1. Sự hòa điệu
của vũ trụ
Ngành vũ trụ học đương đại đã khám
phá rằng những điều kiện cho phép đời sống và tri giác xuất hiện trong vũ trụ
này có vẻ như được mã hóa trong các phẩm tính của mỗi nguyên tử, tinh tú và
thiên hà trong vũ trụ, cũng như có mặt trong tất cả những định luật vật lý chi
phối, vận hành chúng. Vũ trụ được xuất hiện trong một hòa điệu lý tưởng như được
tạo ra để dành cho một con người quan sát thông minh có khả năng thưởng thức cái
cấu trúc và sự hòa điệu này. Cái ý tưởng vừa nêu chính là cơ sở của “nhân bản
thuyết” vốn phát xuất từ danh từ “anthropos” có nghĩa là “con người” của Hy Lạp.
Về thuyết lý này, có hai nhận xét cần được đặt ra. Thứ nhất,
cái định nghĩa mà chúng tôi vừa trình bày chỉ liên hệ đến cái mặt “mạnh” của
nhân bản thuyết. Đồng thời cũng còn có một mặt “yếu”
cho là không giả định trước bất cứ ý hướng nào trong việc tạo thành thiên nhiên.
Nó có vẻ như rất gần với phép lặp thừa - những phẩm tánh của vũ trụ phải được
tương xứng với sự có mặt của con người- và đây là điều mà tôi cũng sẽ không bàn
thảo đến. Thứ hai, cụm từ “nhân bản thuyết” là không
thích đáng bởi vì nó hàm ý rằng nhân loại là mục đích mà vũ trụ được tạo ra.
Trong thực tế, những lập luận về nhân bản thuyết có thể được áp dụng cho bất kỳ
các loài có tri giác nào ở trong vũ trụ.
Đâu là cơ sở khoa học của nhân bản thuyết?
Cách thế mà vũ trụ của chúng ta được tạo ra dựa vào hai loại dữ kiện: 1) những
điều kiện sơ khởi, cụ thể như tổng số khối lượng và năng lượng mà chúng có, độ
trương nở ban đầu... và 2) khoảng 15 hằng số vật lý: hằng số trọng lực, hằng số
Plank, tốc độ ánh sáng, khối lượng của các hạt cơ bản không phân tách được...
Chúng ta có thể đo được trị số của những hằng số này một cách cực kỳ chính xác,
tuy nhiên chúng ta không có bất cứ lý thuyết nào để tiên đoán chúng. Bằng cách
cấu trúc “những mô hình vũ trụ” với những điều kiện sơ khởi và những hằng số vật
lý, những nhà vật lý không gian đã khám phá ra một điều rằng tất cả những yếu tố
này phải được phối trí trong một trật tự cực kỳ hòa điệu: chỉ cần một sai biệt
cực nhỏ trong những hằng số vật lý và những điều kiện sơ khởi này thì chúng ta
hẳn đã không có mặt ở đây để nói về chúng. Cụ thể như, chúng ta hãy xem cái tỷ
trọng ban đầu của vật chất trong vũ trụ. Vật chất có một lực kéo phản ứng lại với lực trương giãn của vũ trụ
gây ra bởi vụ nổ Big Bang và làm tiết giảm độ trương nở của vũ trụ.
Nếu cái tỷ trọng ban đầu này quá cao, vũ trụ sẽ sụp đổ sau một thời gian tương
đối ngắn ngủi -một triệu năm, một thế kỷ, hoặc một năm không chừng, tùy
theo độ chính xác của tỷ trọng. Với một sinh mệnh ngắn
ngủi như thế rất khó cho những tinh tú có thể hoàn tất được sự biến đổi hạt nhân
để có thể sản xuất ra những nguyên tố nặng, cụ thể như các-bon vốn cần thiết cho
đời sống.
Ngược lại, nếu tỷ trọng ban đầu của vật chất quá thấp, sẽ
không có đủ trọng lực để những vì sao có thể hình thành. Và không có
những vì sao, tức là không có những nguyên tố nặng, và không thể có đời sống!
Như vậy, tất cả mọi vật đều được duy trì ở trong một trạng thái quân bình hoàn
hảo. Tỷ trọng ban đầu của vũ trụ phải được cố định ở một con số thật
chính xác là 10^-60. Sự chính xác tuyệt vời này có thể được đem so sánh
với một tay bắn cung thiện nghệ nhắm trúng mục tiêu 1centimet vuông (1cm2) được
đặt cách xa 14 tỷ năm ánh sáng, ngay tận đầu bờ vũ trụ mà khả năng ta có thể
quan sát được! Mức chính xác của sự hòa điệu biến đổi tùy theo hằng số đặc biệt
hay điều kiện ban đầu, thế nhưng trong mỗi trường hợp, chỉ một thay đổi nhỏ cũng
đủ làm cho vũ trụ khô cằn, trống vắng sự sống và ý thức.
2. Có một nguyên
lý nào chi phối cấu trúc vũ trụ?
Chúng ta suy nghĩ như thế nào trước một sự hòa điệu tuyệt vời như thế?
Với tôi, hình như chúng ta có hai cách thế chọn lựa khác nhau: Có thể xem sự hòa
điệu này là hệ quả của một tình cờ may mắn hoặc là một tất yếu (nói theo nhan đề
một cuốn sách của nhà sinh vật học Pháp, Jacques Monod, “Ngẫu Nhiên và Tất Yếu,”
Alfred A. Knoff, New York, 1971). Nếu xem đây chỉ là một ngẫu nhiên, thì chúng ta phải mặc nhận một số
lượng vô hạn những vũ trụ khác bên cạnh vũ trụ của chúng ta cấu thành cái được
gọi là “đa vũ trụ”. Mỗi một vũ trụ này sẽ bao gồm một
phối hợp của riêng mình với những hằng số vật lý và điều kiện sơ khởi.
Tuy nhiên chỉ riêng vũ trụ của chúng ta là được khai sanh ra bởi một tổng hợp
hoàn chỉnh để có thể tạo nên sự sống.
Tất cả đều là những kẻ thua cuộc, chỉ có chúng ta là người
thắng cuộc, giống như bạn chơi xổ số vô số lần, kết cuộc có ngày bạn cũng sẽ
trúng số. Ngược lại, nếu chúng ta bác bỏ giả thiết cho rằng có một cái đa
vũ trụ như thế và mặc nhiên công nhận rằng chỉ có một vũ trụ đơn lẻ, cái mà
chúng ta đang sống, thế thì chúng ta phải mặc nhận sự hiện hữu của một nguyên lý
về sáng tạo đã điều chỉnh sự tiến triển của vũ trụ một cách tốt đẹp.
Làm thế nào để chọn lựa giữa hai khả năng này? Khoa học không
giúp ích được gì cho chúng ta ở đây bởi vì nó cho phép cả hai tình huống đều có
thể xảy ra. Nếu xem đây là một tình cờ, có rất nhiều cách được đưa ra để
giải thích về sự sáng tạo một đa vũ trụ. Cụ thể như, nghiên cứu
chung
quanh xác suất miêu tả về thế giới lượng tử, nhà vật lý học Hugh Everett đã đề
xuất rằng vũ trụ tách ra thành vô số những cái giống hệt nhau tùy theo những khả
năng và chọn lựa được thực hiện. Một vài vũ trụ chỉ khác nhau bởi vị trí của một
electron trong một nguyên tử, những cái khác có thể khác biệt căn bản hơn. Những định luật vật lý và hằng số cũng như những điều kiện sơ khởi
của chúng có thể không giống nhau.
Một giả thuyết khác cho là trong một chu
kỳ tuần hoàn của vũ trụ, đã có một loạt những vụ nổ Big Bang và Big Crunch. Bất
cứ lúc nào vũ trụ được tái sanh từ đống tro tàn của mình để bắt đầu lại trong
một vụ nổ Big Bang mới, nó lại được khởi đầu với một tổng hợp mới của những hằng
số vật lý và điều kiện sơ khởi. Cũng còn một giả thiết khác nói về sự sáng tạo
vũ trụ, đó là lý thuyết do nhà vật lý Andrei Linde và một số người khác đề ra,
cho rằng mỗi một trong vô số lượng những đám bọt lượng tử sơ khai trôi nổi bập
bềnh trong không gian đã cấu thành vũ trụ. Như thế thì vũ trụ của chúng ta chỉ
là một cái bong bóng nhỏ trong một cái siêu vũ trụ được tạo nên bởi vô số những
cái bong bóng khác. Ngoại trừ cái của chúng ta, không có cái
nào trong số những vũ trụ đó nuôi dưỡng được sự sống bởi vì những hằng số vật lý
và những định luật của chúng đã không thích hợp.
3. Không hề có
một Đấng Sáng Tạo trong Phật Giáo.
Điểm then chốt trong việc phân biệt giữa Phật giáo với các truyền thống tín
ngưỡng lớn trên thế giới là vấn đề có hay không một Đấng Sáng Tạo? Đối với Phật giáo, ý niệm về một
“nguyên nhân đầu tiên” không hề được đặt ra để lý giải do bởi ý niệm về tánh
không và duyên khởi đã được bàn đến trước đây. Phật giáo xem vấn đề “sáng tạo”
là không liên quan bởi vì theo họ, thế giới hiện tượng
thực sự không được sinh ra, trong cái ý nghĩa là chúng trải qua tình trạng từ
phi hữu trở thành hiện hữu. Chúng có mặt trong một cách thế
được gọi là “tục đế” và không hề là một thực tại chân thực. Tục đế hay
thực tại quy ước có mặt do sự cảm nghiệm của ta về một thế giới mà chúng ta cho
rằng trong đó mọi sự vật hiện hữu một cách khách quan. Phật
giáo quan niệm rằng những nhận thức như thế là sai lầm bởi vì thế giới hiện
tượng, nhìn một cách rốt ráo không phải là những thực tại khách quan, có nghĩa
là chúng không hề là những hiện hữu tự thân. Đây được
gọi là “chân đế”. Trong những ý nghĩa này, vấn đề sáng tạo trở thành một
vấn nạn giả. Cái vấn nạn về một “nguồn gốc nguyên thủy” chỉ
bắt nguồn từ sự xác tín vào thực tại tuyệt đối của thế giới hiện tượng.
Cái ý tưởng về sáng tạo chỉ cần thiết khi chúng ta tin là có một thế giới khách
quan. Nó tan biến đi khi chúng ta nhận thức rằng thế giới hiện tượng, cho dù là
chúng ta có thể thấy chúng rõ ràng, không hề có một hiện hữu độc lập, “khách
quan”. Và một khi sự sáng tạo không còn là một vấn đề, ý niệm về Đấng Sáng Tạo
cũng không còn là một yêu cầu được đặt ra.
Tuy nhiên, quan điểm của Phật giáo không hề loại bỏ cái khả năng về một sự hiện
bày của thế giới hiện tượng.
Một điều hiển nhiên, cái thế giới mà chúng ta nhìn thấy chung quanh mình không
phải là phi hữu, tuy nhiên Phật giáo cho rằng nếu chúng ta khảo xét cách thế mà
chúng hiện hữu, chúng ta sẽ nhận ra ngay là chúng không thể được xem như bao gồm
một loạt những thực thể độc lập, có hiện hữu tự thân riêng biệt. Nhà triết học
lớn của Phật giáo Ấn Độ vào thế kỷ thứ hai, Thánh giả Long Thọ, đã nói: “Bản
tánh của vạn pháp là duyên khởi; tự nó, vạn pháp không hề có tự tánh”. Như thế
sự tiến triển của chúng không phải do tình cờ may mắn mà cũng không phải bởi một
sự can dự thiêng liêng nào. Thay vào đó chúng bị chi phối bởi
luật nhân quả trong một mối liên hệ duyên khởi và nhân quả hổ tương bao trùm lên
tất cả. Bởi vì vạn pháp không hề có thực tại độc lập, chúng không thể nào
‘bắt đầu’ và ‘kết thúc’ một cách thực sự như là những thực thể tách biệt. Và như thế, ý niệm về một sự khởi đầu và kết thúc của vũ trụ thuộc
về tục đế chứ không phải chân đế.
Như vậy, quan điểm này phù hợp với nền khoa học vũ trụ đương đại như thế nào? Chúng ta thấy duy chỉ có loại vũ trụ
không có khởi điểm và tận cùng là loại vũ trụ tuần hoàn với một loạt những vụ nổ
vô tận của Big Bang và Big Crunch ở trong quá khứ và tương lai. Thế nhưng cái
trạng huống mà trong đó vũ trụ của chúng ta tự sụp đổ vào một ngày nào đó bởi
một Big Crunch có vẻ như không phù hợp với những quan sát đương đại khi cho rằng
mật độ khối lượng của những quang chất (0.5% trong tổng số khối lượng và năng
lượng tích chứa trong vũ trụ), vật chất tối (29.5%) và năng lượng tối (70%) cộng
lại với nhau chỉ là cái tỷ trọng tới hạn. Điều này có nghĩa
rằng cái hình học của vũ trụ là một hình học phẳng, tức là nó sẽ trương giãn đến
bất tận và độ gia tốc trương giãn này sẽ không đi đến số không sau một khoảng
thời gian vô tận ở tương lai. Như thế, với mức độ kiến
thức hiện nay có vẻ như chưa chấp nhận được ý niệm về một loại vũ trụ tuần hoàn.
4. Những suối
nguồn của ý thức cộng hữu với thế giới vật chất.
Bây giờ trở lại vấn đề nhân bản thuyết. Theo như Phật giáo quan niệm, sự hòa
điệu tuyệt vời của vũ trụ đủ để cho ý thức xuất hiện không hề là công trình của
một Đấng Tối Cao nào cả, bởi vì nhân vật này không hề hiện hữu. Đây cũng không
phải là sản phẩm của một tình cờ may mắn mà những người ủng hộ lý thuyết về một
đa vũ trụ đề xuất: chúng ta có mặt và sống ở đây, trong vũ trụ này, chỉ là một
ngẫu nhiên đầy may mắn do sự phối hợp chính xác của những hằng số và điều kiện
vật lý. Phật giáo cho rằng cái vũ trụ vật chất này và ý thức
đã luôn cộng hữu với nhau từ vô thủy. Để cộng hữu, cái thế giới hiện tượng này phải phù hợp một cách hổ
tương, và do đó tạo ra sự hòa điệu kỳ diệu. Cái sau
sinh khởi bởi vì vật chất và ý thức không thể loại trừ nhau, và bởi vì chúng có
mối liên hệ duyên khởi. Quan điểm này phù hợp như thế
nào với khoa sinh học thần kinh đương đại? Khoa sinh vật học quả là vẫn
đang còn trên một lộ trình dài lâu mới có khả năng lý giải được nguồn gốc của ý
thức Tuy nhiên, đại đa số những nhà sinh vật học quan niệm rằng không cần thiết
giả định rằng những suối nguồn của ý thức cộng hữu với vật chất, bởi vì theo họ,
cái sau có thể xuất hiện từ cái trước, rằng tâm thức có thể sinh khởi từ vật
chất. Tâm thức phát sinh một khi mà hệ thống của những tế bào
não bộ trong các sinh vật đạt đến ngưỡng cửa của một phức hợp.
Trên quan điểm này, ý thức đã xuất hiện, cũng giống như sự sống, từ sự phức hợp
của những nguyên tử vô sinh.
Đến đây một câu hỏi được đặt ra: Một khi Phật giáo cho rằng ý thức được phân lìa
và vượt qua tình trạng vật lý, phải chăng Phật giáo cũng rơi vào chủ nghĩa nhị
nguyên tâm-thân phân lìa của Descartes, qua đó cho rằng có hai loại thực tại,
một của tâm (hay tư tưởng) và một của thế giới vật chất? Câu
trả lời là không. Quan điểm của Phật giáo hoàn toàn khác biệt từ căn bản
với chủ nghĩa nhị nguyên của Descartes. Chỉ có một sự khác
biệt trên mặt tục đế giữa vật chất và ý thức, bởi vì ở điểm tận cùng, cả hai đều
không có một hiện hữu tự thân. Bởi vì Phật giáo bác khước cái thực tại rốt ráo của thế giới hiện
tượng, nó đồng thời cũng bác khước luôn cái ý tưởng cho rằng ý thức là độc lập
và hiện hữu tự thân.
5. Khoa học và
tâm linh: hai cửa sổ mở vào thực tại.
Vừa rồi chúng tôi đã cố gắng chứng tỏ rằng đã có những điểm đồng quy nổi bật
giữa quan điểm về thực tại của Phật giáo và nền khoa học đương đại. Ý niệm về “vô thường”, một ý niệm
then chốt trong Phật giáo, tương ứng với ý niệm về tiến hóa trong khoa học về vũ
trụ, địa chất và sinh vật. Không có gì ở trong thể tĩnh, tất cả đều thay đổi,
chuyển động và tiến triển, từ một hạt nguyên tử cực nhỏ cho đến một cấu trúc lớn lao nhất trong vũ trụ. Vũ trụ tự nó cũng đã
có một lịch sử.
Thuyết tiến hóa của Darwin kết hợp với sự chọn lọc tự nhiên
chi phối những đổi thay liên tục trong thế giới sinh vật. Ý niệm về
“duyên khởi”, cũng là trọng tâm của giáo lý Phật giáo, cộng hưởng với tính toàn
thể, bất khả phân của không gian được hàm chứa trong thí nghiệm EPR về các cấp
độ nguyên tử và hạ nguyên tử, cùng với thí nghiệm quả lắc Foucault về các tầng
vũ trụ. Ý niệm về “tánh không” của Phật giáo, với sự vắng mặt về sự hiện hữu của
một thế giới hiện tượng thường hằng và độc lập, tương đương với tính chất lưỡng
tánh của ánh sáng và vật chất trong thế giới lượng tử của khoa học. Bởi vì một
photon sẽ là sóng khi ta không quan sát chúng và là hạt khi ta đo lường, thế nên
ta có thể nói là nó không có một hiện hữu độc lập, tự thân, sự xuất hiện của nó
hoàn toàn tùy thuộc vào người quan sát.
Chúng tôi cũng đã nêu rõ rằng Phật giáo phản bác cái ý niệm về một sự khởi đầu
của vũ trụ cũng như về một vị Thượng Đế hay là một nguyên lý sáng tạo có khả
năng hòa điệu những phẩm tánh của mình, từ đó tạo điều kiện cho ý thức xuất
hiện. Phật giáo cho rằng ý thức cộng hữu với vật chất nhưng
không hề bắt nguồn từ vật chất. Bởi vì cả hai đều tương tác và duyên khởi nên không cần thiết phải
điều chỉnh thế giới vật chất để phục vụ cho ý thức trong một thể hòa điệu.
Những điểm đồng quy nói trên không có gì là đáng ngạc nhiên bởi vì cả khoa học
lẫn Phật giáo đều đã sử dụng những tiêu chuẩn nghiêm ngặt và chân xác để vươn
đến chân lý.
Bởi vì mục tiêu của cả hai là mô tả thực tại, họ phải gặp nhau ở những mẫu số
chung mà không hề loại trừ nhau. Trong khoa học, những
phương pháp cơ bản để khám phá sự thật là thí nghiệm và lý thuyết hóa dựa vào
phân tích; trong Phật giáo, quán tưởng là phương pháp chính. Cả hai đều là những cánh cửa sổ cho phép ta hé nhìn vào thực tại.
Cả hai đều vững vàng trong những phạm trù chuyên biệt của mình và bổ túc lẫn
nhau. Khoa học khám phá giùm ta những kiến thức “qui ước”.
Mục tiêu của nó là hiểu rõ thế giới hiện tượng.
Những áp dụng kỹ thuật của nó có thể gây nên những hệ quả xấu hay tốt đối với
đời sống thể chất của con người. Thế nhưng quán tưởng, khi
giúp ta nhìn rõ bản tánh chân thật của thực tại, có mục đích cải thiện nội giới
để ta có thể hành động nhằm cải thiện đời sống của tất cả mọi người.
Những nhà khoa học còn sử dụng đến những thiết bị tối tân hơn để khám phá thiên
nhiên. Trái lại trong hình thức tiếp cận bằng quán
tưởng, thiết bị duy nhất là tâm. Hành giả quan sát những tư tưởng của
mình được đan kết lại cùng nhau như thế nào và dính mắc vào y ra sao. Y khảo sát
cái cơ chế vận hành của hạnh phúc và đau khổ để từ đó cố gắng khám phá ra những
tiến trình tâm linh nhằm nâng cao sự an bình nội tâm, làm cho cõi lòng mình rộng
mở hơn đối với tha nhân để giúp họ cùng phát triển, cũng như từ đó thấy rõ được
những tiến trình gây ra những hệ quả độc hại để loại bỏ chúng.
Khoa học cung cấp cho ta những dữ kiện, nhưng không mang lại sự tiến bộ tâm linh
và chuyển hóa. Trái lại sự tiếp cận tâm linh hay quán
tưởng chắc chắn phải đưa ta đến một sự chuyển hóa bản thân sâu sắc trong cách
thế mà chúng ta nhận thức về thế giới để dẫn đến hành động.
Hành giả Phật giáo một khi nhận thức rằng vật thể không hề có hiện hữu tự thân
sẽ giảm thiểu sự dính mắc vào chúng, từ đó giảm bớt khổ đau. Nhà khoa
học, với cùng một nhận thức như thế, sẽ xoa tay hài lòng, xem đó như là một tiến
bộ tri thức hầu sử dụng vào những công trình nghiên cứu khác, sự khám phá này
không hề làm thay đổi thị kiến cơ bản của y đối với thế giới và cách thức mà y
hướng dẫn đời sống của mình.
Trịnh Xuân Thuận
(Tạp Chí Tia Sáng)