Hoang Phong chuyển
ngữ
Tờ nhật báo uy tín Le Monde của Pháp ngày 18 tháng 9 năm
2013, trong mục Địa Lý và Chính Trị và qua một bài viết của
ký giả Frédéric Robin đặc phái viên ở New Delhi, đã nêu lên các mưu đồ và
tham vọng quốc tế nhằm khai thác thánh địa Phật Giáo Lâm-tì-ni (Lumbini). Dưới
đây là phần chuyển ngữ.
Thật là cả một sự tranh dành ảnh hưởng vô cùng
khốc liệt hiện đang bùng lên trong dãy núi Hy-mã-lạp-sơn. Hai nước Trung Quốc và Ấn Độ đang đối đầu
nhau trước biểu tượng của Đức Phật, tượng trưng cho sự đoàn kết giữa các dân tộc
Á Châu. Quả thật đây là một cuộc đọ sức không gây ồn ào, thật kín đáo và vô cùng
bí mật, tuy nhiên không phải vì thế mà kém phần quyết liệt. Ngoài các mặt trận
đã được dàn ra giữa hai siêu cường Á Châu (như sự tranh chấp biên giới, chạy đua
về năng lượng, tranh dành ảnh hưởng ở Ấn Độ Dương...) thì một mặt trận mới cũng
đang được mở ra với những "đòn chính trị" thật quy mô. Nếu dựa vào cách nói đang
thịnh hành trong thời buổi ngày nay thì có thể bảo rằng cuộc tranh dành kín đáo
chưa được công bố ấy là cả một mặt trận tranh dành "quyền lực mềm" ("soft
power"). "Quyền lực mềm" là một cách mà các siêu cường ngày nay thường sử dụng
để thăm dò phản ứng của nhau, ngoài các hình thức biểu dương sức mạnh khác.
"Quyền lực mềm" Phật Giáo với một tầm ảnh hưởng rộng lớn mang tính cách toàn cầu
là cả một tiềm năng mà bất cứ một quốc gia nào tự cho mình là nước lãnh đạo Á
Châu đều phải quan tâm đến.
Trong các phòng khách sang trọng và kín đáo dưới tầng hầm của một khách sạn năm
sao ở New Delhi
(thủ đô Ấn Độ) các buổi họp đầu tiên của International Buddhist
Confederation (IBC / Liên Đoàn Phật Giáo Thế Giới) đã diễn ra từ ngày từ 9 đến
12 tháng 9 vừa qua, đánh dấu giai đoạn chín muồi của sự tranh chấp trên đây.
Trên phương diện chính thức thì IBC (Liên Đoàn Phật Giáo Thế Giới) chỉ giữ vai
trò của một tổ thức "Liên Hiệp Quốc Phật Giáo" (Nations Unies du Bouddhisme),
tức là một phương tiện nhằm gom tất cả các học phái - Mahayana (Đại Thừa),
Hinayana (Tiểu Thừa), Vajrayana (Kim Cương Thừa) - vào một di sản tâm linh chung
cho 400 triệu tín đồ trên toàn thế giới. Sự hiện diện trong các buổi họp mặt ở
New Delhi của các đại biểu đến từ khoảng bốn mươi quốc gia trên thế giới đã cho
thấy một tiếng vang nào đó. Dầu sao thì cũng còn quá sớm để tiên đoán tương lai
của IBC. Hiện nay, người ta chỉ có thể biết một cách chắc chắn là dự án trên đây
là do nước Ấn đưa ra - mà người đứng ra tổ chức là Lạt-ma Lobzang, một nhân vật
thân cận của triều đại Nehru-Gandhi - không phải chỉ mang mục đích tôn giáo. Chủ
đích Địa lý Chính trị (Géopolitique / Geo-policy) hiện ra thật rõ rệt.
Tổ
chức Liên Đoàn Phật Giáo Thế Giới (IBC) do Ấn Độ thành lập là nhằm chống lại các
sinh hoạt của một tổ chức khác gọi là World Buddhist Forum (WBF / Diễn Đàn Phật
Giáo Thế Giới) dưới sự bảo trợ của Trung Quốc. Diễn Đàn này được
thành lập sau các buổi hội họp được tổ chức ở Hàng Châu (Hangzou) trong vùng
phía nam Thượng Hải (Shanghai) vào năm 2006. WBF (Diễn Đàn Phật Giáo Thế Giới)
là một công cụ mà Bắc Kinh sử dụng để o bế (trong nguyên bản là
chữ amadouer / coax / vuốt ve) các tập thể Phật Giáo bằng cách hứa
hẹn một sự đỡ đầu thân thiện. Tổ chức này nằm trong chính sách ngoại giao tích
cực nhân danh Phật Giáo, được đưa ra liên tiếp từ mười năm nay qua các cuộc
triển lãm lưu động về chiếc "răng" và đốt "ngón tay" Phật, được xem là xá lợi
của chính Đấng Giác Ngộ mà Trung
Quốc đang lưu giữ. Năm 2012 trong lần họp thứ ba của WBE tổ
chức tại Hồng Kông, một mảnh xương sọ được xem là của chính Đức Phật - khám phá
ra hai năm trước đó ở Nam Kinh (Nankin) - được đưa ra trưng bày một cách trang
trọng.
Địa lý Chính Trị trong vùng Hy-mã-lạp-sơn là cả một
sự thách đố
Nhìn qua thì các buổi họp của Diễn Đàn Phật Giáo Thế
Giới (WBF) do Bắc Kinh giật dây cũng không đến nỗi nào thua kém so với các buổi
họp của Liên Đoàn Phật Giáo Thế Giới (IBC) được tổ chức ở New Delhi
(do Ấn Độ chủ xướng). Tuy nhiên thật hết sức khó cho tổ chức Diễn Đàn
Phật Giáo Thế Giới (WBF) vượt xa hơn biên giới của các nước thuộc khối Trung Quốc (gồm Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan
và các cộng đồng Đông Nam Á), trong khi đó thì Liên Đoàn Phật Giáo Thế Giới
(IBC) đã mở ra một chân trời rộng lớn hơn. Sự khác biệt trên đây một phần là do
ảnh hưởng của vấn đề Tây Tạng. Trong các buổi họp của Diễn Đàn Phật Giáo Thế
Giới (WBF / do Trung Quốc tổ chức),
Gyancain Norbu tức là vị Panchen-lama [nhân vật đứng hàng thứ hai trong Phật Giáo Tây Tạng - ghi chú trong
nguyên bản] do Bắc Kinh chọn lựa
(được chỉ định là vị tái sinh của vị tiền nhiệm) và cố tình mang ra
dàn cảnh. Những người ủng hộ Đức Đạt-Lai Lạt-Ma tức là vị lãnh đạo tối cao của
Phật Giáo Tây Tạng đang lưu vong ở Dharamsala (Ấn Độ),
không hề công nhận sự hợp pháp của vị này. Một trong các chủ đích của Diễn Đàn
Phật Giáo Thế Giới (WBF / do
Trung Quốc tổ chức) là mang Panchen-lama thứ XI ra
trưng bày trước cộng đồng thế giới với mục đích hy vọng có thể chính thức hóa vị
này, thế nhưng hy vọng đó cho đến nay thật hết sức mong manh. Qua những bài diễn
văn yêu nước cho rằng xứ sở Nóc Nhà của thế giới (tức là nước Tây Tạng) thuộc lãnh thổ
Trung Quốc do chính Panchen-lama đọc lên cho thấy vị này là
người ủng hộ Bắc Kinh. Trong khi đó những người trung thành với Đức Đạt-Lai
Lạt-Ma lại hiện diện đông đảo hơn trong tổ chức Liên Đoàn Phật Giáo Thế Giới
(IBC) đặt trụ sở ở New Delhi. Trên thực tế IBC đã dựa vào ánh hào quang tỏa rộng
mà vị "Đại Dương Trí Tuệ"
(tức là Đức
Đạt-Lai Lạt-Ma XIV) đã tạo được cho toàn thể gia đình Phật Giáo với
những biên giới rộng lớn, vượt xa hơn tầm ảnh hưởng của các học phái Phật Giáo
Tây Tạng.
Giữa cảnh tranh dành đó, mỗi quốc gia
(tức Trung Quốc và Ấn Độ)
đều tìm cách đưa ra đủ mọi bằng chứng nhằm dành chính nghĩa về phần mình.
Trung Quốc không ngớt hô hào rằng mình là quốc gia có số tín đồ
Phật Giáo đông đảo nhất thế giới. Về phía Ấn Độ, nơi mà Phật Giáo đã bị Ấn Giáo
đông đảo hơn lấn lướt qua nhiều thế kỷ, thì cho rằng Đức Phật đã được sinh ra
trên đất Ấn. Phái bộ Azoka giữ trọng trách tổ chức IBF ở New Delhi tuyên bố rằng
"Ấn độ chính là cội nguồn của Phật Giáo". Sự khẳng định trên đây cần phải
được xét lại, bởi vì Lâm-tì-ni nơi Đức Phật đản sinh vào thế kỷ thứ VI trước Tây
Lịch, thật ra là thuộc lãnh thổ của nước láng giềng Nepal, và người dân Nepal
thì không hề tán đồng sự mạo nhận đó của Ấn Độ. Dầu sao các thánh địa khác của
Đức Phật và các đệ tử của Ngài - chẳng hạn như Bồ-đề Đạo Tràng (Bod Gaya), Tiên
Uyển (Sarnath), Na-lan-đà (Nalanda)... - rõ ràng là thuộc vào lãnh thổ Ấn, và
New Delhi bắt đầu đẩy mạnh các kế hoạch khai thác ngành du lịch tâm linh.
Chính trong lãnh vực này đang diễn ra một trận đấu thật ngoạn mục giữa Trung Quốc và Ấn Độ xoay quanh
"quyền lực mềm" Phật Giáo. Nhằm đối đầu với con đê khổng lồ của Ấn Độ, Trung Quốc đã bọc hậu và tràn ngập phía sau các thánh
địa. Năm 2011, Tổ Chức Phi Chính Phủ (Organisation Non Gouvernementale, ONG /
Non-governmental Organisation, NGO) đặt tại Hồng Kông liên hệ với Bắc Kinh là
Asia Pacific Exchange and Corporation Foundation (APECF / Cơ Quan Trao Đổi và
Hợp Tác giữa các Quốc Gia Á Châu trong vùng Thái Bình Dương) đề nghị với người
Nepal là sẽ đầu tư 3 tỉ đô-la (2,25 tỉ euros) - tương đương với 85% thuế thu
nhập của toàn xứ Nepal - để "phát triển" thánh địa Lâm-tì-ni, nơi đản sinh của
Đức Phật. Sáng kiến này bất ngờ làm bùng lên một sự hăng say trong toàn vùng
Hi-mã-lạp-sơn. APECF (tức Cơ quan trao
đổi và hợp tác trên đây) chọn ngay Pushpa Kamal Dahal làm người đại
diện cho chương trình trên đây ở Nepal, nhân vật này mang bí danh là
"Prachanda", nổi tiếng là một người khuấy động, trước đây từng là thủ lãnh
của nhóm cựu-nổi-loạn theo chủ nghĩa Mao (Maoism) đã được hợp thức hóa sau hiệp
ước hòa bình ký kết vào năm 2006. Prachanda cũng đã từng làm thủ tướng Nepal vào
các năm 2008 và 2009.
Có quá nhiều dự án
Trùng tu Lâm-tì-ni là một câu chuyện cũ mèm, thế nhưng gần đây lại được hâm nóng
trở lại. Câu chuyện bắt đầu từ năm 1970 khi một kiến trúc sư người Nhật là Kenzo
Tange dưới sự bảo trợ của Liên Hiệp Quốc đã đưa ra một dự án về vấn đề này. Thế
nhưng sự nhiệt tâm ban đầu đã bị sa lầy nhanh chóng trong các ngõ ngách quan
liêu của xứ Nepal và tình trạng bất ổn nội bộ của một xứ sở bé tí nằm kẹt giữa Trung Quốc và Ấn Độ trong vùng
Hy-mã-lạp-sơn. Năm 2010, bỗng dưng
người ta lại quan tâm đến Lâm-tì-ni với
sự hình thành của một dự án mới, do một nhóm người Mã Lai gốc Trung Quốc theo Phật Giáo Tây
Tạng đưa ra. Dự án này nhằm biến Lâm-tì-ni thành một nơi du lịch đại chúng dành
vào việc hành hương, tương tự như thánh địa Mecca (La
Mecque
/ Mecca) của người Hồi Giáo.
Thật rõ ràng đây là một dự án "ăn cắp" của Cơ Quan Trao Đổi và Hợp Tác giữa các
Quốc Gia Á Châu trong vùng Thái Bình Dương (APECF) do
Trung Quốc giật dây. Bề ngoài chương trình này được điều hành
bởi một nhân vật rất bí mật tên là Xiao Wunan dưới sự chỉ đạo của các cấp cao
trong Đảng Cộng Sản Trung Quốc, và được đẩy mạnh
trong các cộng đồng người Hoa vùng Đông Nam Á. Sự giao hảo thân thiện với nhóm
nổi loạn theo chủ nghĩa Mao của Nepal do Prachanda lãnh đạo cho thấy APCEF phải
chịu một áp lực nào đó và đã biến thành một sức mạnh đang lên trong bối cảnh sôi
sục của thánh địa Lâm-tì-ni. Mùa xuân năm 2011, lại thấy xuất hiện hai nhân vật
mới đưa ra một dự án khác, thế nhưng dự án này lại cũng chỉ là một sự vay mượn
cả đường lẫn bột với dự án của người Mã Lai trước đây, chỉ khác là được hậu
thuẫn bởi một sức mạnh chính trị quan trọng hơn nhiều. Vài tháng sau đó thì một
diễn viên thứ ba lại xuất hiện: đấy là kiến trúc sư Hàn Quốc Kwaak Young Hoon,
là một người đã từng quan tâm đến Lâm-từ-ni từ lâu trước đó. Người kiến trúc sư
này được sự ủng hộ của Korea International Cooperation Agency (KOICA / Cơ Quan
Hợp Tác Quốc Tế Hàn Quốc) là một cơ quan trực thuộc chính quyền Seoul (Nam Hàn).
Tóm
lại hiện nay đang có quá nhiều dự án liên quan đến Lâm-tì-ni nơi đản sinh của
Đức Phật. Giữa cảnh hỗn độn đó, vào năm 2002 lại bắt đầu xảy ra các cuộc tiếp
xúc giữa các nhóm trên đây với mục đích phối hợp các sáng kiến theo các đường
hướng khác nhau nhằm tìm cách lôi kéo sự chú ý của Liên Hiệp Quốc. Chẳng phải là
di tích Lâm-tì-ni đã được cơ quan UNESCO đưa vào danh sách di sản của nhân loại
hay sao? Thế nhưng trong đầu óc mỗi người hình như đều phát sinh một thứ cảm
tính nghi ngờ cho rằng chắc hẳn phải có những âm mưu nào đó tàng ẩn phía sau
những sự lèo lái trên đây. Thế nhưng ai lèo lái ai? Và ai tìm cách hất chân ai?
Chính Kwaak Young Hoon (kiến trúc sư Hàn Quốc trên đây)
đã từng tiết lộ một giai thoại cho báo Le Monde với mục đích thăm dò mức độ nghi
ngờ đang tàng ẩn kín đáo trong bối cảnh trên đây. Khi vừa mới gia nhập vào cuộc
chạy đua này, vị kiến trúc sư Nam Hàn đã nhận được ngay một thông điệp của một
vị Bộ Trưởng trong chính quyền Katmandou (Nepal) - tất nhiên là dưới áp lực của
nhóm nổi loạn theo chủ nghĩa Mao - phải trưng ra bằng cớ sẽ "không chống lại Trung Quốc". Kiến trúc sư
Kwaak đành phải tuyên bố rằng mình "không chống Trung Quốc".
"Đức Phật là người Ấn"
Trước những sự việc xảy ra trên đây, Ấn Độ cũng bắt đầu cảm thấy nao núng trước
sự khuấy động của tổ chức APCEF thiên Bắc Kinh. Vị chủ tịch Indian Council for
Cultural Relations (ICCR /
Hội Đồng Quan Hệ Văn Hóa Ấn Độ) và đồng thời cũng kiêm nhiệm chức chủ tịch văn
phòng Ngoại Giao của Đảng Quốc Đại (Parti du Congrès / Congress Parti / một đảng
chính trị quan trọng của Ấn Độ)
hiện đang cầm quyền, là Karan Singh đã lên tiếng như sau:
"Ấn Độ sẽ không thể làm ngơ trước các công trình phát triển Lâm-tì-ni", tất
nhiên điều này cho thấy rằng việc phát triển Lâm-tì-ni là một trong những công
cụ nhằm củng cố "quyền lực mềm" của Ấn Độ. Thế nhưng vị chủ tịch Singh thì lại
xác nhận rằng lý do chính thức là vì "Đức Phật là người Ấn Độ". Dầu sao thì sự
kiện này còn là - hay đúng hơn nhất thiết là - một kế hoạch chiến lược.
Dưới con mắt của người Ấn, tham vọng của
Trung Quốc về một vùng thánh địa Phật Giáo nổi tiếng là
Lâm-tì-ni, chỉ cách biên giới của Ấn vài cây số, là cả một sự thách thức lớn lao
trên phương diện địa lý chính trị. Phải chăng một mối bức xúc cũng đang bùng lên
trong chính quyền New Delhi hay chăng?
Người Ấn rất e ngại là nếu dự án của Cơ Quan Trao Đổi và Hợp Tác giữa các
Quốc Gia Á Châu thuộc Thái Bình Dương APCEF
(thân Trung Quốc)
thành công thì tất nhiên Trung Quốc
cũng sẽ gây được ảnh hưởng đối với các nhà sư trong vùng Hy-mã-lạp-sơn, nhằm chờ
đợi sau này khi Đức Đạt-Lai Lạt-Ma viên tịch sẽ kiểm soát toàn bộ cộng đồng
người Tây Tạng. Một viên chức cao cấp của chính phủ Ấn Độ trước đây là Jayadeva
Ranade hiện đang được thu dụng trở lại trong việc phân tích chiến lược, đã tỏ ra
rất lo ngại khi tuyên bố rằng: "Trung Quốc có thể sẽ mượn Lâm-tì-ni để thành lập một
đạo quân thứ năm dàn ra trước cửa ngõ của nước Ấn".
Dự
án của APECF cũng đã cho thấy một vài dấu hiệu đuối sức - thế nhưng chắc là sẽ
không bị hủy bỏ - lý do là tình trạng thù địch đang nghiêm trọng. Các người Phật
Giáo Nepal hết sức bực tức vì tất cả hai bên đều không hề quan tâm đến họ, do đó
họ cũng huy động các lực lượng trong tay mình để chống lại "âm mưu cướp đất" (spoliation foncière / land dispossession) đang
hăm dọa tập thể người địa phương (tức sắc tộc Tharu) đang sinh sống chung quanh
Lâm-tì-ni trong vùng đồng bằng Teraï. Dù chỉ mang tính cách địa phương, thế
nhưng Ấn Độ không hề nhìn phong trào trên đây với con mắt bàng quang. Một thành
viên Phật Giáo thuộc phong trào này ở New Delhi thú nhận rằng: "Người Ấn giúp đỡ chúng tôi trên mặt tinh
thần". Mọi sự hiện nay cũng đã trở nên sáng tỏ
hơn, và một vị lãnh đạo Phật Giáo Nepal cũng đã từng tuyên bố như sau:
« Lâm-tì-ni đã trở thành tâm điểm của cả
một « cuộc chơi lớn » giữa Ấn Độ và Trung Quốc ». Nơi đang gây ra chấn động và cơn
sốt trên đây cũng là điểm gặp nhau giữa những người tu hành, những tay khuấy
động thừa cơ nước đục thả câu, các chính trị gia, các nhà tranh đấu bản địa (người dân thiểu số thuộc các sắc tộc địa phương),
và cả một bọn trục lợi cá mè một lứa.
Vài lời ghi chú của người dịch
Lâm-tì-ni nằm trong vùng đồng bằng Taraï phía nam xứ Nepal và là nơi đản sinh
của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Năm 249 trước Tây Lịch vua A-dục và nhà sư
Ưu-bà-cúc-đa (Upagupta) vừa là thầy vừa là quốc sư của đế quốc của ông, cả hai
cùng đến viếng Lâm-tì-ni, lúc đó là một ngôi làng trù phú. Vua A-dục cho xây
dựng tại nơi này bốn ngôi chùa và một trụ đá cao sáu thước. Trên trụ đá có khắc
một câu như sau: " Vị vua yêu quý của các thiên nhân là Piyadasi (một tên khác
của vua A-dục) đã đích thân đến viếng nơi này vào năm thứ 20 sau ngày đăng quan.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã sinh ra tại nơi đây...". Dựa vào các chi tiết khác
khắc trên trụ đá thì Đức Phật sinh vào năm 623 trước Tây Lịch.
Ngược về bốn thế kỷ trước đó, tức là trước khi vua A-dục và nhà sư Ưu-bà-cúc-đa
đến đây thì ngôi làng Lâm-ti-ni là một khu vườn rộng lớn thuộc xứ Kiều-tát-la
(Kosala) của nhà vua Tịnh Phạn (Suddodhana). Kinh sách bằng tiếng Pa-li cũng như bằng
tiếng Phạn đều có nói đến khu vườn này và cho biết đây là một khu vườn mênh
mông, thật thanh tú và có trồng nhiều cây sala. Sala tên khoa học là
Shorea robusta trổ hoa rất đẹp.
Hôm
ấy là giữa tháng năm và cũng vào giữa mùa xuân, nơi kinh đô Ka-tì-la-vệ
(Kapilavastu) hoàng hậu Mai Da
(Maya Devi) vợ vua Tịnh Phạn, dù đang có mang thế như vẫn quyết định về thăm cha
mẹ sinh ra mình ở thị trấn Devahada. Nào có ai ngờ được là quyết định bất ngờ ấy
của một bà hoàng hậu một xứ bé tí thu mình duới chân dãy Hy-mã-lạp-sơn đã đánh
dấu một biến cố lớn trong lịch sử nhân loại. Đi được nửa đường, Hoàng hậu và các
người tùy tùng dừng lại nghỉ trong khu vườn Lâm-tì-ni xinh đẹp. Trong khu vườn
có xây một hồ nước trong để dân chúng trong vùng đến tắm. Hoàng hậu và một vài
người hầu cũng xuống tắm. Sau đó hoàng hậu ngồi tựa vào một gốc cây sala nghỉ
ngơi. Thế rồi hoàng hậu bỗng nhiên cảm thấy chuyển bụng. Bà bèn đứng lên, một
tay nắm chặt một cành cây sala, một tay quàng vai một người hầu và sinh ra thái
tử Tất-đạt-đa Cồ Đàm từ "bên cạnh sườn" (xem hình). Đứng để sinh đẻ là một tập
tục lâu đời ở Á Châu và gần đây vẫn còn thấy ở một vài sắc tộc.
Thái tử Tất-đạt-đa không sinh ra trong chốn cung điện mà sinh ra dưới một gốc
cây trong khu vườn Lâm-tì-ni như bất cứ một kẻ vô gia cư nào khác. Ba mươi lăm
năm sau vào giữa mùa xuân và cũng vào một đêm giữa tháng năm trăng tròn, dưới
một gốc cây trong một khu rừng hoang vắng, thái tử Tất-đạt-đa đạt được Giác Ngộ
và trở thành một vị Phật. Đức Phật thuyết giảng lần đầu cũng dưới một gốc cây
nơi khu vườn Tiên Uyển (Sarnath). Tám mươi tuổi, kiệt lực, Đức Phật cũng lại nằm
xuống đất giữa hai gốc cây trong một khu rừng,
Từ
ngày lánh xa thế tục, Đức Phật chỉ có hai manh áo cà sa thay đổi trên người, một
chiếc bình bát trên tay, và đi chân đất để khất thực. Ngài luôn dừng lại bên
ngoài các khu đô thị hầu tránh xa các cảnh bon chen. Ngoài giáo lý mà Đức Phật
đã để lại cho nhân loại, chính cuộc sống của Ngài cũng là một tấm gương cho
chúng ta cùng soi. Một người tu tập chân chính có cảm thấy khiếp sợ - nếu không
muốn nói là kinh hoàng - khi đọc những gì mà bài báo trên đây đưa ra hay không?
Rồi đây, Lâm-tì-ni sẽ trở thành một nơi đô hội, một bãi chiến trường giữa những
kẻ âm mưu, một nơi hội tụ của những kẻ thừa cơ nước đục... Ai sẽ thắng, và ai sẽ
thua? Hàng nghìn khách sạn sẽ mọc lên, ngành du lịch tâm linh ở Lâm-tì-ni sẽ trở
thành một kỹ nghệ béo bở. Thánh địa Lâm-tì-ni sẽ trở thành một "quyền lực mềm"
của một quốc gia lãnh đạo nào hay một chủ nghĩa chính trị nào đây?
Một
vài tư liệu cho biết rằng vua A-dục bãi bỏ thuế khóa cho ngôi làng Lâm-tì-ni,
trong khi đó một vài tư liệu khác thì lại cho rằng nhà vua này chỉ giảm thuế,
dầu sao đi nữa thì đấy cũng không hề là một biện pháp trục lợi. Thật vậy chủ
đích chính yếu của bốn ngôi chùa và trụ đá của vua A-dục là để biến Lâm-tì-ni
thành một trong những nơi hành hương mang lại những xúc cảm tinh khiết cho những
người tu hành chân chính hầu giúp họ đến gần với Đức Phật hơn. Vào thế kỷ thứ IV
có một nhà sư Trung Quốc
khác thường là Pháp Hiền, quyết tâm sang Ấn Độ để tu học. Ông khởi hành bằng
đường bộ và rời Trường An năm 399, đi xuyên qua sa mạc Gobi, các vùng Tân Cương,
Khotan, và sau đó là Afghanistan và Pakistan ngày nay... Ông đi ngang làng mạc
và đô thị, nơi nào cũng theo Phật Giáo, dân chúng tổ chức các lễ hội thật vui và
long trọng.
Pháp Hiền đến lãnh thổ Ấn năm 402. Ông lưu lại trong vùng thung lũng sông Hằng
để tu học và viếng các nơi thắng tích Phật Giáo. Sau đó ông quay lại các vùng
Peshawar, Kaboul thuộc Afghanistan ngày nay để viếng thăm các vùng Phật Giáo
này. Trước khi quay về Trung Quốc ông xuống miền nam
nước Ấn và đến Tích Lan, nơi đây ông khám phá ra nhiều kinh sách chưa hề có ai ở Trung Quốc biết đến. Năm 413 ông
rời Tích Lan bằng đường biển để trở về quê hương. Trên đường ông suýt chết vì
ghe bị đắm. Ông ghé được vào đảo Java của Indonesia, và tại nơi này ông gặp
nhiều người đồng hương sang đây tu học. Lúc đó đảo Java chưa có ngôi đền
Borobudur, vì ngôi đền nổi tiếng này chỉ bắt đầu được xây dựng vào khoảng thế kỷ
thứ VIII. Sau đó ông lại tìm ghe khác để trở về
Trung Quốc. Trong chuyến trở về quê hương này có thêm bốn nhà
sư khác tháp tùng, thế nhưng chỉ có mình ông là sống sót và về đến được Trường
An vào năm 414. Ông để ra hai năm để viết quyển hồi ký mang tựa là
"Phật Quốc Ký"
thuật lại cuộc hành trình mười lăm năm của mình ở Ấn
Độ và Tích Lan. Vài năm sau đó thì ông qua đời.
Hành hương và tu học là ý chí và lòng nhiệt tâm của một con người và đôi khi
cũng là lý tưởng của cả một đời người. Sự thúc đẩy đó không cần đến sự hậu thuẫn
của các diễn đàn, liên đoàn, ngân hàng, hay sự hậu thuẫn chính trị của các đảng
phái hoặc một quốc gia nào cả, cũng không cần đến các tổ chức du lịch đan vào
nhau như một mạng lưới ở khắp các quốc gia Phật Giáo. Chắc hẳn rồi đây chúng ta
sẽ có thể đến viếng Lâm-tì-ni thật dễ dàng theo các tour du lịch rẻ tiền. Trong
số những người hành hương tất sẽ có những người thật thà, dành dụm chắt chiu để
cúng dường, hầu góp phần mang lại lợi nhuận cho những số vốn đầu tư hàng tỉ
đô-la. Thế nhưng cũng có những người giàu có cúng dường để trấn an lương tâm
mình. Dầu sao thì chúng ta cũng rất có thể sẽ đến Lâm-tì-ni bằng các tour du
lịch với chương trình một hoặc hai tuần có người hướng dẫn chuyên nghiệp có thể
nói được nhiều ngôn ngữ khác nhau, nhằm giúp chúng ta cầu xin được thêm một ít
phước lành. Có mấy ai nhớ được là Đức Phật sinh ra dưới một gốc cây ở một nơi
cách biệt với cung điện của vua cha, và sau này chỉ có một bình bát trên tay,
thì làm thế nào ban phước lành và sự giàu có cho chúng ta được. Âu châu văn minh
ngày nay cũng chẳng khá hơn, chẳng hạn như ở một nước rất sùng đạo, trong các
vùng thôn quê, làng này đồn đại và rỉ tai là làng kia có xảy ra phép lạ nhờ đi
hành hương và uống nước thánh. Bọn trục lợi quả thật khéo léo và tài tình, xe
của các tour du lịch đầy ắp những người nông dân chất phác và những người lớn
tuổi thật thà. Các nước có thánh địa tiếp rước hàng triệu du khách mỗi năm, mạng
lưới du lịch tâm linh thật nhộn nhịp khắp Âu Châu và thế giới. Hình ảnh những
người hành hương thành kính thường xuyên được đưa lên thật khéo léo trên truyền
hình. Đấy vừa là "quyền lực mềm" vừa là một nguồn tài chính khổng lồ cho một số
quốc gia Ấu Châu. Cái mô hình đó đang được xuất cảng sang Á Châu.
Vào
thế kỷ thứ VII, giữa thời kỳ vàng son của nền văn minh Trung Quốc và sự phát triển cao
độ của Phật Giáo ở xứ sở này, người ta lại thấy có một nhà sư khác thường khác
là Huyền Trang. Ông rời Trường An vào năm 629 sang Ấn hành hương và tu học. Ông
đi ngang các vùng Tây Vực theo Phật Giáo mà nhà sư Pháp Hiền đã đi ngang trước
đó hơn hai thế kỷ. Vào thời kỳ mà Huyền Trang đi ngang các vùng này thì nhiều
nơi đã hoặc đang trở thành Hồi Giáo. Bởi vì tôn giáo này được hình thành ở nước
Á Rập Saudi vào thế kỷ thứ VII đang phát triển rất nhanh trong toàn vùng Trung
và Cận Đông. Nói chung thì những gì nhà sư Huyền Trang trông thấy đấy là những
hiện tượng mà Phật Giáo gọi là vô thường.
Huyền Trang quay về Trung Quốc mười sáu năm sau tức
là vào năm 645. Ngoài số kinh sách mang về còn có một quyển nhật ký của ông mang
tựa là " Đại Đường Tây Vực Ký" ghi chép những gì
do chính ông tai nghe mắt thấy nơi xứ sở của Đức Phật và các nơi thắng tích
trong thung lũng sông Hằng. Hai quyển sách
"Phật Quốc Ký"
và " Đại Đường Tây Vực Ký" trên đây là
hai tài liệu vô giá về Phật Giáo trên đất Ấn và cả lịch sử của quốc gia
này. Quyển "Phật Quốc Ký" của Pháp Hiền được dịch sang tiếng Pháp và tiếng Anh
rất sớm từ hậu bán thế kỷ XIX.
Một
nhà khảo cổ người Đức là Alois-Anton Führer dựa vào quyển "Phật Quốc Ký" của Pháp Hiền đã tìm được vị trí của Lâm-tì-ni vào
năm 1896. Một năm sau người ta tìm thấy trụ đá và sau đó là các lớp nền của bốn
ngôi chùa do vua A-dục xây dựng. Khởi đầu Lâm-tì-ni là một khu vườn thanh tú
dưới triều đại của vua Tịnh Phạn, sau đó đã trở thành một ngôi làng trù phú và
một thắng tích thiêng liêng dưới triều đại của vua A-dục, và sau cùng là một
vùng hoang sơ và nghèo nàn khi nhà khảo cổ Alois-Anton Führer đến đây.
Vào
thế kỷ XIV nhà vua Ripu Malla của xứ Nepal hành hương nơi này và đã cho ghi khắc
thêm trên trụ đá của vua A-dục một câu đánh dấu cuộc viếng thăm của mình, và đấy
cũng là dấu tích lịch sử cuối cùng của Lâm-tì-ni. Lý do của sự yên lặng hay quên
lãng đó của Lâm-tì-ni cũng không phải là quá khó hiểu. Các đạo quân Hồi Giáo
tràn vào đất Ấn vào thế kỷ XII đã sử dụng mọi phương tiện để tận diệt Phật Giáo
và cả Ấn Giáo. Thế nhưng đối với Ấn Giáo thì hình như các đạo quân Hồi Giáo có
phần nương tay hơn. Có thể là vì Ấn Giáo cũng là một tín ngưỡng tin vào Thánh
Kinh và một Đấng Toàn Năng gần tương tự như Hồi Giáo? Một lý do khác là Ấn Giáo
là một tín ngưỡng mang tính cách đại chúng, sự sinh hoạt ăn sâu vào gia đình và
làng mạc, trong khi đó thì Phật Giáo có những tổ chức tập thể lộ liễu hơn, chẳng
hạn như tăng đoàn của đại học Na-lan-đà gồm hơn mười ngàn nhà sư. Sau thế kỷ
XIII có thể nói là Phật Giáo đã hoàn toàn biến mất ở Ấn Độ, trong khi đó thì Ấn
Giao hồi phục nhanh hơn. Tóm lại Lâm-tì-ni chìm sâu trong sự quên lãng của lịch
sử kể từ thế kỷ XV cho đến khi nhà khảo cổ người Đức tìm đến nơi này vào cuối
thế kỷ XIX.
Có
một nhân vật trong lịch sử Phật Giáo ít người chú ý đến, thế nhưng lại là một
trong những nhân vật có công lớn nhất và không thể nào chối cãi được, ấy là vị
quốc sư Ưu-bà-cúc-đa dưới triều đại của vua A-dục. Ông không nổi danh như Long
Thụ, Vô Trước, Bồ-đề Đạt-ma, Huệ Năng hay Đạo Nguyên... Thật vậy ông không phải
là một luận sư hay triết gia và cũng không hề sáng lập ra một học phái nào cả,
thế nhưng chính ông là người đã giúp vua A-dục đến gần với Phật Giáo, đã khuyên
vua A-dục xây cất hàng chục ngàn bảo tháp để phân tán xá lợi ra khắp mọi nơi
trong đế quốc của mình giúp người dân đến gần với Đạo Pháp và Đức Phật hơn. Thật
vậy các phương tiện di chuyển của hơn hai ngàn năm trước có phải như ngày nay
đâu. Ưu-bà-cúc-đa cũng là người chủ xướng việc kết tập Đạo Pháp lần thứ ba và
cũng đã chủ tọa đại hội này để thanh lọc những gì thêm thắt và dị đoan trong một
giai đoạn phát triển hỗn tạp và quá nhanh của Phật Giáo, nhờ vào sự ưu đãi của
hoàng triều A-dục. Chinh là nhờ vào lần kết tập này, Luật Tạng và Kinh Tạng được
hình thành thật tinh khiết và được truyền bá đi khắp nơi. Nếu Ưu-bà-cúc-đa đã
đứng bên cạnh vua A-dục khi nhà vua này ra lệnh xây dựng bốn ngôi chùa và trụ đá
ở Lâm-tì-ni, thì ông cũng đã đứng sau lưng vị vua này trong các chương trình
hoằng Pháp xa hơn thung lũng sông Hằng và bên ngoài biên giới của đế quốc
Maurya. Sự âm thầm và khiêm tốn đó của một nhà sư chân chính thật hết sức tương
phản với các âm mưu và những sự khuấy động của các nhân vật như Pushpa Kamal
Dahal, Kenzo Tange, Xiao Wunan, Kwaak Young Hoon, Karan Singh, Jayadeva
Ranade... và cả đám trục lợi cá mè một lứa, do ký giả Frédéric Robin nêu lên
trong bài báo trên. "Vinh dự" duy nhất mà Ưu-bà-cúc-đa có lẽ cũng không mong
muốn và cũng không hề chờ đợi, là sau này người ta xếp ông với ít nhiều gượng
ép, đứng vào hàng thứ năm trong danh sách các vị tổ của Thiền Tông.
Cách nay ít lâu người dịch có viết một bài ngắn về
"Câu chuyện một con đường", thuật lại cuộc hành trình của một người tu tập.
Trên con đường đó có những người đi ngược chiều mà người tu tập phải tránh ra để
không đâm sầm vào họ. Hai bên vệ đường diễn ra những cảnh cướp giật, đâm chém,
bom nổ, nhà cháy, cầu sập, có những sòng bài, nhà hát tấp nập và cả những hố
sâu, vực thẳm... Chúng ta không nên dừng lại để tham gia vào những thứ ấy, cũng
không nên kéo nhau ra hai bên vệ đường để tả xung hữu đột. Nói thế không có
nghĩa Phật Giáo là một tín ngưỡng chủ trương phải bịt tai, bịt mắt và bịt miệng
tương tự như hình ảnh của ba con khỉ. Bước vào con đường tức đã là một một sự
dấn thân rồi, thế nhưng sự dấn thân ấy không hề bắt buộc chúng ta phải mù quáng,
trái lại chúng ta phải nhìn thấy những gì đang xảy ra ở hai bên vệ đường hầu
giúp chúng ta ý thức được là mình phải nhanh chân và bước những bước vững chắc
hơn. Và đấy cũng chính là mục đích của bài chuyển ngữ bé nhỏ này.
Bures-Sur-Yvette, 26.09.13
Hoang Phong chuyển ngữ