy nhiêu khuynh hướng muốn tự mình đạt đến một
chỗ dựa của đức tin Chân Lý Tuyệt Đối. Chân lý tuyệt đối phải do một đối
tượng có phẩm chất cao vời tuyệt đối (Ultimate Supreme Being) nắm giữ và
hành xử mà các bạn gọi là “God”, người Trung Quốc gọi là Thượng Đế (Thượng: Trên
- Đế: Vua), người Việt chúng tôi gọi là Ông Trời. Có vô số tên gọi dành cho
Thượng Đế. Chỉ riêng đạo Sikh, phái Guru của Ấn Độ cũng đã có 950 tên gọi Thượng
Đế. Các tôn giáo cùng thờ phụng Thượng Đế như Thiên Chúa giáo, Do Thái giáo, Hồi
giáo… có hơn 100 tên gọi khác nhau về Thượng Đế. Theo tinh thần Phật giáo thì
ngôn ngữ, danh từ và hình tướng đều là những giả tướng bên ngoài; trong khi thực
tướng của chân lý là những gì ở bên trong thế giới chân tâm rỗng lặng của mỗi
con người. Thiền định là phương tiện thiện xảo nhất của đạo Phật. Thiền đi tìm
sự thật của chính mình trong im lặng, không chữ nghĩa, chẳng ngôn từ. Nếu đạo
Phật nói ‘Phật trong ta, ta trong Phật’ thì có khác gì các tín hữu thờ
Chúa nói ‘Thượng Đế trong ta, ta trong Thượng Đế’ đâu.”
Tiếng vọng từ phía cuối phòng hội:
“Như vậy đạo Phật của các ông có tin
rằng có một Thượng Đế hay không?”
Trả lời:
“Đức Phật nói như một tuyên ngôn về
niềm tin rằng:
Đừng tin gì đã có
Đến bất cứ từ đâu
Khi tự mình biết rõ
Niềm tin mới bắt đầu
Niềm tin chân chánh sẽ dẫn tới đức
tin. Đức tin cao cả là phải tự mình nhìn thấy tươi mới như trẻ thơ, không do ai
trao truyền hay mặc khải cả. Bởi vậy, trong tám con đường chân chánh (Bát Chánh
Đạo) để sửa mình của đạo Phật không có ‘chánh Tín.’”
Có cánh tay nhỏ nhắn đưa lên, cánh
tay của một em bé gái tự giới thiệu là Linda Holly, 16 tuổi. Em bé hỏi:
“Vậy thì đạo Phật không có ‘dogmatism
and superstition’ (tín điều và mê tín) sao?”
Tôi cảm thấy vui vì sự quan tâm của
tuổi trẻ và trả lời:
“Đạo Phật như ánh nắng. Mặt trời
không thay đổi nhưng nắng gắt hay nắng dịu tùy theo mùa Hạ hay mùa Đông, theo
buổi sớm hay buổi chiều. Ban đêm nắng tắt nhưng không mất mà đang đi về một nơi
khác. Đạo Phật đến đâu là hòa vào văn hóa của nơi đó. Đạo Phật vẫn là đạo Phật
nhưng đạo Phật ở Ấn Độ, khác đạo Phật ở Nhật, khác đạo Phật Trung Hoa, Tây Tạng,
Thái Lan… Đạo Phật vào Việt Nam hòa với đạo thờ cúng ông bà tổ tiên thành một
“đạo Phật dân gian”. Đạo Phật đến với người trí thức thì thành triết lý cao
siêu, đến với người bình dân thì thành lối sống ‘ở hiền gặp lành’, đến với người
mê tín dị đoan thì thành lễ nghi cúng tế đốt vàng mã rườm rà. Chính vì tinh thần
phóng khoáng, mềm dẽo nhưng rắn chắc như kim cương không bị hủy hoại nầy mà Phật
giáo không những không bị Hồi giáo, Ấn Độ giáo và Bà La Môn giáo tiêu diệt ở Ấn
Độ mà còn lan rộng khắp thế giới trong hơn 25 thế kỷ cho đến ngày nay…”
Em Linda hỏi
ngắt ngang:
“Vì sao và
cái gì làm cho Phật giáo rắn chắc như kim cương không bị hủy hoại?”
Tôi cười vui
trả lời em bé:
“Đạo Phật rắn
chắc như kim cương vì đạo Phật mềm em ạ. Em có biết lối hành xử ‘Ever changing
in different conditions yet immutable in essence’ (tùy duyên bất biến) không?
Nghĩa là cô bé Linda Holly có thể thành người hữu thần, người vô thần bây giờ và
thành kỹ sư, bác sĩ sau nầy nhưng sẽ không bao giờ thành người xấu khi căn bản
em là người tốt và dù trong điều kiện và hoàn cảnh khó khăn nào em cũng giữ cái
‘goodness’ (thiện) đó trong em.”
Em hỏi tiếp:
“Thế thì tại
sao chúng ta không tập làm người tốt mà phải tập làm người hữu thần hay vô thần
làm gì?”
Trong khi tôi
đang phân vân chưa biết trả lời thế nào cho thật là đơn giản thì một vị trong
ban quản lý Trại Vô Thần đã lên tiếng:
“Tại vì muốn
làm người tốt thì trước hết cần phải có tự do, không bị ai sai khiến hay bắt
buộc suy nghĩ, hành động, cầu xin theo một lý thuyết hay mô thức nào đó. Chúng
ta sẽ không nói dối vì sợ phê phán hay kết án, không nghĩ dối vì ngại không vâng
lời thần thánh, không sống dối vì lo bị dòm ngó vô hình. Trong lúc người tốt thì
phải cần nói thật, nghĩ thật và sống thật.”
Như phần lớn
cách biểu hiện tự do và phóng khoáng của giới trẻ Mỹ, Linda chỉ tay về phía
người quản lý, nói cắt ngang:
“Con không
hỏi ông và cũng không cần ông giải thích vì con biết rồi. Con muốn hỏi cái gã
theo đạo Phật (Buddhist guy) nầy nè.”
Tôi cảm thấy
buồn cười và cười thống khoái vì cái mã “Buddhist guy” mà cháu Linda dán lên
tôi. Nhưng không sao, tôi tiếp tục:
“Hey Linda, em còn nhớ câu chuyện của
phóng viên Frank Asiad viết về một người lính Iraq nói với một người lính Mỹ
trong giờ chót của cuộc chiến Mỹ-Iraq không? Hai người lính đều bị thương nặng
nhưng vẫn còn ôm súng lên đạn trong tay, đối mặt nhau và sẵn sàng nhã đạn vào
nhau trên chiến địa. Anh lính Iraq nói: ‘Tao không giết mầy thì mầy giết tao.
Giết hay bị giết (kill or to be killed) đó là tôn giáo của tao lúc nầy. Thượng
Đế ơi là Thượng Đế, ngài đang ở phía bên nào?!’ Vô thần hay hữu thần có nghĩa gì
trong giờ phút đó và ai sẽ trả lời cho người lính bị giết câu hỏi làm hoang lạnh
cả một kiếp người như thế.”
Phòng hội lặng đi trong giây lát và
tôi thấy cháu Linda đưa tay chùi nước mắt.
Thấy Linda không nói gì, một người
bạn bên cạnh tự giới thiệu tên gọi là Sandy, 17 tuổi. Sandy hỏi:
“Thượng Đế chỉ có Một Thể duy nhất
(the Oneness of God). Tại sao lại phải phân chia phía nầy phía khác; vô thần,
hữu thần như thế?”
Một thoáng qua, không có tiếng trả
lời. Dr. Ramon, người đã phát biểu nhiều trong buổi sáng, lên tiếng:
“Các tôn giáo quanh tôi, cha mẹ và
gia đình tôi đã làm tôi nghẹt thở vì sự rao giảng ‘the Oneness of God – Thượng
Đế Nhất Thể’ như thế: Thượng Đế sáng tạo muôn loài, Thượng Đế vô hình mà có mặt
khắp nơi, Thượng Đế có mặt trong từng hơi thở, Thượng Đế canh ta trong từng động
tĩnh riêng tư, Thượng Đế hướng dẫn và kiểm soát ta trong từng miếng ăn giấc ngủ…
Không ở nơi đâu mà không có Thượng Đế vì Thượng Đế và vũ trụ cùng với bản thân
ta và muôn loài là Nhất Thể. Bản thân tôi phải trốn chạy để tìm một nơi trú ẩn
cho tôi, một không gian không có Thượng Đế bằng cách theo đạo Vô Thần…”
Ông Ramon ngừng lại vì có tiếng vọng
từ phía dưới như phản đối:
“Không, không thể như thế. Vô thần là
vô đạo. Không thể có một ‘tôn giáo Vô Thần’ như ông vừa nói.”
Ramon trả lời:
“Như thế là bạn nhầm rồi. Từ thế kỷ
19, những người không theo tôn giáo thờ phụng thần linh đã tổ chức thành hàng
trăm nhóm phái ‘không tôn giáo’ và sinh hoạt với nhau kéo dài tới vài ba thế hệ.
Tháng Giêng năm 2013 vừa rồi Hội Đồng Ngày Chủ Nhật (Sunday Assembly) đã thành
hình các Giáo Đoàn Vô Thần (Godless Congregations) tại London, Anh quốc. Và hiện
nay đã có các Sunday Assembly tại London, New York, Melbourne, Toronto,
Scotland, Ireland và tiên đoán tới tháng 12 năm 2013 nấy sẽ có khoảng từ 30 tới
40 Giáo Đoàn Vô Thần như thế thành hình ở nhiều nơi trên thế giới. Các thành
viên sáng lập tiên phong như Sanderson Jones à Pippa Evans tiên đoán mức độ phát
triển của cao trào vô thần nầy đạt tới mức 3000% (ba nghìn phần trăm) và ‘tôn
giáo Vô Thần’ sẽ là một ‘tôn giáo’ phát triển nhanh nhất trên toàn thế giới
trong một tương lai gần…”
Có tiếng kêu rất “hữu thần” phát ra
từ trong phòng hội làm cho đại chúng cười ồ:
“Wow… Oh! My God.” (Úi chao… Lạy Chúa
Tôi.)”
Gần hết giờ nhưng ông Ramon quái ác
nầy vẫn không tha cho tôi. Với dáng vẻ thân tình, ông nhìn tôi và yêu cầu cho ý
kiến:
“Thế ông bạn Phật giáo của chúng tôi
nghĩ như thế nào vế hai thế giới hữu thần và vô thần về tự do buông thả và ràng
buộc với Thượng Đế nhất thể?”
Tôi muốn nói một vài ý nhẹ nhàng
trước lúc chia tay hơn là tranh biện dằng dai không lối thoát:
“Zen Master của Nhật Bản, thiền sư
Yoka Shitai, có một nhận xét thú vị rằng, bất luận do ai sinh ra hay do tiến
hóa tự phát mà sinh ra thì không phải tình cờ mà loài người lại có hai tai, hai
mắt, hai tay, hai chân, hai lá gan, hai buồng phổi nhưng chỉ có một trái tim,
một cái miệng và một cái đầu. Hai là để nghe, nhìn, nắm bắt và đi đến cả hai nơi
trái nghịch nhau. Nhưng Một là để yêu thương, suy nghĩ, chia sẻ không phân biệt.
Con người không phải là bộ máy chỉ thuần vật chất và cũng chẳng phải là bóng ma
để chỉ có tinh thần. Tâm vật tương quan, nên tự quy con người vào một thế cực
đoan như duy tâm, duy vật, hữu thần, vô thần… thường là trò chơi phù phiếm nhằm
thỏa mãn sự cố chấp của tri thức, sự vọng tưởng của ngã mạn, hoàn toàn không có
thật.”
Bác sĩ Ramon lại nói chen vào:
“Như thế là đạo Phật của các bạn cho
rằng người Vô Thần như chúng tôi chẳng khác với người hữu thần của các bạn hay
sao?”
“Trả lời dứt điểm ‘có’ hay ‘không’
chẳng có nghĩa là đúng hay sai mà là có thật hay không có thật. Đức Phật khi nói
đến vũ trụ có ba nghìn hay vô lượng thế giới với số chư Phật, Bồ Tát và Thánh
chúng đông như cát sông Hằng không đếm xuể và ba đời chư Phật thời quá khứ, hiện
tại và vị lai đang nghe lời thuyết pháp của nhau là nói lên Biểu Tượng về Duyên
Khởi, về tương tác nhân duyên. Nếu chỉ thoạt nhìn về hình tướng Hoa Nghiêm thì
đạo Phật là ‘siêu hữu thần’ (super-theists). Nhưng nếu nhìn về thật tánh hay thể
tánh của trí tuệ Bát Nhã thì đạo Phật là ‘siêu vô thần’ (super-atheists) vì tất
cả là sự thật trần trụi rỗng không chẳng có gì để mơ ước, mộng tưởng điên đảo
cả!”
Richard Dawkins,
tác giả vô thẩn nổi tiếng với
tác phẩm The
God Delusion - Ảo Tưởng Thượng Đế
Vì thời gian có hạn, vị trưởng ban
phụ trách yêu cầu tôi phát biểu trước khi cuộc hội luận kết thúc:
“Xin cám ơn các bạn đã cho tôi được
tham gia sinh hoạt với trại Camp Quest hôm nay với tư cách là một chuyên viên tư
vấn tuổi trẻ, một người dạy học và đặc biệt là một Phật tử. Tôi thật sự được học
từ các bạn nhiều hơn là khả năng hiểu biết giới hạn của cá nhân mình chuyển tải
những thông tin đến các bạn. Trong xã hội phương Tây thực dụng ngày nay, đời
sống tinh thần và sinh hoạt tâm linh tích cực, lành mạnh đóng vai trò quyết định
cho chất lượng đời sống chúng ta. Tưởng tượng đất Mỹ nầy mà không có đời sống
tôn giáo thì tội phạm, sự khủng hoảng tinh thần và hiện tượng ngược đãi, lạm
dụng giữa người và người sẽ làm cho đất nước và xã hội băng hoại như thế nào. Và
tưởng tượng ngược lại là nếu xã hội nầy không có tự do tôn giáo hay tôn giáo nắm
quyền toàn trị bóp nghẹt tự do – như tự do vô thần mà các bạn đang chọn lựa theo
đuổi – thì nếp sống tinh thần sẽ nghẹt thở và suy đồi đến như thế nào.
Đất Mỹ phồn vinh như hôm nay vì mọi người đều có tự do chọn lựa Đạo như một con
đường để cùng đi tới cảm thông, yêu thương và hạnh phúc chứ không phải như những
pháo đài để tấn công và khích bác nhau. Chúc các bạn thành công.”
Ôm bó hoa của Ban tổ chức Trại Vô
Thần tặng, tôi xin phép được tặng lại cho cặp vợ chồng phụ huynh cao tuổi nhất
trong phòng hội; chồng đẩy vợ ngồi xe lăn. Cả hai không hẹn mà đều nói nho nhỏ:
“God bless you!” (Xin thượng Đế ban
phước lành cho bạn).
Tôi mỉm cười cám ơn và chia tay.
Sacramento, ghi lại tháng 9 – 2013
Trần Kiêm Đoàn