Theo quan điểm của nhà sư Buddhadasa
Eric Rommeluère
Lời giới thiệu của người dịch:
Éric Rommeluère là một nhà sư người Pháp sinh năm 1960, khởi sự tập thiền từ năm
1978 dưới sự hướng dẫn của thiền sư Teisen Deshimaru. Một năm sau ông xin quy y
và hai năm sau đó thì ông chính thức xuất gia và thụ phong tỳ-kheo. Éric
Rommeluère ngày nay đã trở thành một vị thiền sư rất năng động. Ông tra
cứu và viết lách khá nhiều và là một tác giả rất cẩn thận. Ông chủ trương "một
người Phật Giáo trong thế giới ngày nay cũng nên - hoặc cũng có thể cần phải -
dấn thân vào sinh hoạt chính trị, kinh tế cũng như các hoạt động dân sự nhằm góp
phần mang lại một xã hội lý tưởng, xây dựng trên sự công bằng, hợp lý và nhân
đạo, xóa bỏ các cơ chế hiện tại để thiết lập một cấu trúc xã hội mới mẻ hơn".
Cách nay không lâu ông cho xuất bản một quyển sách mang tựa đề là Chư Phật sinh
ra trong lửa bỏng (Les Bouddha naissent dans le feu, Sueil, 2007), quyển sách
này được nhiều người biết đến và đã phản ảnh thật rõ nét hoài bão và tư tưởng
của ông.
Quyển sách mới nhất của Éric Rommeluère vừa được xuất bản mang tựa Phật Giáo dấn
thân (Le Bouddhisme engagé, Sueil, tháng 2, năm 2013). Trong quyển sách này ông
cũng có nhắc đến thiền sư Nhất Hạnh và xem ông như một nhà sư dấn thân. Quyển
sách gồm 15 chương mà chương nào cũng đáng để chúng ta suy ngẫm, đặc biệt là
chương IX nêu lên các quan điểm của nhà sư Thái Lan Buddhadasa (1906-1993) và
của nhà sư Trung Quốc Thái Hư (1889-1947) về hai mô hình lý tưởng của một xã hội
Phật Giáo đáng để chúng ta lưu ý. Là một vị thiền sư thuộc học phái Tào Động,
thấm nhuần văn hóa Tây Phương, Éric Rommeluère đã phân tích tư tưởng và
hoài bão của hai nhà sư Á Châu thuộc hai tông phái khác nhau là Theravada và
Tịnh Độ một cách rất tinh tế, hứa hẹn một món ăn tinh thần với nhiều gia vị "phức
tạp". Chúng ta hãy … "thưởng thức" hay nói đúng hơn và nghiêm chỉnh hơn là hãy
đọc để "suy ngẫm" về trọng trách của những người tu hành dù thuộc vào học phái
nào hay tông phái nào trong thế giới ngày nay.
Toàn bộ chương IX trong quyển sách của Éric Rommeluère sẽ được chuyển ngữ dưới
đây. Người dịch cũng xin mạn phép ghép thêm một vài ghi chú nhỏ trong bản dịch
với hy vọng giúp người đọc dễ theo dõi bản gốc hơn, các ghi chú này sẽ được
trình bày bằng chữ nghiêng và đặt trong hai dấu ngoặc. Ngoài ra một vài ghi chú
khác mang tính cách tổng quát hơn và một phần phụ lục cũng sẽ được ghép thêm sau
phần chuyển ngữ.
Bìa
quyển sách Phật Giáo dấn thân của
Éric
Rommeluère
Đạo
Pháp Xã Hội Chủ Nghĩa
Theo
quan điểm của nhà sư Buddhadasa
(Bouddhadasa
et le Socialisme dharmique)
(chương
IX, tr. 85-96)
H.1:
Nhà sư Buddhadasa (1906-1993)
H.2:
Thiền sư Eric Rommeluère (1960-)
H.3:
Nhà sư Thái Hư (1889-1947)
Với những tư tưởng đầy sáng tạo, một ngôn từ ngay thật, một thái độ thách đố, và
thường xuyên trích dẫn các học giả Tây Phương cũng như nói đến các tín ngưỡng
khác, và nhất là với con số trước tác đồ sộ (gần hai ngàn tác phẩm: vừa là sách,
các bài bình luận cũng như các bài thuyết giảng đã được xuất bản dưới tên ông)
nhà sư Buddhadasa Bhikkhu (1906-1993) đã để lại một dấu ấn thật sâu đậm đối với
Phật Giáo Thái Lan trong thế kỷ XX. Tư tưởng của ông xoay quanh chủ đích bình
giải lại Phật Giáo Theravada với những đường nét hiện đại nhằm mang lại một Phật
Giáo tân tiến vào tầm với của tất cả mọi người. Gần như suốt đời Buddhadasa sống
biệt lập trong một khu vườn mang tên là Suan Mokkh ("Khu vườn Giải Thoát") tách
biệt với các tổ chức tự viện mang tính cách truyền thống của xứ sở ông. Thế
nhưng khu vườn qua thời gian đã trở thành một nơi hành hương thiêng liêng trên
đất Thái. Mặc dù đã từng quan tâm đến các vấn đề chính trị từ khi còn trẻ thế
nhưng trong khi thuyết giảng hoặc viết lách thì có thể nói rằng ông không bao
giờ đề cập đến các vấn đề này. Trong bối cảnh của một thời kỳ hết sức ngột ngạt
vào những năm 1960 (giữa thời kỳ chiến tranh Việt Nam đang leo thang và cộng sản
Thái Lan khuấy động), đưa đến sự thành lập chính quyền dân chính vào năm 1973,
người ta bỗng thấy các bài thuyết giảng của Buddhadasa chuyển hướng một cách đột
ngột. Suốt một thập niên ròng rã, với những lời nói được mọi người kính nể và
một uy tín lớn lao cả nước đều biết đến, Buddhadasa liên tục thuyết giảng và cho
đăng các bài viết nhằm cổ vũ một hình thức chính quyền mới xây dựng trên giáo lý
Phật Giáo mà ông gọi là " Đạo Pháp xã hội chủ nghĩa" (Socialisme dharmique /
Dhammic socialism / Dhammica sanghaniyama), (Quyển sách này của Buddhadasa đã
gây được sự chú ý của nhiều người trong nước cũng như trên thế giới; ấn bản
tiếng Anh: Dhammic socialism, Bangkok 1986, bản dịch tiếng Pháp: Bouddhisme et
Socialismes, Paris, 2001)
Xã hội chủ nghĩa là một chữ rất dễ gây ra hiểu lầm, do đó Buddhadasa đã hết sức
cẩn thận rào đón nhằm ngăn chận mọi sự diễn đạt lệch lạc có thể xảy ra. "Đạo
Pháp xã hội chủ nghĩa" (có nghĩa là một thể chế xã hội chủ nghĩa xây dựng trên
Đạo Pháp hay thiết lập dựa vào Đạo Pháp) nhất thiết không phải là một hình thức
diễn đạt mới về chủ nghĩa Mác-xít hay Cộng Sản bằng cách dựa vào giáo lý Phật
Giáo. Thật vậy nhà sư Buddhadasa luôn chỉ trích gay gắt các chủ thuyết chính trị
này. Theo ông thuật ngữ trên đây (tức là "Đạo Pháp xã hội chủ nghĩa") chỉ nhằm
đề nghị một đường hướng tổ chức (dimension organique / organic system) gồm các
hệ thống sinh hoạt (systèmes vivants / living systems) khác nhau và trong tổ
chức đó mỗi cá thể sống chung với các cá thể khác nhằm tạo ra một tập thể xã hội
vừa đoàn kết và vừa năng động. Đạo Pháp xã hội chủ nghĩa nêu lên một mô hình
chính trị phù hợp với một hình thức tổ chức sinh hoạt chung (organicité /
organicity) trong cuộc sống mà quyền lợi xã hội phải dành ưu tiên cho từng mỗi
cá thể và cho tất cả các tập đoàn (corporations) tư nhân. Đạo Pháp xã hội chủ
nghĩa chủ trương ngược lại với các tổ chức xã hội ngày nay mang nặng tính cách
cá nhân chủ nghĩa và tự do chủ nghĩa. Trong các tổ chức xã hội này quyền lợi cá
nhân được xem trọng hơn là quyền lợi tập thể.
Xã
hội chủ nghĩa (sanghanayama) chống lại lý tưởng tự do cá nhân (liberté
individuelle / individual freedom) do chủ nghĩa tự do (liberalism) chủ xướng và
sẽ là một hình thức dân chủ được kiểm soát cẩn thận hơn, và nhất là thích nghi
hơn để loại bỏ mọi dục vọng của con người. Xã hội chủ nghĩa hướng nhiều hơn vào
các lợi ích chung bằng cách tìm hiểu và giải quyết các khó khăn xã hội. Trái lại
chủ nghĩa tự do chỉ có thể tạo ra một nền tảng mang lại một sự lợi ích nào đó
(có nghĩa là không được trọn vẹn) trên phương diện xã hội, lý do là vì xã hội ấy
chỉ khuyến khích (cổ vũ, chủ xướng) sự ích kỷ và việc thu nhập cá nhân hơn là
các quyền lợi xã hội.
(trích trong quyển Bouddhisme et Socialismes, Phật Giáo và các thể chế xã hội
chủ nghĩa, Paris, Les Deux Océans, 2001, tr. 75-76), đây là bản dịch tiếng Pháp
của quyển Dhammic Socialism của Buddhadasa Bikkhu, Thai Inter-Religious
Commission for Development, Bangkok, 1986),
Chế độ đó mang chủ đích kiến tạo một xã hội chủ nghĩa đích thật, tức có nghĩa là
một nếp sống tự nhiên của con người trước khi các luật lệ xã hội được đặt ra để
giải quyết các sự xung đột, thế nhưng trên thực tế thì một chế độ như thế sẽ
chẳng bao giờ có thể thực hiện được. Buddhadasa nêu lên chủ thuyết cho rằng sự
sống trong thể dạng nguyên sinh của nó mang tính cách đạo đức tự nhiên, tức
không xung đột và không bạo lực. Trong thể dạng nguyên sinh đó con người, thú
vật và thiên nhiên cùng tương tác với nhau trong một cuộc sống hài hòa; giới
sinh vật, thực vật và đất đá tương liên với nhau một cách thật hoàn hảo (phải
chăng Buddhadasa muốn nói lên thể dạng Phật Tính nơi tất cả chúng sinh và mọi
hiện tượng thiên nhiên?). Điểm nổi bật của thể dạng tự nhiên đó là sự vắng bóng
của mọi hình thức ích kỷ và mọi cảm tính về sự chiếm hữu. Từ khi con người khởi
sự vơ vét và tích trữ thì khi đó họ mới bắt đầu bị tách rời dần dần ra khỏi thể
dạng tự nhiên trước đây của họ. Tình trạng gom góp của cải sẽ đưa đến sự tranh
dành và bạo lực, và cuối cùng là chiến tranh và tình trạng con người bóc lột con
người.
Bối cảnh ấy không có gì mới lạ cả, không phải là một sự kiện tiến hóa
(evolution) tự nhiên mà đúng hơn là một sự thoái lùi (involution / thoái hóa,
suy sụp) của nhân loại. Thật ra Buddhadasa chỉ nhắm vào hoài bão làm sống lại
những huyền thoại cổ xưa về một thời đại vàng son và cũng để nêu lên sự thoái
hóa của nhân loại đang diễn ra nhan nhãn trong các nước theo Phật Giáo Theravada
ngày nay. Những huyền thoại đó đã được vay mượn từ Kinh Cội Nguồn (Agganna
sutta, kinh sách tiếng Việt gọi kinh này là Kinh Khởi Thế Nhân Bổn, tức là Kinh
thứ 27 trong Trường Bộ Kinh - Digha Nikaya) thuộc kinh sách chính thống của tông
phái Phật Giáo Theravada. Đây là quyển kinh mô tả về sự hình thành của thế giới.
Kinh này đặc biệt nêu lên nguồn gốc của bốn giai cấp cổ truyền trong xã hội Ấn
gồm: 1- các chiến sĩ (vua quan, những người lãnh đạo), 2- người Bà-la-môn, 3-
người lao động (nông dân và các người buôn bán), hàng tôi tớ và các giáo sĩ khổ
hạnh (xin lưu ý là các giáo sĩ của đạo Bà-la-môn thuộc vào giai cấp thứ hai).
Vào thời kỳ nguyên thủy con người rất tinh khiết và vô tính (có thể hiểu như
không bị thúc dục, chi phối và khích động bởi dục tính?). Các thói hư tật xấu
chỉ phát sinh ra sau này, và cũng chỉ từ khi đó thì một vị vua mới được đưa lên
để dàn xếp các cuộc xung đột dựa vào luật pháp do chính ông ta đặt ra. Vị vua
được lựa chọn căn cứ vào các lời hứa hẹn của vị ấy và mọi người đều phải nạp cho
ông ta một phần gạo. Uy quyền của vị vua được thể hiện bằng những lời phán quyết
của chính vị ấy (có nghĩa là các lời phán quyết của vị vua mang tính cách tuyệt
đối). Nếu có ai ăn cắp và nói dối thì vị vua sẽ "quở trách những ai đáng phải bị
quở trách, buộc tội những ai đáng phải bị buộc tội, đuổi đi những ai đáng phải
bị đuổi đi" (có nghĩa là bị đuổi ra khỏi bộ tộc hay bị đi đày. Ngày xưa - kể cả
trong lịch sử Việt Nam - không có nhà tù, người phạm tội nặng sẽ bị đày đi ở
những nơi xa xôi). Vị vua huyền thoại như vừa được mô tả cũng là vị vua thứ nhất
trong bộ tộc các chiến sĩ thuộc dòng họ Thích-ca (Shâkya) và cũng là tổ tiên xa
xưa của chính Đức Phật. Vị này mang tên là Mahâsammata, nghĩa từ chương là "Vị
Tôn Kính Vĩ Đại" (Mahâ có nghĩa là lớn, động từ samma có nghĩa là tôn kính). Vị
vua trong Kinh Cội Nguồn đúng ra phải mang tên là "Vị Vĩ Đại Được Ủy Thác" (được
ủy quyền hay được giao phó trọng trách), bởi vì tước vị này được gợi ý từ một
câu đã trở thành khuôn mẫu (trong nền văn hóa Ấn Độ): "được dân chúng ủy thác"
(mahâjanena sammato). Sau đó Kinh Cội Nguồn lại tiếp tục giải thích về nguồn gốc
của ba giai cấp còn lại bằng cách thuật chuyện với các câu mang cấu trúc và các
thuật ngữ giống nhau (lập đi lập lại). Nội dung của Kinh khá bí ẩn và đôi khi
còn cho thấy một vài nét hóm hỉnh vì thế nên rất khó diễn giải. Thiết nghĩ có
thể xem Kinh này tương tự như một câu chuyện ngụ ngôn nhằm ca ngợi các giới luật
mà người tỳ kheo phải giữ. Đã là một câu chuyện ngụ ngôn thì tất nó sẽ phải mang
tính cách luân lý. Cũng không cần phải dông dài: đấy là những lời răn dạy không
được phép gom góp tiền bạc (trong nguyên bản là épargne / saving, thrift / tiết
kiệm, dè xẻn, dành dụm, gom góp, cất giấu tiền bạc...) khiến cho nhân loại phải
lâm vào cảnh khốn cùng, và đấy cũng là cách giải thích tại sao các nhà sư khất
thực không được phép cất giữ cả thức ăn. Chữ "chấp nhận" (samata / agréé /
approve, accept / có nghĩa là phải tuân thủ, nói cách khác là không được phản
kháng) là một thuật ngữ thường thấy nêu lên trong các giới luật dành cho những
người tu hành đảm đang một số trọng trách nào đó trong cuộc sống tập thể nơi tu
viện. Trách nhiệm được giao phó cho vị vua là "quở trách, buộc tội và trục
xuất", và đấy cũng là các cách trừng phạt được các tập thể tăng đoàn mang ra
thực thi, chẳng hạn như nếu có vị tỳ kheo nào phạm vào các lỗi nặng thì sẽ bị
khai trừ (khi có một tỳ kheo phạm vào một giới luật thì tùy theo tính cách nặng
hay nhẹ của giới luật ấy sẽ bị quở phạt, tạm thời khai trừ hoặc vĩnh viễn đuổi
khỏi tăng đoàn).
Kinh Tiếng Rống Của Sư Tử (Cakhavatti-sihanâda-sutta / Thắng Man Kinh còn gọi là
Thắng Man Sư Tử Hống, Majjhima Nikâya, 12) và Kinh Cội Nguồn không nhất thiết bổ
khuyết cho nhau, thế nhưng cả hai lại liên kết khắng khít với nhau trong trí
tưởng tượng của các dân tộc trong vùng Đông Nam Á. Duy nhất chỉ có một điểm
giống nhau là cả hai bài kinh này đều cho rằng sự tích lũy tiền bạc (épargne /
saving / cất giữ, dành dụm tiền bạc) là yếu tố tiên khởi mang lại mọi sự xáo
trộn. Bộ luật của Manu (Recueil des Lois de Manu / Manuye dhammathat, một bộ
luật nổi tiếng của Miến Điện đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ Tây Phương và cũng
đã được nhiều luật gia Tây Phương nghiên cứu) là một bộ luật quan trọng của Miến
Điện được soạn thảo vào thế kỷ XVIII, bộ luật này mở đầu bằng một câu chuyện
phác họa lại huyền thoại về thời kỳ vàng son trên đây trước khi luật pháp được
thành hình. Thời kỳ lý tưởng đó đã biến mất khi con người bắt đầu gom góp của
cải vật chất. Quyền tư hữu tạo ra sự thèm khát và khốn cùng. Tóm lại là luật
pháp cũng chẳng có mục đích nào khác hơn là nhằm để cứu vãn sự suy sụp ấy của
nhân loại.
Nhà sư Buddhadasa đã khai thác các huyền thoại lâu đời trên đây, và theo ông thì
Phật Giáo là một tôn giáo mang nhiều tính cách xã hội chủ nghĩa hơn hết so với
bất cứ một tôn giáo nào khác, bởi vì Phật Giáo phản ảnh bản chất tự nhiên thật
lý tưởng mà con người đã làm sai hỏng đi. Chính vì thế mà Dharma (tiếng Pa-li là
Dhamma / Đạo Pháp) có thể xem như một ngành sinh thái học (écology) của tâm
thức, giúp tâm thức loại bỏ mọi tham lam, hận thù và vô minh hầu giúp nó quay
trở về với thể dạng tư nhiên và nguyên sinh của chính nó. Nếp sống đơn sơ và đạm
bạc của các tập đoàn tỳ kheo (tăng đoàn) là mẫu mực tuyệt vời nhất biểu trưng
cho lối sống tập thể của xã hội chủ nghĩa (những người làm chính trị - dù ở một
quốc gia nào hay dưới một chế độ nào - nên nhìn vào những người tu hành đi chân
đất ôm bình bát khất thực hằng ngày và chia cho nhau ăn, và sau khi đã ý thức
được ý nghĩa của nếp sống đó thì hãy thử nhìn lại cách ăn ở của mình, nhà cửa,
xe cộ, tiền bạc và số chứng khoán trong ngân hàng, cũng như quần áo, giày dép,
nữ trang, người hầu của vợ con mình thì sẽ hiểu ngay tại sao một quốc gia cần
phải có công an, quân đội, luật pháp và nhà tù), bởi vì giới luật của người tu
hành không cho phép họ dành dụm dù chỉ là một chút của cải (ngoại trừ vài manh
áo cà-sa thay đổi và một ít vật dụng tùy thân). Kể cả thức ăn họ cũng không được
phép cất giữ, mỗi ngày họ chỉ được phép khất thực đủ cho một bữa ăn và không
được giữ lại một chút thực phẩm nào sang ngày hôm sau.
Huyền thoại cũng có thể là một phương tiện giúp giải đoán ý nghĩa tàng ẩn trong
kinh sách. Những rối loạn xã hội và chính trị ở Thái Lan có phải đã phản ảnh
phần nào những xáo trộn vũ trụ được mô tả trong Kinh Tiếng Rống Của Sư Tử hay
chăng? Theo Buddhadasa thì câu giải đáp tất nhiên là phải thuộc vào lãnh vực đạo
đức và tín ngưỡng. Theo ông nếu căn cứ vào mô hình xã hội theo đó một tổng thể
đứng ra quản lý các thành phần thì sự hợp tác giữa các cá thể với nhau là một
yếu tố thật cần thiết, tương tự như mỗi cơ quan trong cơ thể con người đều phải
đảm trách một chức năng rõ rệt nhằm mang lại một sự vận hành hài hòa cho thân
xác và tâm thức. Ích kỷ và sự chiếm giữ của cải làm sở hữu riêng (nói theo thuật
ngữ Phật Giáo thì đấy là "cái tôi" và cái "của tôi") là những chướng ngại duy
nhất ngăn chận mọi sự hợp tác hài hòa. Thật hết sức rõ ràng là chủ nghĩa tư bản
phát triển bằng cách gom góp tiền bạc, chiếm hữu tài nguyên sẵn có, tư hữu hoá
các phương tiện sản xuất, và chính đấy là những gì đi ngược lại với Đạo Pháp
(anti-dharmic). Dù cho Buddhadasa chấp nhận rằng ngày nay không còn cách nào có
thể quay ngược trở về với bản chất tự nhiên như trước đây nữa, thì ít ra ông ta
cũng tin rằng tất cả mọi người đều có một thiện chí nào đó giúp họ nhất quyết
thay đổi các thể thức sản xuất, quy định lại mức tiêu dùng đúng theo nhu cầu
cũng như việc phân phối sự thặng dư. Một hệ thống kinh tế như thế nhất định sẽ
không thể nào thực hiện được với một nền kinh tế thị trường chỉ biết đặt sự cạnh
tranh lên hàng đầu.
Vậy trên thực tế phải làm thế nào để có thể xây dựng một nền Đạo Pháp xã hội chủ
nghĩa? Buddhadasa không chấp nhận thể chế dân chủ theo cách mà người ta thường
hiểu và cho rằng thể chế dân chủ tự do đó (démocratie libérale / liberal
democracy) và Đạo Pháp xã hội chủ nghĩa (socialisme dharmique / dhammic
socialism) là hai thể chế hoàn toàn đối nghịch nhau. Theo ông thì thể chế dân
chủ tự do mang nhiều sơ hở:
Nền
dân chủ tự do (démocratie libérale / liberal democraty) chủ trương một sự tự do
hoàn toàn, thế nhưng lại không xác định một cách rõ rệt nội dung của sự tự do ấy
là gì, những thứ ô nhiễm cá nhân (ô nhiễm là một thuật ngữ khá đặc thù của Phật
Giáo thường được sử dụng trong kinh sách để nói lên những xúc cảm bấn loạn và
sai lầm của con người, trong trường hợp này có thể hiểu như sự tham lam và các
tham vọng cá nhân) sẽ dựa vào đấy để tha hồ tung hoành. Khi các thứ ô nhiễm ấy
(tức là sự tham lam và những tham vọng cá nhân) càng trở nên trầm trọng thì
chúng cũng sẽ càng tác động đến mỗi cá thể khiến họ sẽ tìm đủ mọi cách để đòi
hỏi các quyền tự do của mình theo như ý mình muốn. Mặc dù lý tưởng tự do thật
hết sức tuyệt vời trên phương diện triết học, thế nhưng không thể đem ra áp dụng
được. Triết học không hàm chứa một sức mạnh nào có thể giúp chống lại tác động
của những thứ ô nhiễm của con người. Loại dân chủ đó không được lành mạnh bởi vì
con người một khi đã bị bóp méo bởi mọi thứ ô nhiễm thì họ cứ phó mặc cho chúng
tha hồ tạo dựng ra mọi thứ lý tưởng cho mình.
(Buddhadasa, Socialism according to Buddhism, Bangkok. Phra Nakhon Press, 1975,
tr.57-58)
Tuy gọi là Đạo Pháp xã hội chủ nghĩa thế nhưng thật ra đấy không phải là một thể
chế do người dân (tiếng Hy Lạp là demos) nắm giữ quyền bính qua trung gian của
các cơ quan chính phủ. Thể chế ấy không hề là một một nền dân chủ (démocratie /
democracy / dân chủ, gốc từ tiếng Hy Lạp demokratia, demos: là dân chúng,
kratos: là quyền lực) theo ý nghĩa thông thường mà phải hiểu là một thể chế do
"Đạo Pháp làm chủ" (dharmacratie / dhammacracy, dharmacracy / một thể chế xã hội
do Đạo Pháp làm chủ, nói cách khác là một thể chế xây đựng trên Đạo Pháp, quản
lý theo các tiêu chuẩn của Đạo Pháp), thuật ngữ "Đạo Pháp làm chủ" -
"dhammacracy" - là do chính Buddhadasa đặt ra. Đối với thể chế " Đạo Pháp làm
chủ" quốc gia và tôn giáo sẽ liên kết với nhau để trở thành một sức mạnh chung.
Một xã hội như thế chỉ có thể thiết lập được dựa vào uy tín của một vị lãnh tụ
quốc gia đạo đức, hội đủ khả năng mang lại hòa bình và trật tự cho xứ sở, và có
thể ví vị ấy như là một vị vua công lý (dharmaraja / dharma có nghĩa là Đạo
Pháp, raja có nghĩa là vua) hay còn gọi là vị vua khởi động bánh xe (cakravartin
/ cakra: bánh xe, vartin: làm chuyển động. Theo nền văn hóa xưa của Ấn Độ thì
chữ cakravartin có nghĩa là một vị vua lý tưởng cai trị dựa vào đạo đức và lòng
nhân từ). Vị vua ấy hành xử như một người cha đối với con cái và chính mình thì
phải tuân thủ mười giới luật do vua A-dục (Asoka) đưa ra (chi tiết của mười giới
luật này sẽ được trình bày trong phần phụ lục). Mỗi khi thuyết giảng Buddhadasa
thường hay nhắc đến vị vua gương mẫu này: "Vua A-dục là một Phật tử đã bảo toàn
được lý tưởng của một xã hội chủ nghĩa độc tài Phật Giáo" (id, tr.88). Vào những
năm 1973-1976, trong khi nhiều biến cố bất ổn xảy ra ở Thái Lan cho thấy một thể
chế dân chủ khó có thể thực hiện được và cũng nhân đó nhóm quân phiệt đã nhảy ra
nắm giữ quyền bính, thì Buddhadasa lại càng tỏ ra quả quyết hơn nữa trong việc
bảo vệ quan điểm của mình. Ông kêu gọi thành lập một thể chế chuyên quyền sáng
suốt (despotisme éclairé / enlightened despotism) để tái lập lại sự an bình xã
hội, và ông đã gọi thể chế này là một thể chế "dân chủ chuyên chế" (démocratie
dictatoriale / dictatorial democracy / tiếng Thái là parachatipatai phadetkân),
bởi vì theo ông người dân Thái đã bị vướng vào mạng lưới của mọi thứ ô nhiễm như
tham lam, hận thù và vô minh khiến họ mất hết các phản ứng tự động giúp mình
khôi phục lại các phẩm tính đạo đức. Buddhadasa cũng cho biết rằng dù trên
phương diện lý tưởng chính trị sẽ không thể nào có thể chấp nhận một chế độ độc
tài, thế nhưng trên phương diện thực hành thì chế đó cũng có thể là một giải
pháp tạm thời giúp giải quyết nhanh chóng các khó khăn xã hội. Thật vậy, một
lãnh tụ độc tài có thể hành động nhờ vào uy quyền của mình và không cần phải
tham khảo dân chúng hay một cơ quan chính phủ nào. Tuy nhiên vị độc tài ấy bắt
buộc phải tuân thủ mười phẩm tính đạo đức của một vị vua. Một thể chế xã hội xây
dựng dựa vào Đạo Pháp cũng có thể được xem như là một chế độ quân chủ với điều
kiện là người nắm giữ ngôi vua phải là người đạo đức:
Một
vị quân chủ hội đủ mười phẩm tính đạo đức của một vị vua (dasabidha raja dhamma)
có thể đại diện - với tư cách là một kẻ lãnh đạo chuyên quyền (despote /
authoritarian) - cho một thể chế xã hội chủ nghĩa mang ý nghĩa tinh khiết nhất
của nó. Các quyết định của vị này tất nhiên sẽ có thể mang lại kết quả nhanh
chóng. Hoàng đế A-dục là một thí dụ điển hình cho vị quốc vương lý tưởng trên
đây, tuy nhiên người ta cũng có thể kể ra thêm một vị vua gương mẫu khác trong
lịch sử nước Thái là Ramkhahaeng mà ngày nay không mấy ai còn quan tâm đến. Cứ
nhìn vào trường hợp của các vị vua ấy thì chúng ta tất sẽ thấy ngay: họ nào có
phải là những người độc tài đâu? Vậy họ có phải là những người xã hội chủ nghĩa
hay không? Nếu suy xét tường tận thì chúng ta cũng sẽ thấy rằng các vị ấy chính
là hiện thân cho một loại người xã hội chủ nghĩa mà chẳng có ai dám ước mơ, thế
nhưng loại người ấy đã từng cai trị tương tự như một người cha cư xử với con cái
mình. Đấy là những phẩm tính mà chúng ta cần phải khôi phục lại. Không nên tung
hô gì cả (có nghĩa là không rập khuôn hô to các khẩu hiệu do những người lãnh
đạo đưa ra) thế nhưng cũng đừng để mình bị lừa phỉnh bởi những hình thức tự do
của các hình thức dân chủ do cái tôi và cái của tôi (tức cái "ngã" của mỗi cá
thể) tạo dựng ra và áp đặt cho mình.
(Dhammic Socialism, id. tr 88 trong bản dịch tiếng Anh, hoặc trang 89-92 trong
bản dịch tiếng Pháp Bouddhisme et Socialismes, id)
Tất nhiên là không nên do dự gì cả, nếu đã chọn giải pháp trên đây thì nhất định
cần phải giải mã cẩn thận. Như đã nói đến trên đây, ở hầu hết các nước Á Châu và
đã từ bao nhiêu thế kỷ, chính trị và tôn giáo luôn là một cặp bài trùng không
thể tách rời nhau. Sự liên kết đó đã đưa đến giả thuyết cho rằng cần phải có hai
thứ dharma (Đạo Pháp), dharma của nhà vua và Dharma của Đức Phật, cả hai cùng
tương kết thật hài hòa nhằm mang lại lợi ích cho từng mỗi cá thể cũng như cho
toàn thể các tầng lớp trong xã hội (cũng xin mạn phép nhắc lại định nghĩa của
chữ dharma trong tiếng Phạn, chữ này có nhiều nghĩa: công lý, sự thật, Đạo Pháp,
tất cả mọi hiện tượng...). Buddhadasa nêu lên quan điểm của mình dựa vào truyền
thống văn hóa Thái Lan cho rằng tinh thần dân tộc, Phật Giáo và vương quyền lúc
nào cũng là ba cột trụ thiết yếu nhất trong việc bảo tồn xứ sở. Tất nhiên là các
chế độ độc tài thay nhau nắm giữ quyền bình từ năm 1958 đến 1973 đã khai thác cả
hai biểu tượng vương quyền và tín ngưỡng Phật Giáo nhằm khơi động tinh thần quốc
gia trong dân chúng để củng cố uy quyền của mình. Riêng đối với Buddhadasa thì
lại khác, ông chỉ quan tâm đến lý tưởng nêu lên trong các huyền thoại thuộc vào
tín ngưỡng của mình qua những góc cạnh mộc mạc nhất. Ông tin rằng những lý tưởng
đó thật hoàn hảo và chỉ cần đem ra áp dụng dể tái lập trật tự trong nước. Quan
điểm của ông không dựa vào một luận cứ mang tính cách xã hội hay chính trị nào
mang lại từ các công trình nghiên cứu cặn kẽ về cấu trúc và tình trạng xã hội
Thái Lan. Việc quy định các mẫu mực liên quan đến các lợi ích xã hội mà tất cả
mọi người phải thực thi chỉ được giao phó cho một cá thể tức là vị vua công lý
tự do thẩm định. Vị này biểu trưng cho một mẫu người lý tưởng và giữ vị trí
trung tâm của một xã hội không tưởng. Vị này chỉ cần dựa vào các phẩm tính đạo
đức và uy thế của mình để điều hành và khắc phục con người, tương tự như một thứ
khuôn mẫu chỉ đạo (leimotiv / mẫu mực chỉ đạo hay hướng dẫn). Buddhadasa cũng
không hề đưa ra các thể thức cũng như các cơ chế cần thiết trong việc tổ chức
bầu cử và chọn lựa, lại càng không nói gì đến các thể thức truất phế vị vua công
lý khi cần đến. Đấy cũng chẳng khác gì như một vị vua trong các câu chuyện huyền
thoại sử dụng quyền lực của dharma (Đạo Pháp) mà mình đang nắm giữ để biểu dương
uy quyền của mình (không cần đến các cơ chế cần thiết trong việc điều hành quốc
gia). Dầu sao nếu trường hợp trên đây có thật sự xảy ra trên thực tế đi nữa thì
vị vua công lý cũng sẽ không thể nào có thể quán xuyến được tất cả mọi việc, bởi
vì ông ta cũng sẽ không sao tránh khỏi bị chi phối bởi các tổ chức bên ngoài
(trước hết là hệ thống kinh tế), nếu không thì ông ta tất sẽ phải đóng cửa biên
giới lại để mà thực thi lý tưởng chuyên chế của mình (thiết nghĩ Éric Rommeluère
đã chỉ trích khá khắt khe quan điểm của Buddhadasa xuyên qua cách nhìn và quan
niệm của người Tây Phương về các tổ chức xã hội đã quen thuộc với họ. Có thể ông
ta đã quên rằng Buddhadasa không phải là một triết gia cũng không phải là một
nhà chính trị, những gì ông ta nêu lên chỉ biểu trưng cho lòng nhân từ, bao dung
và ngay thẳng của một người tu hành. Do đó không thể đòi hỏi nơi ông cách suy
nghĩ và các phẩm tính duy lý của người Tây Phương mà chỉ nên hiểu ông như một
nhà sư mang hoài bão mang lại sự hài hòa và an vui cho tất cả mọi người trong xã
hội bằng những phẩm tính đạo đức. Các cơ chế và cấu trúc xã hội có thể chỉ là
những chi tiết đối với Buddhadasa, những gì quan trọng và thiết yếu hơn đưới con
mắt của ông là lòng từ bi và nhân từ, sự ngay thẳng và lương thiện, công lý và
sự hài hoà trong xã hội, và đấy cũng là những gì mà Éric Rommeluère cho là không
tưởng).
Nếu căn cứ vào một số kinh sách xưa thì quyền lực giúp cho vị vua công lý cai
trị sẽ gồm có năm thứ uy lực gọi là "năm sức mạnh của một vị quốc vương", đó là:
quân đội, tài nguyên trong nước, quần thần, các vị tiền nhiệm (thừa kế và nhân
danh các vị vua tiền nhiệm) và trí sáng suốt. Buddhadasa cho rằng việc sự dụng
sức mạnh và sự trừng phạt để thực thi Đạo Pháp và nhằm gạt bỏ những người bất
tuân là chính đáng. Trong một buổi thuyết giảng dành cho các quan tòa Thái Lan
vào năm 1974 ông cũng có nhắc đến trường hợp của vua A-dục như sau:
[A-dục] đã tinh khiết hóa tăng đoàn bằng cách loại trừ những người chủ trương tà
thuyết và đòi hỏi mọi tầng lớp trong xã hội phải biết giữ gìn đạo đức. Tuy nhiên
A-dục không phải vì thế mà là một bạo chúa (cũng xin nhắc thêm là dưới triều đại
của vua A-dục nước Ấn rất phồn vinh. Vua A-dục phát triển Phật Giáo và ưu đãi
các tổ chức Phật Giáo cũng như các người tu hành. Con số nhà sư gia tăng nhanh
chóng, trong số này tất nhiên có những người lợi dụng thời cơ. "Mỗi vị làm vua
một cõi", tha hồ thu nạp đệ tử và diễn đạt Đạo Phát theo ý mình và trình độ hiểu
biết của mình. Tất nhiên một số các "chi phái" và "học phái" do các vị lợi dụng
thời cơ trên đây chủ xướng mang đầy sai lầm và mê tín. Vì thế vua A-dục phải tổ
chức lần Kết Tập Đạo Pháp thứ ba - thế kỷ thứ III trước Tây lịch - nhằm
khai trừ các nhà sư mê tín, thiếu trình độ và loại bỏ những thêm thắt lệch lạc
trong giáo lý. Luật Tạng và Kinh Tạng được chỉnh đốn và đã trở nên hoàn hảo hơn
từ đó và cũng đã được truyền bá khắp nơi - đặc biệt nhất là đã được đưa vào Tích
Lan). Ông là một người thật từ tốn và chỉ biết hành động vì lợi ích của xã hội.
Ông cho đào giếng khắp nơi, xây dựng phòng ốc cho dân chúng hội họp (cách cai
trị của vua A-dục rất dân chủ), ra lệnh trồng đủ các loại cây ăn trái và tất cả
mọi người đều được hưởng. Ông ta chỉ tỏ ra "độc đoán" khi nào có người không
thực thi các công tác lợi ích công cộng đã được giao phó, và chỉ trong các
trường hợp này thì họ mới bị trừng phạt [...] Sự trừng phạt ấy rõ ràng là mang
tính cách xã hội chủ nghĩa bởi vì đấy là các công tác mang tính cách lợi ích
chung cho toàn thể xã hội. Sư trừng phạt ấy nhất thiết không phải vì một lý do
cá nhân hay một sự ganh ghét nào cả.
(Dhammika Sangkhomniyom Baep Phadektan, Bangkok, Sublime Life Mission, 1975,
trích dẫn trở lại trong Bouddhisme et Socialismes, id, tr. 86)
Thật ra nếu chỉ dựa vào những lời phát biểu trên đây thì cũng khó để có thể
quyết đoán là Buddhadasa có hé thấy được chăng vấn đề bạo lực. Mặc dù ấp ủ nhiều
hoài bão thế nhưng tư tưởng của ông không được xây dựng trên một nền tảng triết
học chính trị hay đạo đức xã hội rõ rệt nào cả (đã được giải thích trong một ghi
trên đây: Buddhadasa chỉ là một người tu hành, không phải là một triết gia, một
chính trị gia hay một nhà xã hội học theo cách định nghĩa của người Tây Phương).
Sulak Sivaraksa một nhân vật trung kiên thuộc đảng dân chủ (Thái Lan) mặc dù hết
sức ngưỡng mộ Buddhadasa thế nhưng đã đứng ra ngoài các quan điểm chính trị của
ông. Thật thế không sao có thể chấp nhận một sự cổ vũ độc tài được, dù đấy là
Đạo Pháp đi nữa.
Thể chế Đạo Pháp làm chủ (dharmacratie / dharmacracy) là một tổ chức xã hội điều
hành bởi Đạo Pháp (Dharma / Dhamma), nói cách khác là một quốc gia tín ngưỡng
(État confessionnel / confessional State), và thật ra thì đấy cũng là một chủ đề
đã được nêu lên từ muôn thuở cho cả Á Châu. Nhà sư Trung Quốc Thái Hư (Taixu,
1889-1947, một vị đại sư có tư tưởng cấp tiến) cũng đã từng nêu lên một hình
thức xã hội không tưởng (utopia) đại loại như trên đây. Ông chủ trương thành lập
một khu vực tự trị và miễn thuế (zone franche / free zone) nhằm tạo ra một mảnh
đất Tịnh Độ với sự giúp đỡ của các cơ quan chính quyền. Theo ông nhiều nơi ở
Trung Quốc có thể dùng làm thí điểm, tuy nhiên ông chú ý hơn hết đến một vùng
núi thiêng gọi là Phổ Đà Sơn (Putuaoshan, chính xác hơn thì đấy chính là đỉnh
núi Phổ Đà - Potala) thuộc tỉnh Chiết Giang (Zhejiang). Vùng này sẽ được chánh
thức công bố là vùng thí điểm dành riêng cho các cộng đồng sinh hoạt tập thể
(phalanstères / co-operative corporations / theo nghĩa rộng thì chữ này có nghĩa
là các cộng đồng theo đuổi một lý tưởng chung và cùng sinh sống theo lối tập
thể). Một ngôi chùa thờ Đức Phật Thích-ca Mâu-ni sẽ được xây dựng nơi trung tâm,
đủ chỗ cho khoảng năm trăm đến một ngàn nhà sư lưu ngụ, chung quanh chùa là
những khu phụ thuộc dành cho những người mới thụ giáo và các nữ tu sĩ. Ba khu
vực làng mạc sẽ được thiết lập để đón rước những người thế tục đến định cư, số
người này có thể lên đến tám mươi ngàn người. Ba khu làng sẽ mang tên là: "Khu
làng Mười Giới Luật ", "Khu làng Năm Giới Luật" và "Khu làng Ba Giới Luật". Cách
đặt tên này được căn cứ vào ba cấp bậc đạo đức khác nhau. Ba khu làng sẽ được
phân bố theo ba vòng tròn đồng tâm chung quanh ngôi chùa. Mỗi gia đình được cấp
một mảnh đất, càng xa chùa thì diện tích đất càng nhỏ đi (sự giàu có được quy
định căn cứ vào trình độ đạo đức - ghi chú của tác giả). Nhà sư Thái Hư còn hình
dung ra từng chi tiết về cách tổ chức các làng mạc và đưa ra cả các quy tắc mà
người dân trong làng phải tuân thủ trong sự sinh hoạt chung. Những ốc đảo Tịnh
Độ này sẽ là bước đầu đưa đến sự hình thành của cả một xã hội mới. Dân chúng
sinh sống trong các làng có bổn phận phải quảng bá chương trình phát triển trên
đây, họ phải đón tiếp những người bên ngoài cũng như các vị đại diện chính quyền
đến viếng và khuyến khích họ thành lập những nơi như thế trên khắp địa cầu. Các
cộng đồng lý tưởng (phalanstères) này chưa bao giờ được thành hình trên thực tế
(sự chỉ trích của Eric Rommeluère về chủ đích của nhà sư Thái Hư có phần quá
khắt khe. Dù rằng Thái Hư mang tham vọng rất lớn là tạo ra một cõi Tịnh Độ trên
hành tinh này và dự án đó của ông mang nhiều khía cạnh "không tưởng" nếu không
muốn nói là khá "ngây thơ", thế nhưng không phải ông là một người chỉ biết tưởng
tượng suông mà thật ra rất thực tế, tích cực và cấp tiến, luôn nêu cao sự hiểu
biết khoa học và đả kích mọi hình thức tín ngưỡng dị đoan. Các bài viết và bài
giảng về chủ đề "Khoa học và Phật Giáo" của ông thu hút được sự quan tâm của
nhiều người trên thế giới. Ông quan niệm rằng cõi Tịnh độ không ở vào một nơi
nào khác hơn là thế gian này. Học giả Justin R. Reitzinger có nghiên cứu về cuộc
đời và tư tưởng của Thái Hư và có viết một quyển sách khá công phu về nhà sư này
mang tựa là "Taixu: To Renew Buddhism and Save the Modern World" (có thể xem
trên mạng Internet). Ngoài ra cũng còn có nhiều học giả Tây Phương khác viết về
ông. Sau khi qua đời các trước tác của ông được người sau gom chung thành 20
quyển và đã được xuất bản ở Đài Loan - Taipei, 1956. Một số sách và bài giảng
của ông cũng đã được dịch sang các ngôn ngữ Tây Phương).
Buddhadasa cổ vũ thành lập một thể chế do Đạo Pháp làm chủ (dharmacracy / tức là
một thể chế điều hành và quản lý bởi Đạo Pháp) thế nhưng lại không hề dự trù các
khó khăn nan giải liên quan đến thể chế đó. Mô hình xã hội trên đây được hình
dung như một khung cảnh sinh hoạt lý tưởng phi xung đột, một nơi mà tất cả mọi
người đều tuân thủ các giới luật đạo đức. Các mối liên hệ và tương giao trong sự
sinh hoạt được quy định rõ rệt tùy theo các trường hợp sinh hoạt mang tính cách
cá nhân hay tập thể, và mọi người đều phải tôn trọng. Tóm lại một nếp sống hài
hòa sẽ là nét nổi bật nhất của thể chế do Đạo Pháp làm chủ. Mọi sự xung đột đều
phải được xem như mang tính cách tiêu cực, phát sinh từ một sự vận hành lệch
lạc, rơi ra ngoài bản chất "tự nhiên" của trật tự xã hội. Trọng trách của vị vua
là tái lập lại trật tự đó, kể cả bằng sức mạnh nếu cần. Theo cách hình dung trên
đây thì thể chế Đạo Pháp làm chủ (dharmacracy / thể chế điều hành bởi Đạo Pháp)
sẽ đi ngược lại với thể chế dân chủ (democracy) bởi vì thể chế này được xem như
là một tổ chức sinh hoạt xã hội thường xuyên xảy ra xung đột - hoặc mang tiềm
năng làm phát sinh ra xung đột - giữa các khuynh hướng và quan điểm khác nhau
(trong thế giới tự do thương xuyên xảy ra những sự chống đối, biểu tình và xung
đột..., đó là tình trạng dằng co và căng thẳng trong việc đòi hỏi và bảo vệ các
quyền lợi cá nhân cũng như tập thể, chẳng hạn như giữa chủ nhân và công nhân,
giữa các tầng lớp dân chúng, giữa các đảng phái, chính quyền và nhân dân, v.v...
Những sự xung đột và chống đối đó sẽ tạo ra một thế "thăng bằng" gọi là dân
chủ). Những sự xung đột này sẽ được giải quyết một cách ôn hòa phi-bạo-lực nhờ
vào các tổ chức chính trị đứng ra điều hành, làm luật và trừng phạt (tức là các
cơ quan hành pháp, lập pháp và tư pháp). Thể chế dân chủ không tự khép mình vào
một trật tự sẵn có từ trước, bởi vì trật tự trong thể chế đó chỉ có thể phát
sinh từ quá trình vận hành của chính nó. Thể chế dân chủ có nhiều khả năng hơn
để hòa nhập với sự khác biệt, nhằm mang lại một sự hài hòa chung, trong khi đó
thể chế xã hội chủ nghĩa điều hành bởi Đạo Pháp (có thể hiểu rộng ra là một thể
chế chủ trương một sức mạnh khác hơn với quyền lực của người dân đứng ra làm
chủ) sẽ không có khả năng nào để hội nhập với sự khác biệt để khuất phục hoặc
loại trừ nó.
Vài
lời ghi chú của người dịch
Phật Giáo là một trong những tôn giáo lâu đời nhất của nhân loại vẫn còn tồn tại
và phát triển, và tất nhiên đã được hình thành trong một chế độ quân chủ. Các
thể chế dân chủ tân tiến ngày nay chỉ mới xuất hiện khoảng hai trăm năm là
nhiều. Chủ thuyết cộng sản và xã hội chủ nghĩa được manh nha ở Âu Châu từ thế kỷ
XIX, và Nga Sô là nước đầu tiên đã tự nhận mình là cộng sản vào năm 1917. Nếu
không muốn nói là một nạn nhân thì ít ra Phật Giáo cũng không liên hệ gì đến các
chế độ đó. Kinh sách đã được hình thành rất lâu trước khi nhân loại hình dung ra
được các thể chế dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên đây. Tuy nhiên với tư cách là
những người Phật Giáo chúng ta cũng nên tìm hiểu xem mình phải quan niệm như thế
nào về vị trí của Phật Giáo trong các xã hội ngày nay, và các "huyền thoại"
trong kinh sách kể lại các câu chuyện của các vị vua đạo đức trong quá khứ có
đáng để cho các nhà lãnh đạo ngày nay suy ngẫm hay chăng, và nhất là chúng ta có
nên tự hỏi đâu là bổn phận và trọng trách của mình đối với cộng đồng xã hội?
Đạo Pháp là Con Đường, cứu cánh là trí tuệ. Con Đường là sự cố gắng, trí tuệ là
sự an bình. Nếu đã là Con Đường thì đương nhiên đã biểu trưng cho một sự dấn
thân nào đó. Cả ba nhà sư Éric Rommeluère, Buddhadasa và Thái Hư đều là những
người tu hành dấn thân, thế nhưng mỗi người một cách. Éric Rommeluère cho rằng
hoài bão mang tính cách lý tưởng của cả hai nhà sư Thái Lan và Trung Quốc chỉ là
những huyền thoại, bởi vì dù có thực hiện được đi nữa thì cũng sẽ không thể điều
hành được. Lý do cũng dễ hiểu: bởi vì con người quá đa dạng và đã bị ô nhiễm quá
nặng nề bởi mọi thứ xúc cảm bấn loạn phát sinh từ bản năng và vô mình, do đó rất
khó để kêu gọi họ quay về với đạo đức, hoặc khép họ vào những khuôn phép và các
sinh hoạt tập thể tiêu biểu cho một xã hội lý tưởng.
Trong kinh Karmasataka-sutra (Bách Nghiệp Kinh) có nêu lên một câu như sau: "Sự
đa dạng của nghiệp đưa đến sự đa dạng của chúng sinh" (trích dẫn theo Kalou
Rinpoché, La Voie du Bouddha, Con Đường của Đức Phật, Seuil-Sagesse, 1993,
tr.177). Buddhadasa cũng đã nhận thấy điều đó và có lẽ vì thế mà ông đã đề nghị
nên thiết lập một chế độ xã hội chủ nghĩa điều hành bởi Đạo Pháp để "ép buộc"
con người phải tự biến cải và giúp mình tránh bớt được tác động của bản năng và
các cách hành xử vô minh. Trong khi đó Thái Hư lại chủ trương một nểp sống tập
thể, quy định bởi các quy tắc đạo đức - gồm ba, năm và mười giới luật - để quản
lý con người. Trái lại Éric Rommeluère không quan tâm đến yếu tố đạo đức mà chỉ
nghĩ đến thể chế dân chủ của các xã hội Tây Phương và chủ trương phải hòa nhập
với sự đa dạng của con người. Sau khi trình bày dông dài về tư tưởng và hoài bảo
của Buddhadasa và Thái Hư ông đã đưa ra một câu kết luận cuối cùng thật ngắn
gọn, kín đáo và sâu sắc: "thể chế dân chủ có nhiều khả năng hơn để hòa nhập với
sự khác biệt nhằm mang lại một sự hài hòa chung".
Thật vậy ngày nay dân chủ là một thể chế tương đối "hoàn hảo" và "phù hợp" với
con người hơn cả. Tuy nhiên nếu suy xét cẩn thận thì chúng ta cũng chỉ có
thể chấp nhận "một phần nào" mà thôi, đấy là tính cách uyển chuyển và khả năng
ứng phó của thể chế này đối với mọi biến động - mà Phật Giáo gọi chung là vô
thường - trong xã hội, mà không cần phải sử dụng đến các biện pháp độc đoán hay
một chế độ chuyên chế nào cả. Trái lại những gì mà chúng ta không thể chấp nhận
được trong thể chế này là xu hướng luôn tìm cách làm thỏa mãn các xung năng của
con người. Xu hướng đó sẽ mang lại nguy cơ đưa đến một xã hội tự do chủ nghĩa.
Thật vậy vô minh và bản năng luôn chi phối con người và biến họ trở thành tham
lam, thèm muốn, ích kỷ, hung bạo, dối trá..., và họ sẽ dựa vào chủ nghĩa tự do
đó để tạo ra một môi trường thuận lợi giúp cho bản năng tung hoành thỏa thích.
Vì nhận thấy điều ấy nên Buddhadasa đã chủ trương một xã hội chủ nghĩa điều hành
bởi Đạo Pháp (dharmic socialism) sử dụng một sự cứng rắn nào đó nhằm biến cải
con người hầu mang lại một xã hội nhân bản hơn. Xã hội chủ nghĩa điều hành bởi
Đạo Pháp sẽ không thể nào dung túng sự đánh thức và thả lỏng bản năng của con
người, cũng không chủ trương xây dựng một xã hội dựa trên sự chống đối và phân
chia quyền lợi, nhằm mang lại một sự dung hòa hay một thế thăng bằng tạm thời
nào đó theo chủ trương của chế độ dân chủ, và nhất là cũng không thể sử dụng sự
sợ hãi, áp bức hay tuyên truyền để quản lý con người như các xã hội độc đoán.
Phật Giáo luôn chủ trương phải yêu thương và kính trọng con người dù cho họ có
đần độn hay hung dữ đến đâu cũng thế, và nhất là khuyên chúng ta phải biết giúp
đỡ những kẻ khốn cùng, che chở những người yếu đuối, trấn an những người lo sợ,
đến gần với những kẻ cô đơn. Phật Giáo không hề chủ trương phải đấu tranh giai
cấp, phân chia quyền lợi, khai thác thị trường, gia tăng lợi nhuận, gom góp của
cải hay che dấu tài sản..., và do đó cũng có thể nói rằng Phật Giáo là một
Con Đường hoàn toàn riêng biệt và tách ra ngoài tất cả các thể chế trên đây. Đức
Phật từ bỏ cung điện và ngai vàng là một cách gián tiếp không tin thể chế quân
chủ - nếu nói theo ngày nay là các thể chế chính trị - lại có thể mang lại sự
giải thoát cho con người. Sau khi đạt được Giác Ngộ Ngài tiếp tục xa lìa thế
tục, ôm bình bát và đi chân đất để làm gương cho chúng ta. Ngài cũng đã thuyết
giảng suốt bốn mươi lăm năm cho đến một hôm thì kiệt lực: đấy là sự dấn thân của
Đức Phật.
Vào thời kỳ Đức Phật còn tại thế cũng đã có nhiều vị vua Phật Giáo, thế nhưng
đặc biệt hơn cả là vào thế kỷ thứ III trước Tây Lịch bất ngờ xuất hiện một vị
hoàng đế khác thường là A-dục. Vị hoàng đế này đã thành lập đế quốc đầu tiên cho
nước Ấn là Maurya và đã sử dụng Đạo Pháp của vị Cồ-đàm để cai trị. Sự kết hợp
giữa Phật Giáo và vương quyền dưới triều đại A-dục đã đánh dấu một sự thành công
tuyệt vời nhất về chính trị, kinh tế, văn hóa và cả tôn giáo trong lịch sử nước
Ấn. Sau khi vua A-dục qua đời thì đế quốc của ông cũng suy sụp theo và lãnh thổ
bị phân chia thành nhiều vương quốc.
Khi Đại Thừa Phật Giáo được hình thành vào thế kỷ thứ I trước Tây Lịch, nêu lên
lý tưởng và vai trò của người bố-tát thì Phật Giáo cũng đã khoác thêm cho mình
một chiếc áo mới mang tính cách dấn thân thật rõ rệt. Sau khi đế quốc Maurya của
hoàng đế A-dục suy tàn thì năm thế kỷ sau đế quốc thứ hai của nước Ấn là Gupta
được thành lập, kéo dài từ cuối thế kỷ thứ III đến giữa thế kỷ thứ VI. Triều đại
này đã đưa nền văn minh Ấn Độ lên tột đỉnh. Nghệ thuật phát triển cao độ, nhiều
sáng tạo và đã đạt được các nét tiêu biểu và đặc thù nhất cho toàn bộ nền văn
hóa Ấn Độ. Toán học và thiên văn học rất tiến bộ, nhiều nhà toán học và thiên
văn được mời sang Trung Quốc giảng dạy. Kinh tế và văn minh Ấn Độ cũng đã ảnh
hưởng sâu rộng đến tất cả các nước láng giềng thời bấy giờ. Thế nhưng điều đáng
cho những người Phật Giáo chúng ta lưu ý là các vị vua dưới triều đại này hầu
hết là những người Phật Giáo, và triều đại Gupta cũng đã đánh dấu một giai đoạn
vượt bực và siêu việt nhất trong lịch sử phát triển của Phật Giáo, kéo dài từ
thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ VIII, tất cả các học phái và tông phái lớn đều đã
được hình thành trong giai đoạn này, tiếc thay đấy cũng là giai đoạn vàng son
cuối cùng trong lịch sử Phật Giáo.
Nhà sư Thai Hư tưởng tượng ra một khung cảnh Tịnh Độ trong một quốc gia đang lâm
vào tình trạng chiến tranh, đầy mưu mô và biến động chính trị của tiền bán thế
kỷ XX. Ông ước mơ thế gian này sẽ trở thành một cõi Tịnh Độ. Nhà sư Buddhadasa
thì hình dung ra một hình thức xã hội chủ nghĩa, công bằng, hợp lý, hài hòa và
sung túc với sự cai trị độc đoán của một vị vua nhân từ, rộng lượng, lương
thiện, tràn ngập lòng từ bi trong một bối cảnh đầy nhiễu nhương và xáo trộn của
nước Thái dưới sự cai trị của các tập đoàn quân phiệt trong một khung cảnh đầy
lo sợ của người dân trước cuộc chiến tranh tương tàn, đau thương và phi lý của
một nước láng giềng giữa hậu bán thế kỷ XX. Dân tộc Thái yêu chuộng một thể chế
dân chủ thế nhưng lúc nào cũng tôn sùng một vị quốc vương Phật Giáo nhân từ và
đạo đức. Thói tục và truyền thống lâu đời đó biết đâu cũng đã ảnh hưởng đến
Buddhadasa và đã khiến ông ước mơ một vị vua thật gương mẫu tương tự như hoàng
đế A-dục sẽ xuất hiện trên đất Thái để gầy dựng một xã hội hài hòa, an vui và
không xung đột cho dân tộc ông?
Dầu sao đi nữa thì sự dấn thân của một người Phật Giáo - dù đấy là Éric
Rommeluère, Buddhadasa hay Thái Hư hay chỉ đơn giản là những người bình dị như
chúng ta - cũng chỉ là để mang lại an vui và sự hài hòa trong xã hội, và tuyệt
nhiên không phải là cách tìm kiếm danh vọng, quyền lực hay của cải cho chính
mình. Tất cả những thứ ấy đối với họ chỉ là những thứ phù du và vô nghĩa, nếu
không muốn nói đấy là những nguyên nhân sâu xa và sớm muộn cũng sẽ mang lại mọi
thứ hiểm nguy, sợ hãi và lo buồn. Đức Phật có dạy rằng:
"Một trăm lần tái sinh để làm vua thiên hạ cũng chẳng có nghĩa lý gì so với một
kiếp người biết bước chân vào Con Đường Đạo Pháp một cách chính trực"
(trích dẫn theo Kalou Rinpoché trong quyển Con Đường của Đức Phật, La Voie du
Bouddha, Sagesse-Seuil, 1993, tr. 353)
Sau hết có lẽ cũng cần phải giải thích thêm về mười phẩm tính của một vị vua
(dasabidha raja dhamma) mà tác đã nêu lên trong chương IX của quyển sách nhưng
không đưa ra chi tiết. Ly do là trong chương VIII tác giả cũng đã đề cập đến
hoàng đế A-dục và cũng đã liệt kê đầy đủ mười phẩm tính của ông, đó là: "bố thí,
đạo đức, xả thân, trung thực, nhân từ, đạm bạc, không nóng giận, không sử dụng
bao lực, kiên nhẫn và không tìm cách gây ra mọi sự xung đột [...] Các vua chúa Á
Châu sau này đều nhân danh hoàng đế A-dục để trị vì và đều tự nhận mình là một
vị vua công lý (dharmaraja), một vị bồ-tát (bodhisattva), một người khởi động
bánh xe (cakravartin). Tất cả đều mượn Đạo Pháp để khoác lên cho mình một uy
quyền chính đáng và hợp pháp" (tr. 82 và 84).
Ngoài ra người ta cũng thấy một trang web Phật Giáo bằng tiếng Pháp của
Cam-pu-chea đăng tải một bài viết ngắn nêu lên mười phẩm tính đạo đức của một vị
vua (http://www.btkhmer.com/, trong tiết mục Textes, và bài viết mang tựa là Les
dix devoirs du roi). Bài viết này tuy không thấy nêu tên tác giả và cũng không
cho biết là đã dựa vào kinh sách hay các tư liệu nào, thế nhưng cũng đã được một
trang web khác có tầm cỡ quốc tế và uy tín là Buddhachannel trích đăng ngày 29
tháng 9, năm 2010. Hơn nữa trang web Buddhachannel còn viết thêm một đoạn ngắn
bên dưới bài viết trên đây và có thể đã dựa vào các kinh sách gốc để đưa ra thêm
một bản liệt kê khác hình như đã dựa vào các tư liệu gốc để về mười phẩm tính
của một vị vua.
Xin mạn phép chuyển ngữ bài viết trên đây của trang web Cam-pu-chea và cả phần
ghép thêm của trang web Buddhachannel trong phần phụ lục dưới đây, nhằm giúp
người đọc tìm hiểu thêm khái niệm về mười phẩm tính đạo đức của các vị vua đã
từng cai trị các nước Á Châu trong lịch sử.
(http://www.buddhachannel.tv/portail/spip.php?article2045).
Phụ
lục
Nào có khác gì ngày nay, vào thời Đức Phật còn tại thế cũng đã có những vị đế
vương cai trị dân tộc của họ thật bất công. Họ tha hồ tăng thuế và sử dụng những
biện pháp trừng phạt thật nhẫn tâm. Người dân bị áp bức, bóc lột, tra tấn và đàn
áp.
Đức Phật vô cùng đau xót trước những cảnh đối xử vô nhân đạo đó nên đã nghĩ rằng
một thể chế chính trị đúng đắn thật hết sức cần thiết. Cũng nên lưu ý là các mối
quan tâm của Đức Phật nhất thiết liên hệ đến các bối cảnh xã hội, kinh tế và
chính trị của thời bấy giờ. Ngài nói rằng trong một quốc gia nếu tất cả các
người lãnh đạo nắm giữ quyền bính, tức là từ nhà vua cho đến các quan lại và
viên chức triều đình, tất cả đều tham nhũng và hành xử bất chính thì cả nước
cũng sẽ trở nên tham nhũng, hủ hóa và khổ đau. Đức Phật có nêu lên trong giáo
huấn của Ngài mười bổn phận mà một vị vua phải chấp hành hầu mang lại cho mình
một uy quyền đúng đắn.
Chữ "vua" (râja) vào những thời xa xưa ngày nay tất nhiên phải được thay bằng
chữ "chính quyền", và ngược lại thì những người tham gia chính quyền tức từ vị
nguyên thủ quốc gia đến các bộ trưởng, các thành viên lập pháp và các viên chức
hành chánh đều phải chấp hành mười bổn phận của một vị vua.
Mười
bổn phận của một vị vua là:
o
Sự rộng lượng, hào phóng và lòng từ tâm: Vị quốc vương không được tham lam và
bám víu vào của cải cũng như gia sản mà phải đem ra phân phát cho toàn dân được
hưởng.
o Một tinh thần đạo đức cao độ: Vị quốc vương không được cướp đoạt
sự sống, lừa đảo, tóm thâu những gì không phải của mình, không được lợi dụng kẻ
khác, vị phạm tà dâm, nói dối, không được say sưa. Có nghĩa là vị ấy phải tuân
thủ ít nhất năm giới luật của người thế tục.
o Hy sinh vì sự tốt lành của toàn dân: Vị quốc vương phải hy sinh
mọi tiện nghi vất chất, danh vọng, tiếng tăm và cả sự sống của mình vì lợi ích
của dân tộc.
o Sự lương thiện và liêm khiết: Trong khi thực thi trách vụ của
mình, vị quốc vương phải quả quyết và không được ưu đãi một ai. Vị ấy phải giữ
sự ngay thật trong mọi hoạch định, không được phép đánh lừa quần chúng.
o Sự khả ái và hòa nhã: Vị quốc vương phải biết hành xử thật từ
tốn.
o Nếp sống khắc khổ: Vị quốc vương phải sống đơn sơ và không để cho
mình bị chóa mắt bởi sự xa hoa, tức là phải chủ động được chính mình.
o Không được hận thù, có ý xấu hay bất thân thiện: Vị quốc vương
không được mang ác cảm với bất cứ một ai.
o Tôn trọng nguyên tắc bất bao động: Vị quốc vuơng chẳng những
không được gây ra đau thương cho bất cứ một ai mà còn phải cố gắng bảo vệ hòa
bình cho dân tộc, và bằng mọi cách phải ngăn chận những gì có thể đưa đến bạo
lực nguy hại đến tính mạng của người dân.
o Kiên nhẫn, sẵn sàng tha thứ, khoan dung và hiểu biết: Vị quốc
vương phải đủ sức chịu đựng mọi thử thách và khó khăn cũng như sự nhục mạ, lúc
nào cũng phải giữ được sự bình tĩnh.
o Không tìm cách chống lại đối lập, không gây ra bế tắc: Có
nghĩa là vị ấy không được đi ngược lại với quyết tâm của người dân, hoặc tìm
cách ngăn chận các biện pháp mang lại lợi ích chung cho dân tộc. Nói một cách
khác là vị ấy phải hòa nhập với dân chúng trong một sự hài hòa chung.
Thử hỏi người dân trong một xứ sở cai trị bởi những người lãnh đạo mang những
phẩm tính trên đây sẽ được sung sướng biết bao nhiêu! Tuy nhiên chuyện ấy nào có
phải là chuyện không tưởng đâu, bởi vì trong lịch sử cũng đã từng có những vị
vua hội đủ những phẩm tính ấy, chẳng hạn như hoàng đế A-dục của nước Ấn đã từng
lãnh đạo dân tộc của ông với những phẩm tính ấy, (http://www.btkhmer.com/, trong
mục: Méthode pratique de méditation, textes du Bouddhisme, Les dix devoirs du
roi).
Sau khi trích đăng toàn bộ bài viết trên đây, trang web Buddhachannel còn viết
thêm một đoạn dưới đây:
Vậy
chúng ta hãy mong sao cho những người lãnh đạo ngày nay cũng đều biết nguyện
cầu như sau:
Tôi
xin cố gắng hành xử với lòng rộng lượng
và trau dồi thật hoàn hảo tất cả những phẩm tính khác,
Để cầu xin sao cho tôi được trở thành một người lãnh đạo
luôn biết hy sinh vì sự tốt lành của tất cả chúng sinh.
Dựa vào uy lực và sự chân chính mang lại từ cách lãnh đạo đó,
Tôi xin nguyện cầu cho tất cả chúng sinh đều tìm được hạnh phúc
và quán thấy được cội nguồn của hạnh phúc.
Tôi xin nguyện cầu cho tất cả chúng sinh sẽ thoát khỏi khổ đau
và quán thấy được các nguyên nhân mang lại khổ đau.
Tôi xin nguyện cầu sao cho niềm phúc hạnh tối thượng
không một bóng dáng khổ đau sẽ chẳng bao giờ rời bỏ họ.
Tôi xin nguyện cầu cho tất cả chúng sinh luôn được thường trú trong sự an lạc
mênh mông,
thoát ra khỏi mọi dục vọng, sự hung hãn và những thành kiến sai lầm.
Sau đây là mười Ba-la-mật của một vị vua:
- Dana: Bố thí
- Sila: Đạo đức
- Nekhama: Sự từ bỏ (có nghĩa là khước từ mọi tiện nghi vật chất và những giá
trị thế tục. Riêng đối với người tu hành thì nekhama có nghĩa là xuất gia, từ bỏ
gia đình và cuộc sống thế tục)
- Panna: Trí tuệ
- Viriya: Nghị lực
- Khanti: Nhẫn nhục
- Sacca: Sự thật (có nghĩa là ngay thẳng, cương trực, biết tôn trọng sự thật)
- Aditthana: Sự kiên quyết
- Metta: Lòng nhân ái
- Upekha: Sự an lạc (sự thanh thản, an vui)
(http://www.buddhachannel.tv/portail/spip.php?article2045).
Sau hết người dịch xin mượn hình ảnh của một pho tượng Phật để thay cho lời kết:
Đức
Phật Thích-ca
(thế
kỷ thứ V, sa thạch Chunâr, 131x52x26.5cm, bảo tàng viện Kolkata, Calcuta, Ấn Độ)
Pho tượng được tìm thấy ở Ba-la-nại (Benares / Varanasi/ Sârnâth) tiểu bang
Uttar Pradesh, nơi Đức Phật khởi động bánh xe Đạo Pháp lần đầu tiên. Tượng được
tạc dưới triều đại Gupta. Bàn tay phải của pho tượng để ngữa và đưa ra phía
trước biểu trưng cho sự che chở chúng sinh trước mọi sợ hãi, lo buồn và khổ đau
- xin lưu ý bàn tay Đức Phật trình bày trên bìa quyển sách của Éric Rommeluère
cũng mang ý nghĩa này. Bàn tay trái buông xuống và cũng để ngữa biểu trưng cho
sự bố thí.
Động tác của hai bàn tay pho tuợng đã nói lên sự dấn thân của Đức Phật trong
suốt bốn mươi lăm năm sau khi đạt được Giác Ngộ. Ngày nay chúng ta có bắt chước
được một chút nào hay chăng? Phật Giáo dấn thân cũng chỉ giản dị như thế, như
động tác của đôi bàn tay để ngữa mà mỗi người trong chúng ta đều có và đều có
thể làm được, nào có gì là "không tưởng" đâu? Hơn nữa chúng ta có nhận thấy đôi
mắt của pho tượng đang nhìn xuống khổ đau của tất cả chúng sinh hay chăng? Vậy
đừng nắm hai bàn tay lại để mà nhìn nhau bằng những đôi mắt căm hờn.
Bures-Sur-Yvette,
07.06.13
(mùa
Phật Đản 2013)
Hoang
Phong chuyển ngữ