Đuốc thiêng vẫn sáng: Kỷ niệm 50 năm (1963-2013) ngày Thầy Thanh Tuệ-Vị pháp thiêu thân
LGT: Đạo
Phật là đạo Từ Bi, Trí Tuệ, đem lại sự thanh thoát cho tâm hồn, khai phóng tư
tưởng tiến bộ, mở ra hướng đi hòa bình, khoan dung cho nhân loại.
Dẫu vậy, Phật giáo không sao tránh khỏi quy
luật thăng trầm, biến động
chung của thế giới. Tại Việt Nam, cuộc vận động lịch sử
của Phật giáo 1963, tuy đã gặp nhiều khó khăn, gian khổ, nhưng cuối cùng chân lý
lẽ phải đã thắng, đã đánh thức được lương tâm và lương tri của cộng đồng thế
giới.
Dòng thời gian lịch sử 50 năm (1963-2013)
đang đi qua, với nhiều biến thiên của chính thể, của dân tộc, nhưng “Trái tim
bất diệt” của Bồ tát Thích Quảng Đức, tinh thần xả thân bảo vệ chánh pháp của
các vị Thánh tử đạo “Vàng-Lam” vẫn còn
sáng mãi trong lòng Tăng Ni, Phật tử, nhân dân Việt Nam.
Bằng sự tôn kính của người con Phật, cũng
như thể hiện tấm lòng “tri ân tiền nhân”, HP xin thiệu đến quý độc giả vài nét về cuộc đời và hạnh nguyện của Đại đức
Thích Thanh Tuệ-Vị pháp thiêu thân, nhân ngày Tưởng niệm lần thứ 50 tại chùa
Phước Duyên-Huế, của tác giả Tâm Quang, qua tựa bài: Đuốc Thiêng Vẫn Sáng.
chùa
phước duyên, Huế-nơi thầy Thanh Tuệ tự thiêu 1963
ĐUỐC THIÊNG VẪN SÁNG
TÂM QUANG
Ngày 24
tháng 6 năm Quý Mão (ngày 13.8.1963) là ngày Đại đức Thích Thanh Tuệ, vị pháp
thiêu thân cúng dường Phật pháp, tại chùa Phước Duyên, Huế. Từ ấy đến nay, thời
gian trôi qua đã tròn Năm Mươi Năm, nhưng ngọn Đuốc Thiêng mà Người thắp lên vẫn
rực sáng giữa lòng Đạo pháp, dân tộc và nhân loại.
Sinh
ra và lớn lên trong thời kỳ đất nước đang đắm chìm trong vòng nô lệ của ngoại
bang, sống trong một xã hội đầy dẫy sự bất công áp bức, niềm tín ngưỡng tâm linh
cao đẹp của dân tộc bị chà đạp, sự sinh hoạt tôn giáo bị đối xử bất bình đẳng,
thiếu tự do. Từ đó, đã tạo nên cho Phật giáo Việt Nam một cuộc
đấu tranh không khoan nhượng, quyết tâm đòi hỏi tự do tín ngưỡng và bình đẳng
tôn giáo dù phải hy sinh xương máu.
Nhìn
thấy các bậc chư tôn Trưởng lão Hòa thượng, chư Thượng tọa Đại đức Tăng Ni, cùng
các thế hệ Phật tử cha anh, đang ngày đêm quật cường đấu tranh cho sự tồn vong
của Đạo pháp, nhiệt huyết của tuổi trẻ như trào dâng, đã thôi thúc Người đi đến
một quyết định làm rung động trái tim của mọi người con Phật và lay động cả
lương tâm nhân loại trên toàn thế giới.
Hạnh nguyện
“vị pháp thiêu thân” cao cả của Người không chỉ tiếp nối ngọn đuốc Thiêng sáng
ngời của Bồ tát Quảng Đức, của Đại đức Nguyên Hương, mà Người đã tiếp tục dấn
thân cho một quá trình đấu tranh trong tinh thần “bất bạo động” trước một chính
quyền vô nhân, hung hãn.
Người
không chỉ góp phần đẩy mạnh phong trào đấu tranh của Phật giáo Việt Nam nhanh
chóng đến ngày thắng lợi, mà Người còn đại diện xứng đáng cho cả một thế hệ Tăng
sinh trẻ của Phật giáo Việt Nam nói riêng và cho cả một thế hệ Thanh, Thiếu niên
Việt Nam nói chung bằng tất cả chí khí kiêu hùng, tinh thần bất khuất và ý thức
trách nhiệm cao cả của một người con dân nước Việt, của một vị “Sứ giả Như Lai”.
Hạnh
nguyện “vị pháp thiêu thân” cao cả của Người, là một chứng minh cụ thể tấm lòng
son sắt của người con Phật yêu chuộng tự do, bình đẳng, nhưng cũng vô cùng kiên
cường, bất khuất trước nạn cường quyền, áp bức.
Câu nói của
Người, trong bức thư gởi cho thân phụ, trước lúc tự thiêu đã đánh thức lương tâm
và trách nhiệm của mọi người con Phật lúc bấy giờ, cũng như hôm nay và cho đến
các thế hệ con cháu mai sau:
“Con đã ý thức được sự tồn vong của Đạo
pháp, con hy sinh bản thân con để làm tròn bổn phận của người xuất gia, cái chết
là một lẽ dĩ nhiên mà tất cả mọi người và sinh vật, cậu không nên buồn”.
Hôm
nay, nhân lễ kỷ niệm 50 năm (1963-2013) ngày Người hiến thân cho Đạo pháp, thế
hệ Thanh, Thiếu niên Phật tử chúng con hôm nay, xin thành kính đốt nén tâm hương
vọng bái giác linh Người, xin chiêm ngưỡng di hình tỉnh mặc để ôn lại phần nào
Thân thế và hạnh nguyện lớn lao của Người, để làm hành trang trên bước đường tu
tập, hoằng dương và hộ trì Chánh pháp.
Người
sinh ra trong một gia đình Phật giáo trung nông, trên miền đất “Hải Lăng” của
tỉnh Quảng Trị, miền đất mà lịch sử Phật giáo Việt Nam đã trân trọng ghi nhận là
nơi xuất hiện nhiều bậc Cao tăng thạc đức, nhiều đấng long tượng ra đời mà sự
nghiệp hoằng dương Chánh pháp lừng lẫy của quý ngài đã làm rạng rỡ ngôi nhà Phật
giáo Việt Nam suốt bao nhiêu thế kỷ.
Người
họ Bùi, húy Huy Chương, sinh năm Bính Tuất, 1946, tại thôn Ba Khê, xã Hải
Thượng, quận Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân phụ là cụ ông Bùi Dư, thân mẫu là cụ
bà Hoàng thị Phục. Ông bà sinh hạ được 5 người con (3 trai, 2 gái), Người là con
thứ tư, sau hai anh và một chị.
Thác sinh trong một gia đình mà song thân đều là người hiền lành, chất phát và
rất sùng phụng Tam bảo. Năm anh chị em đều là những người con hiếu thảo
với cha mẹ và sống rất hòa thuận với nhau. Khung cảnh gia đình sum vầy, êm ấm ấy
đã un đúc cho Người những đức tính cần cù, nhẫn nại,
siêng năng, chăm chỉ trong học tập.
Năm
lên 7 tuổi (Quý Tỵ,1953) được thân phụ cho theo học chữ Quốc ngữ với một thầy
giáo mở trường dạy học trong làng. Năm lên 8 tuổi (Giáp Ngọ, 1954), Người theo
học trường Tiểu học trong quận, đến năm 12 tuổi (Mậu Tuất, 1958), Người thi đậu
văn bằng Tiểu học.
Trong suốt
quãng đời niên thiếu ấy, Người lại thường được theo
thân phụ lên chùa lễ Phật, nghe chư Tăng giảng pháp. Cuộc sống
trang nghiêm, thanh tịnh chốn Thiền môn đã ảnh hưởng sâu sắc đến tâm trí của
Người.
Từ đó, Người luôn nung nấu chí nguyện xuất gia cầu đạo giải
thoát.
Năm 14 tuổi (Canh Tý 1960), Người được thân phụ cho phép vào chùa Phước Duyên,
Huế, cầu xin xuất gia thọ giáo với Hòa thượng khai sơn Tâm Ưng Đảnh Lễ
(1918-1968). Với nguyện lực kiên cường và quyết tâm cầu
pháp. Lần đầu tiên được diện kiến trước một bậc Cao tăng uy nghiêm, đức
độ, nhưng qua những lời vấn nạn, Người đã ứng đáp thông suốt, lanh lẹ, thể hiện
tư chất thông minh, giàu nghị lực, nên liền được Hòa thượng khai sơn từ bi hứa
khả.
Suốt
thời gian “hành điệu”, Người đã tỏ rõ là một chú Điệu siêng năng, cần mẫn, chấp
tác mọi công việc không lúc nào nề hà khó nhọc, nên rất được Hòa thượng khai sơn
hết mực thương yêu và tận tình giáo dưỡng.
Trong thời
gian này, Người được Hòa thượng khai sơn cho theo
học lớp Sơ đẳng rồi lên lớp Trung đẳng tại Phật học đường Báo Quốc. Ngoài chương
trình Nội điển, Người còn được tiếp tục theo học chương trình Phổ thông tại
trường Trung học Bồ Đề Thành Nội, Huế (Nay là trường Trung học cơ sở Thống Nhất,
ở đường Đặng Dung, phường Thuận Thành, thành phố Huế).
Năm
16 tuổi (Nhâm Dần, 1962), Người được Hòa thượng khai sơn y chứng cho làm đệ tử
với Hòa thượng Nguyên Ngọc Tánh Hải (Hòa thượng Tánh Hải là trưởng tử của Tổ
khai sơn Tâm Ưng Đảnh Lễ. Ngài hiện trú trì chùa Linh Sơn, Đà Lạt, tỉnh Lâm
Đồng). Sau khi lãnh thọ giới Sa-di, được Bổn sư đặt pháp danh
là QUẢNG TRÍ, pháp hiệu là THANH TUỆ. Thể nhập đời thứ 45 dòng Thiền Lâm
tế Chánh tông, đời thứ 11 dòng Thiền Thiệt Diệu Liễu Quán.
Năm
17 tuổi (Quý Mão,1963), Người tốt nghiệp văn bằng Đệ nhất cấp niên khóa
1962-1963.
Lúc
Người dự thi tốt nghiệp, cũng là lúc khí thế đấu tranh đòi tự do tín ngưỡng và
bình đẳng tôn giáo của chư tôn đức Tăng Ni và Phật giáo đồ Việt Nam với chính quyền
Ngô Đình Diệm đang diễn ra vô cùng quyết liệt. Nhìn cảnh tượng đấu tranh hào
hùng, bất khuất của chư Tăng Ni và Phật giáo đồ dưới sự đàn áp vô cùng dã man
của bạo quyền Ngô Đình Diệm, thực trạng ấy đã gây cho người Tăng sinh tuổi đời
còn vị thành niên vô cùng bức xúc.
Suốt mấy ngày liền, Người đã âm thầm suy tư, để rồi tự thân dứt
khoát bằng một quyết định là “tự nguyện thiêu thân” để cúng dường Phật pháp và
thức tỉnh nhân tâm.
Người nghĩ và Người đã quyết tâm thực hiện. Vào nửa
khuya ngày 24 tháng 6 năm Quý Mão (ngày 13.8.1963), Người lặng lẽ một mình ra
trước cổng tam quan chùa Phước Duyên, Huế, sau khi tĩnh tọa, Người tự tẩm xăng
vào lớp áo “Nhật bình” và châm lửa để “tự thiêu”.
Ngọn
lửa đại hùng từ thân xác Người đã bùng lên, tỏa sáng cả một bầu trời đêm đen
thẳm trước cổng tam quan chùa. Tăng Ni, Phật tử khắp các nơi nghe tin đã nhanh
chóng tấp nập kéo về nơi Người tự thiêu đông vô số kể. Vừa để chiêm bái, cầu
nguyện, vừa để cùng chư
Tăng, Phật tử, di chuyển nhục thân của Người lên chùa Từ Đàm để tổ chức tang lễ
theo yêu cầu của chư tôn giáo phẩm lãnh đạo Năm cấp Trị sự Tổng Hội Phật giáo
Việt Nam lúc bấy giờ.
Nhưng
khi đoàn di chuyển nhục thân của Người vừa mới qua đến khu vực chùa Thiên Mụ,
thì bất ngờ lực lượng công an, cảnh sát của bạo quyền Ngô Đình Diệm đã bao vây
từ mọi phía, lưỡi lê, súng đạn ào ạt tấn công vào đoàn người di chuyển nhục thân
của Người, rồi cướp mất nhục thân đem về chôn giấu nơi quê hương của Người,
không cho Giáo hội tổ chức tang lễ của Người theo nghi thức Phật giáo.
Mãi
cho đến năm Canh Ngọ, 1990, chư tôn đức chùa Phước Duyên, Huế mới đưa di hài của
Người về cung táng và xây dựng bảo tháp phía trước cổng tam quan chùa Phước
Duyên.
Qua những bức thư Người viết để lại trước lúc tự thiêu, với lời lẽ chân thành,
tha thiết nhưng cũng vô cùng mạnh mẽ, đã thể hiện rất rõ quyết tâm và ý thức cao
độ của Người đối với sự an nguy của Đạo pháp và dân tộc.
Trong bức
thư Người gởi cho chư tôn đức Tăng Ni và Phật giáo đồ Việt Nam, có đoạn Người
viết: “Trước khi về cõi Phật, tôi trân trọng gởi đến quý ngài lời chào tối hậu
và tôi xin thành kính cầu nguyện Hồng ân Tam bảo, Bồ tát Quảng Đức, liệt vị
Thánh tử đạo gia hộ quý ngài pháp thể khinh an, để đoàn kết sau lưng Hòa thượng
Hội chủ Thích Tịnh Khiết và Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo, tranh đấu cho nền
tín ngưỡng của dân tộc và yêu cầu chính phủ thực thi những nguyện vọng tối thiểu
mà quý ngài đã ghi trong các biểu ngữ và trong các báo chí Phật giáo”.
Trong
bức thư
gởi cho thân phụ và gia đình, Người đã dự tri được những điều nguy khó mà thân
phụ và gia đình phải gánh chịu sau khi Người tự thiêu. Trong thư có đoạn Người
khuyên thân phụ:
“Con chết đi, cậu phải đương đầu với mọi
đe dọa, nhưng cậu đừng sợ, đừng xiêu lòng, khi họ dùng những mánh lới khác, mà
cậu phải hy sinh hoàn toàn cho Phật giáo, dù cho bản thân tứ đại của cậu phải bị
diệt vong. Lần cuối cùng, con kính lời đến gia đình con, quý bác, chú thím, cô
dì, cậu mợ và quý anh chị em thúc bá nội ngoại gần xa, lời chúc vĩnh biệt trước
khi con về cõi Phật”.
Trong
bức thư gởi “Hai thầy và đạo hữu chùa Phước Duyên” Người chỉ viết ngắn gọn có
mấy dòng, mà chan chứa tình cảm và thể hiện ý thức thức trách nhiệm sâu sắc sứ
mệnh của người xuất gia: “Trước khi về cõi Phật, tôi kính cẩn chào quý
thầy và đạo hữu ở lại được mạnh giỏi để phụng sự đạo pháp, noi gương vô úy của
cố Hòa thượng Quảng Đức”.
Cuối
cùng là bức thư Người gởi cho Tổng Tống Ngô Đình Diệm, nhà lãnh đạo nước
Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ. Qua giọng nói và những đòi
hỏi đanh thép trong bức thư này, lịch sử đã khẳng định: Người không còn là một
vị Tăng sinh 17 tuổi, Người không còn là một chú Sa-si vừa mới được lãnh thọ
giới pháp, mà Người đã trưởng thành như một bậc xuất gia trưởng thành, pháp vị
và pháp tự của Người xứng đáng dự vào hàng ngũ của các bậc “Trưởng tử Như Lai”.
Khi Người mạnh mẽ đòi hỏi: “Hãy
chấm dứt mọi tình trạng khủng bố và áp bức Phật giáo đồ và thả gấp tất cả những
Phật tử bị bắt giam kể từ ngày mồng 8 tháng 5 năm 1963 đến nay. Hãy giải quyết
thỏa đáng những nguyện vọng của Phật giáo đồ đã nêu trong các biểu ngữ…”
Năm
mươi năm - Người đã an nhiên đi vào cõi Niết bàn tịch
tịnh, nấm tro yêu quý của Người đã vĩnh viễn nằm yên dưới lòng tháp mộ. Nhưng pháp thân vòi vọi của Người vẫn tỏa rạng giữa lòng Đạo pháp,
dân tộc và với cả hồn thiêng sông núi.
Pháp
danh và pháp hiệu cao quý của Người vẫn mãi là dấu ấn sâu đậm trong lòng
chư tôn đức Tăng Ni và Phật tử Việt Nam hôm nay và mai sau… Hạnh nguyện
cao cả của Người cũng sẽ mãi mãi là tấm gương sáng chói, soi đường cho hàng Phật
tử hậu thế chúng con trên lộ trình tu tập, hoằng dương và hộ trì Chánh pháp.
Năm
Mươi Năm - Người đã đi - nhưng bóng hình của Người vẫn hiển hiện dưới mái chùa
thân yêu, ngày đêm trầm hương vẫn xông ngát bên di ảnh và long vị của Người.
Mảnh đất nơi Người tự thiêu, Hòa thượng trú trì và chư tôn đức chùa Phước Duyên đã quyết định xây dựng bảo tháp
để làm nơi Người yên nghỉ. Đây cũng là nơi để hàng Phật tử hậu thế chúng con
được chiêm bái một chứng tích lịch sử hào hùng của Phật giáo Việt Nam trong thời
kỳ Pháp nạn đầy nước mắt và máu xương của biết bao thế hệ Tăng Ni và Phật tử.
Trên
bức bình phong hậu bảo tháp, Thiền sư Tâm Quán, bậc Cao tăng thế hệ tiền bối, đã
không ngớt lời xưng tán hạnh nguyện cao cả của Người.
Đau thế gian ngã gục người học
Tăng bé nhỏ
Em đốt tuổi xuân thành lửa đỏ,
Cháy ngất trời cao,
Ngọn đuốc rực về sông núi âm u.
Ôi !
thịt xương em,
Cho tôi quỳ ngàn năm trên đống tro yêu quý.
Luyện phép linh thiêng,
Biến em thành hoa hồng trở lại
Những đóa sen búp đầu mùa
Chưa kịp hái, chưa từng nở thấy ánh hào quang.
Tôi nghe rồi, em mưa gió phũ phàng
Tôi nghe rồi, em từng tế bào rưng rưng trong cơ thể.
Tôi nghe rồi, tiếng gọi em vang.
Không ai quên đâu, địa ngục hay thiên đàng,
Đều ngó em, tim thế gian đập mạnh,
Trời đất nhìn nhau, trời cao bay thấp.
Tên em viết bằng chữ trăng sao.
Lửa cháy em tôi,
Ôi !
là xương là thịt
Em có đau không ?
Nước mắt tôi không đủ để tưới lên mát dịu
hồn
em bé nhỏ thương đau.
bảo
tháp Thầy Thanh Tuệ
Cao quý thay!
Năm Mươi Năm - Ánh Đuốc Thiêng Người thắp lên vẫn rực sáng trong sứ mệnh hoằng
dương và hộ trì Chánh pháp của mọi người con Phật, trong đó có hàng Thanh, thiếu
niên Phật tử hậu thế chúng con.
Nhất tâm đảnh lễ:
NAM
MÔ LÂM TẾ CHÁNH TÔNG TỨ THẬP NGŨ THẾ VIỆT NAM PHẬT GIÁO VỊ PHÁP THIÊU THÂNTHƯỢNG
QUẢNG HẠ TRÍ HIỆU THANH TUỆ ĐẠI ĐỨC.
Tác đại chứng minh.