Minh Thạnh
Bàn luận vấn đề mà chúng
tôi nêu ra, Phật giáo quan hệ tốt với chính quyền trong mọi thời đại, có bạn đọc
nhắc đến sự kiện Hòa thượng Quảng Đức tự thiêu, tức Pháp nạn lịch sử 1963, coi
như là đặt một dấu chấm hỏi ở đó.
Vì vậy, trong bài này
chúng tôi sẽ bước đầu tìm hiểu Pháp nạn lịch sử 1963, trong vấn đề quan hệ Phật
giáo với chính quyền mà chúng ta đang bàn luận.
Pháp nạn lịch sử 1963,
thoạt trông, có vẻ là Phật giáo đối kháng với chính quyền (ở đây là chính quyền
Ngô Đình Diệm). Vậy phải chăng đây là trường hợp ngoại lệ của vấn đề Phật giáo
quan hệ tốt với chính quyền trong mọi thời đại, hay chính là một trường hợp phủ
nhận vấn đề đã nói ở trên?
Mục từ “Religious war” (thánh chiến hay chiến
tranh tôn giáo) trong từ điển mở Wikipedia không ghi nhận chiến tranh tôn
giáo do Phật giáo tiến hành, nhưng có phần “Buddhist uprising” ghi nhận 2 cuộc đấu
tranh của Phật giáo miền Nam Việt Nam vào năm 1963 và 1966, 2 sự kiện Phật giáo
đối kháng với chính quyền ở Nam Việt Nam lúc bấy giờ (1).
Chúng ta tìm hiểu trước
Pháp nạn lịch sử 1963, xem đây có đúng là một cuộc đối kháng với chính quyền,
dẫn đến những hệ quả như nói ở trên?
Pháp nạn lịch sử 1963
được giải trừ triệt để sau cuộc đảo chính quân sự ngày 1/11/1963, do quân đội
Sài Gòn tiến hành, cầm đầu là các tướng lĩnh trong “Hội
đồng Quân nhân Cách mạng”.
Nhiều tài liệu lịch sử
cho thấy trong cuộc đảo chính này, Tòa Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn đóng vai trò quan
trọng. Mỹ là phía bật đèn xanh cho cuộc đảo chính, và hỗ trợ cuộc đảo chính từ
phía sau, kể cả tài chính. Trong các Sách giao khoa lịch sử, chúng ta thường
thấy cụm từ “thay ngựa giữa dòng” để chỉ hành động vào năm 1963 của Mỹ, thế lực
cầm quyền chủ chốt ở miền Nam.
Cuộc đảo chính 1/11/1963
là cuộc giải quyết mâu thuẫn trong nội bộ giới cầm quyền ở miền Nam Việt Nam,
đồng thời cũng kết thúc Pháp nạn đối với Phật giáo miền Nam Việt Nam.
Qua việc này, chúng ta
có thể thấy rằng, mâu thuẫn trước đó của Phật giáo miền Nam Việt Nam với chính
quyền Sài Gòn thực chất không phải là mâu thuẫn giữa Phật giáo với toàn bộ chính
quyền Nam Việt Nam, mà chỉ là mâu thuẫn với tập đoàn gia đình trị Ngô Đình Diệm
và những kẻ theo chúng. Sau cuộc đảo chính 1/11//1963, Pháp nạn được giải trừ
hoàn toàn, nhưng chính quyền Sài Gòn, trừ những thay đổi ở cấp cao, còn lại vẫn
tồn tại hầu như nguyên vẹn.
Chính quyền Sài Gòn sau
đảo chính 1/1/1963 chuyển thành một chính quyền ủng hộ Phật giáo bằng một số
việc làm rất cụ thể, như cấp đất bằng hình thức bán tượng trưng để xây dựng Việt
Nam Quốc tự, cho công binh xây dựng lễ đài Phật Đản năm 1974 và hỗ trợ việc tổ
chức đại lễ ở Trung tâm thành phố, cúng dường những ngân khoản lớn cho Giáo hội
Phật giáo Việt Nam Thống nhất (thành lập năm 1964)… Phía Phật giáo khi đó không
từ khước sự ủng hộ từ chính quyền Sài Gòn sau đảo chính.
Những nhà lãnh đạo cuộc
đấu tranh của Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963, ngay từ đầu, cũng thấy mâu
thuẫn chính không phải là mâu thuẫn giữa Phật giáo miền Nam với toàn bộ lực
lượng cầm quyền ở miền Nam, mà chỉ là mâu thuẫn giữa Phật giáo và bộ phận chính
quyền trung thành với gia đình họ Ngô. Do vậy, bên cạnh hướng đấu tranh với Diệm
còn là hướng vận động tướng lĩnh, sĩ quan, công chức chính quyền Sài Gòn, tức là
phát triển mối quan hệ với một bộ phận chính quyền Sài Gòn.
Nhưng hướng vận động
quan trọng hơn là hướng tập trung vào người Mỹ, thế lực chi phối chính quyền Sài
Gòn.
Sách Lửa trong lòng hồ, tác giả Frances
Fitsgerald, đã viết về sự kiện hòa thượng Quảng Đức tự thiêu: “Trong những phút giây tưởng kéo dài bất tận
khi mà ngọn lửa nhảy múa liếm láp áo choàng của Quảng Đức, che khuất khuôn mặt
của ông ta, và trong suốt quá trình sụp đổ từ từ thi thể đã hóa thành than từ tư
thế ngồi thẳng đứng, một hòa thượng trẻ tuổi đã cầm micro không ngừng hô vang
bằng cả tiếng Anh lẫn tiếng Việt, “Một hòa thượng Phật giáo đã tự thiêu. Một hòa
thượng Phật giáo đã tử vì đạo”. Các nhà sư đã kêu gọi các nhà báo Mỹ đến chứng
kiến cảnh tượng này. Sau đó, họ đã trưng bày trái tim của Quảng Đức trong một
cái hộp bằng thủy tinh và mua bảo hiểm cho việc truyền hình đưa tin về khoảng
sáu cái chết quyên sinh khác” (2).
Tổ chức truyền thông như
thế là định hướng vận động vào người Mỹ (3).
Sách “Trí Quang tự truyện” cũng chép khá chi
tiết việc Thượng tọa Trí Quang lúc bấy giờ đến Tòa Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn tỵ nạn
và sự tiếp đón của Tòa Đại sứ. Ở đây không có mâu thuẫn với người Mỹ.
Như thế, Pháp nạn lịch sử 1963 không phủ nhận nguyên
tắc Phật giáo quan hệ tốt với chính quyền trong mọi thời đại mà chúng tôi đã
nêu, cũng như không là một ngoại lệ cho nguyên tắc đó.
Năm 1963, trong khi Phật
giáo miền Nam Việt Nam mâu thuẫn với gia đình lãnh đạo chóp bu chính quyền Sài
Gòn (Ngô Đình Diệm) thì vẫn có những quan hệ tốt đối với một số thành phần trong
chính quyền Sài Gòn bấy giờ, kể cả thế lực quan trọng nhất là Tòa Đại sứ Mỹ.
Đối với những lực lượng
như thế, Phật giáo đã tranh thủ được
sự ủng hộ. Cho nên, việc đàn áp Phật giáo đã đưa đến những xung đột lớn trong
nội bộ chế độ Sài Gòn, dẫn đến cục giải quyết bằng cuộc đảo chính 1/11/1963,
đồng thời đưa đến kết quả giải trừ hoàn toàn Pháp nạn lịch sử 1963.
Pháp nạn lịch sử 1963 và
việc kết thúc nó thể hiện mối quan hệ giữa Phật giáo miền Nam Việt Nam với chính
quyền lúc bất giờ trong một dạng thức hết sức đặc biệt. Phật giáo mâu thuẫn cao
độ với một bộ phận chính quyền, trong khi lại được sự hậu thuẫn từ một lực lượng
cầm quyền khác. Lực lượng chính quyền ủng hộ Phật giáo đã giải quyết mâu thuẫn
phức tạp trên bằng một cuộc đảo chính, để sau đó chuyển đổi cơ bản toàn bộ bộ
máy chính quyền đàn áp Phật giáo trước đảo chính thành bộ máy chính quyền cơ bản
mâu thuẫn Phật giáo trong những năm đầu sau đảo chính.
Điều cốt lõi là ở đây
vẫn có nhân tố Phật giáo quan hệ tốt với lực lượng cầm quyền. Nhân tố đó tồn tại
song song với tiến trình đàn áp Phật giáo từ một lực lượng khác cũng trong chính
quyền đó và đang nắm cấp chi phối hệ thống.
Trong thực tế, chỉ riêng
Phật giáo thì không là lực lượng lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm. Phật giáo đấu
tranh cho những nguyện vọng của mình, không tiến hành lật đổ. Chỉ thành phần ủng
hộ Phật giáo trong lực lượng cầm quyền mới tổ chức và thực hiện cuộc đảo chính
quân sự 1/11/1963.
(1)
Một số tài liệu có kể đến cuộc xung đột giữa Phật giáo Tây Tạng với chính quyền
Trung Quốc vào năm 1959 như là một cuộc nổi dậy Phật giáo, nhưng các sử gia
không thống nhất vì đó cũng có thể coi là một cuộc xung đột sắc tộc, một cuộc
nổi dậy giành độc lập quốc gia hơn là cuộc chiến tranh tôn giáo. Có lẽ vì vậy mà
mục từ trên Wikipedia không ghi nhận cuộc xung đột Tây Tạng trong phần “Buddhism
Uprising”, mà chỉ có 2 sự kiện ở Nam Việt Nam.
(2)
Frances Fitzgerald: Lửa trong lòng hồ, Người dịch: Lê Sỹ Giảng, Nguyễn Nam Sơn,
Nhà Xuất bản Công An Nhân dân, 2004.
(3)
Sách Lửa trong lòng hồ có đoạn: “Cuối cùng người Mỹ đã phản ứng. Tháng Tám, chỉ
sau cuộc tấn công chùa Xá Lợi, vị đại sứ mới Henry Cabot Lodge, chỉ đạo một nhân
viên CIA liên hệ với các tướng lĩnh và thông báo rằng Washington sẽ ủng hộ cuộc
đảo chính. Các tướng lĩnh nghi ngờ cả Harkin lẫn Richardson và yêu cầu có sự đảm
bảo chắc chắn hơn. Sau đó vào tháng Mười, sau một cuộc tranh cãi nội bộ tương
đối gay gắt, chính quyền Kennedy quyết định ngừng Chương trình Nhập khẩu Thương
mại – nguồn viện trợ chủ yếu của chính phủ - và công khai tự tách mình ra khỏi
chính quyền họ Ngô. Những cuộc biểu tình dữ dội hơn, những sự đảm bảo chắc chắn
hơn cùng với âm mưu của các quan chức khác đã đẩy các tướng lĩnh vào hành động.
Ngày 1 tháng Mười một, khi xe tăng tiến vào Dinh Tổng thống, không một quan chức
cao cấp nào còn ở đó cùng với các vị lãnh đạo của mình”.