Ajahn Jayasaro
Diệu Liên Lý Thu Linh chuyển ngữ
Tỳ
Kheo Jayasaro (thế danh: Shaun Chiverton) sinh năm 1958, tại Anh Quốc.
Năm 1979, ông tham dự khóa thiền tích cực với Sư Sumedho.Tháng 9, năm đó
ông đến Thiền viện Wat Pa Pong ở miền Đông Bắc Thái Lan, nơi ông đã thọ
giới xuất gia với vị Thiền sư trưởng lão nổi tiếng, ngài Ajahn Chah và
tu học theo Truyền Thống Forest Tradition, là một truyền thống thuộc Phật
giáo Nguyên Thủy.
Nhân mùa Vu
Lan, chúng tôi xin trích dịch một phần nhỏ trong quyển Daughters
& Sons, của Sư Ajahn Jayasaro để tặng các bậc cha mẹ và con cái Việt
Nam.
Tôi nghĩ hẳn là mẹ tôi đã phải chịu bao khó nhọc khi mang thai tôi.
Lúc đầu bà bị hành buồn nôn mỗi sáng, thời gian sau thì đi đứng trở
nên khó khăn. Mọi chuyển động đều đau đớn
và không thuận lợi.
Nhưng mẹ tôi đã chấp nhận cái khổ này vì bà tin rằng có điều gì đó
rất đáng công, và điều gì đó chính là tôi.
Khi còn nhỏ, việc gì tôi cũng phải nhờ đến cha mẹ,
vậy mà không hiểu sao tôi coi chuyện đó là bình thường –phải đâu bổn
phận của họ là phải cung cấp, cưu mang, còn tôi chỉ có quyền nhận?
Sau này, tôi có duyên được tu tập theo Phật giáo để
phát triển một nơi nương tựa thực sự ở bên trong, vì cha mẹ tôi đã tạo cho
tôi một chỗ nương tựa bền vững, đáng tin cậy ở bên ngoài khi tôi còn
trẻ. Họ đã thiết lập cho tôi một nền tảng vững bền
để tôi có thể toàn tâm toàn trí tu tập, chiến đấu với uế nhiễm.
Năm 20 tuổi, tôi đến Thái Lan để thọ giới xuất gia.
Cha mẹ tôi không phản đối vì họ muốn cho con trai có thể sống
theo ý nó muốn và được hạnh phúc. Cha mẹ tôi đã chấp nhận việc này và buông bỏ tất cả mọi kỳ
vọng họ đã đặt vào tôi.
Năm ngoái, mẹ tôi đã thú nhận rằng ngày tôi ra đi là
ngày buồn nhất trong đời của mẹ. Nghe vậy tôi rất xúc động.
Điều gây ấn tượng ở tôi là mẹ đã rất
chịu đựng và che giấu nỗi khổ đau này suốt hai mươi năm vì mẹ không
muốn tôi phải bức rức vì chuyện này.
Sau khi đã trở thành một tu sĩ, đôi khi tôi không thể
không tự trách mình. Khi còn sống bên cạnh mẹ cha, mỗi ngày
tôi đều có cơ hội để làm điều gì đó, hầu đáp lại chút tình thương mà họ đã dành cho
tôi, nhưng tôi hầu như chẳng làm gì cả. Giờ tôi ước muốn bày tỏ
lòng biết ơn bằng trăm ngàn cách thì lại không thể vì tôi đã là tu sĩ
và sống cách xa họ hàng ngàn dặm. Thật đáng
trách.
Tôi chỉ còn có thể làm những gì mà các
vị tu sĩ vẫn làm hơn hai ngàn năm nay, là rải tâm từ đến cho họ mỗi
ngày.
Ở Thái Lan chúng tôi thường nghĩ tưởng đến ‘boon khoon’
(công ơn)
cha mẹ. Boon Khoon là niềm tin rằng
mỗi khi ta nhận được sự giúp đỡ, lòng tử tế của ai đó –nhất là khi được
ban tặng- là chúng ta đã mang một cái ơn.
Thiện nhân là người biết trọng ơn nghĩa, và ơn nghĩa sâu dày nhất trong
tất cả mọi ơn nghĩa là ơn nghĩa đối với cha mẹ.
Đức Phật đã dạy chúng ta phát triển lòng
biết ơn sâu sắc đến với cha mẹ, và ý hướng đáp trả ơn cha mẹ bằng những
phương cách tốt nhất mà chúng ta có thể thực hiện.
Lúc nhỏ, tôi đã không được dạy dỗ về các giá trị này.
Dĩ nhiên, trong nền văn hóa phương Tây cũng có tình thương yêu, gắn bó
giữa cha mẹ và con cái, nhưng nói chung sự quan
tâm, lòng biết ơn lẫn nhau thường ít được coi trọng. Trong khi các
giá trị khác như là tự do cá nhân, tính tự lập thì lại được chú trọng
hơn. Tình cảm thâm sâu, gắn bó giữa cha mẹ và con cái có thể cũng
được nhiều người cảm nhận, nhưng nó không được truyền thông rộng rải như
một đạo lý chung trong xã hội như trong văn hóa Phật giáo, thí dụ như ở
Thái Lan.
Việc chúng ta phải coi trọng công ơn cha mẹ có thể được tìm
thấy trong giáo lý của Đức Phật về Chánh kiến trong đời sống thế tục,
nền tảng giúp ta hiểu điều này điều nọ trong cuộc sống.
Trong kinh điển Pali, Đức Phật dạy rằng ta phải tin rằng cha ta là thật,
mẹ ta là thật. Có thể bạn sẽ bỡ ngỡ khi đọc điều này phải không? Tại sao Đức Phật phải dạy chúng ta một điều quá hiển nhiên?
Có ai không biết rằng mình được sinh ra trong cõi
đời này là vì cha mẹ mình thực sự có?
Chúng ta cần phải hiểu rằng những lời dạy đó chỉ là
ẩn dụ thôi. Điều Đức Phật muốn dạy là chúng ta cần phải
biết rằng có một ý nghĩa đặc biệt trong quan hệ giữa cha mẹ và con cái,
một ý nghĩa mà ta phải chấp nhận và tôn trọng. Mối liên hệ giữa
cha mẹ và con cái thật sâu sắc và huyền bí. Đức
Phật dạy rằng không có nghiệp báo nào nặng hơn hành động giết cha hay
mẹ.
Trong từ ngữ Pali đó là anantariya kamma –nghiệp
này nặng nề đến nỗi người gây nghiệp không thể nào tránh khỏi những
hậu quả gớm ghê, dầu người đó có thật tâm hối hận đến mức độ nào.
Như thế khi Angulimala có thể trở thành một vị A-la-hán dầu đã giết 999
người, thì điều đó sẽ không thể xảy ra nếu ông giết chỉ một người, mà
người đó là cha hay mẹ ông.
Đức Phật không dạy về mối liên hệ thâm sâu này như là một
phương tiện thiện xảo để quảng bá các giá trị trong đời sống gia đình. Nhưng đó là một chân lý vượt thời gian mà Ngài đã khám phá ra
và sau đó truyền dạy lại vì lợi ích của chúng sanh. Giáo lý
quan trọng đó dạy rằng mối liên hệ giữa cha mẹ và con cái rất sâu dày và
có thể đã diễn ra qua nhiều kiếp sống. Do đó, chúng ta phải chấp
nhận, tôn trọng, và gìn giữ mối liên hệ đó.
Tóm lại, có thể nói rằng được sinh ra trong kiếp này là
để chúng ta tiếp tục ‘bổn phận còn dang dở’ đối với mẹ cha.
Có khi công việc còn dang dở này được thể hiện ra một cách không tốt
đẹp, như khi đứa bé bị cha mẹ bỏ rơi, hay bị cha mẹ bạo hành thân xác
hay tâm hồn. Có những hoàn cảnh như thế, và dường
như ngày càng nhiều hơn. Nhưng những điều tệ hại mà cha mẹ
có thể mang đến cho con cái như thế cũng không xóa bỏ được mối liên hệ thâm
sâu này.
Kiếp sống này chỉ như là một cảnh trong vở tuồng nhân
sinh dài dẵng, chúng ta không biết điều gì đã xảy ra trong những kiếp quá
khứ.
Sống trong một xã hội nhân ái, dĩ nhiên chúng ta phải làm
mọi cách để bảo vệ trẻ em khỏi bị xâm phạm. Chúng ta phải
tỏ rõ việc không thể chấp nhận những điều đó, và phải đối xử với
các bậc cha mẹ phạm tội này đúng theo
quy luật xã hội hiện hành. Nhưng đồng thời chúng ta cũng phải bảo
vệ tâm khỏi sự sân hận và thất vọng bằng cách tự nhắc nhở rằng chúng ta
chỉ thấy một phân cảnh ngắn của một vở trường kịch, mà phần lớn đều
xa tầm mắt nhìn của ta. Quán
chiếu dựa trên chân lý này giúp nạn nhân của những việc bạo hành, xâm
phạm có thể tìm được phương cách để tha thứ cho những người có liên quan.
May thay, có rất ít các cha mẹ hoàn toàn nhẫn tâm với
con cái. Phần đông, như các kinh điển đã nói, cha mẹ đều như các
đấng Phạm Thiên đối với con cái, với tình thương yêu không lay chuyển, với
tâm từ bi và niềm hoan hỷ. Trong một số kinh, Đức Phật đã dạy chúng
ta làm thế nào để đáp trả tấm lòng trời biển của cha
mẹ. . . .
Đức Phật thuyết rằng nếu có người muốn trả ơn cha mẹ bằng cách cõng cả
hai lên vai, cả trăm năm, tận tụy phụng dưỡng họ, dầu họ có tiểu tiện
trên vai; hoặc dâng tặng cho cha mẹ bao của cải, mang đến cho cha mẹ bao
chức quyền, địa vị cao sang –dầu người con có thể làm tất cả những điều
này cho cha mẹ, người đó vẫn chưa thể bù đắp cho những gì mà cha mẹ đã
làm cho họ.
Tuy nhiên, nếu cha mẹ không có hoặc ít có lòng tin vào Phật pháp, thì
người con có thể khơi dậy lòng tin đó nơi cha mẹ, hoặc nếu cha mẹ không biết
tuân giữ giới hoặc trì giới không nghiêm mật mà người con có thể giúp cha
mẹ chuyển đổi, sống đạo đức: thí dụ người con có thể giúp cha mẹ keo kiệt
tìm được niềm vui trong việc bố thí, giúp đỡ người khác hay giúp cha mẹ
phát triển trí tuệ để chiến thắng tâm uế nhiễu, chấm dứt khổ đau, thì
người con đó đã hoàn thành được những nhiệm vụ được coi là thực sự trả
được công ơn mà người đó đã mang đối với cha mẹ. . . .
Cách hành xử của con cái đối với cha mẹ thay đổi theo từng gia đình, vì
điều đó tùy thuộc vào nhiều yếu tố; thí dụ như số con cái trong gia đình,
độ tuổi của con cái; con cái còn sống trong gia đình hay đã ra riêng, ở
gần hay ở xa cha mẹ, vân vân.
Khi cha mẹ già yếu, người con có hiếu phải chăm sóc họ.
Nếu thực sự điều này không khả thi (chứ không phải là viện lý do), thì
họ phải thăm viếng cha mẹ thường xuyên, hay chí ít cũng phải gọi điện
thoại hay viết thư thăm hỏi cha mẹ đều đặn, cũng như thông tin cho cha mẹ
biết cuộc sống của mình thế nào. Biết rằng con cái vẫn tưởng nhớ,
quan tâm đến mình là liều thuốc có thể mang đến cho cha mẹ tâm bình an,
liều thuốc này còn hiệu lực hơn cả các loại thuốc do bác sĩ kê toa.
Chúng ta phải giúp đỡ cha mẹ trong tất cả khả năng của mình.
Khi cha mẹ đau yếu, nếu ta có thể giúp tiền chữa bệnh thì quá tốt,
nhưng nếu ta nghèo, không thể làm điều đó thì hãy mang đến cho cha mẹ
những gì ta có –thí dụ như thời gian. Hãy ngồi bên họ, đọc
cho họ nghe hay chăm sóc họ theo cách tốt nhất mà chúng ta có thể làm (thí
dụ tắm rửa, làm vệ sinh, đút ăn hay bóp tay bóp chân cho họ) –những
việc làm này đối với cha mẹ đôi khi còn giá trị hơn tiền bạc hay bất cứ
món quà vật chất nào mà ta dành tặng cho họ.
Diệu Liên Lý
Thu Linh
Vu
Lan 2013
TVHS