Gunaseela 
Vitanage
 
Phật giáo, giống như những tôn giáo khác, nhấn mạnh vào 
những giá trị tinh thần hơn là vào những giá trị vật chất; vào việc buông xả 
những tài vật của thế gian hơn là chấp chặt vào chúng; và vào khía cạnh tâm linh 
của đời sống hơn là vào khía cạnh trần tục của nó. Tuy nhiên, Phật giáo không hòan toàn không quan tâm đến phương diện 
đời sống vật chất và thế tục. Trong thực tế, có một bản 
kinh Phật có tên là Giáo thọ 
Thi-ca-la-việt (Singālovāda Sutta), giảng giải về những luật tắc dành cho 
đời sống của người tại gia. Bản kinh đặt ra những bổn 
phận của một người tại gia đối với người khác cũng như những phương pháp rèn 
luyện bản thân để trở thành một công dân tốt và hữu ích. Những kinh sách Phật giáo cũng đặt ra một số quy chuẩn đạo đức cho 
người lãnh đạo cũng như dân chúng. Chúng cũng đề cập 
đến những hình thức nhà nước thịnh hành vào thời bấy giờ; và thật ý nghĩa, cho 
thấy rằng Đức Phật thể hiện sự ủng hộ hình thức nhà nước dân chủ.
Chúng ta cần phải nhớ rằng Đức Phật sinh vào trong một 
xã hội, mà nói một cách tương đối, là tiến bộ về phương diện chính trị, và xã 
hội mà qua các thời đại đã phát triển một số tư tưởng lành mạnh về tổ chức nhà 
nước. Trong Luật Manu, những người Hindu đã có những luật lệ để hướng dẫn họ 
trong những bổn phận dân sự của họ. Manu, giống như Moses của Thánh kinh Thiên 
Chúa giáo, là người làm luật huyền bí của Ấn Độ. Những luật này thảo luận không 
chỉ về quyền của người cai trị, mà cũng về những bổn phận của họ đối với thần 
dân của họ. Chúng cũng thảo luận về những nghĩa vụ của dân chúng đối với người 
cai trị và cũng như những quyền của họ. Do đó, cần có một vài ý kiến về 
quan điểm của người Hindu về chính quyền, nếu chúng ta muốn đánh giá đúng những 
quan điểm của Phật giáo về vấn đề này.
 

 
Luật Matsya Nyaya
Quan điểm của người Hindu về chính quyền được đặt cơ sở 
trên một lý thuyết được gọi là matsya nyaya, mà nó có nghĩa đen là “luật 
con cá”.
Thuật ngữ matsya nyaya có thể dịch là “luật của kẻ mạnh đè kẻ yếu/ luật rừng”. – “Tại sao cần nên có chính quyền ở 
cuộc đời này?” “Tại sao cần nên có một số người lãnh 
đạo những người khác?” “Tại sao cần nên có những luật lệ mà người ta buộc 
phải tuân theo
dựa trên hình phạt?” Những nhà tư tưởng Hindu đã trả lời những câu hỏi này bằng 
việc xác định một luật tự nhiên căn bản: “Matsya Nyaya”, luật mà qua đó một 
con
cá nhỏ trở thành mồi của một con cá lớn.
Chính quyền, những người cai trị và luật lệ là cần thiết để ngăn chặn luật tự nhiên 
này có tác dụng ở trong xã hội loài người. Loại bỏ chính quyền, loại bỏ những 
người cai
trị và loại bỏ luật lệ, xã hội loài người sẽ thoái hóa trong một tình trạng hỗn 
loạn mà trong đó kẻ mạnh hơn sẽ huỷ diệt kẻ yếu hơn. Luật Manu nói, “Nếu không có quy định và luật lệ, kẻ mạnh sẽ nuốt chửng 
kẻ yếu giống như những con cá.” Thánh điển Mahabharata nói, “Nếu không có người cai 
trị để thi hành sự trừng phạt ở trên trái đất, kẻ mạnh sẽ nuốt chửng kẻ yếu 
giống như những con cá ở trong nước. Điều này có liên quan đến sự băng 
hoại trong thời đại của người xưa, do vì vô chính phủ nên họ ăn nuốt lẫn nhau 
như con cá mạnh bắt con cá yếu làm mồi”.
Điều này cho thấy rằng lý thuyết về chính quyền của 
người Hindu được đặt cơ sở nơi niềm tin rằng bản chất của con người vốn đồi bại 
bẩm sinh. Nếu không có một chính quyền mạnh để kiểm soát con người, kẻ mạnh hơn 
sẽ huỷ diệt kẻ yếu hơn, giống như con cá lớn huỷ diệt con cá nhỏ ở ngoài biển. 
Chính quyền, người cai trị và luật lệ trở nên cần thiết 
để ngăn chặn luật “matsya nyaya” này có tác dụng ở trong xã hội loài người.
Học thuyết về chính quyền này một cách tự nhiên đưa đến 
hệ quả rằng, cần phải có một chính quyền kiểm soát, và rằng chính quyền phải 
được trao cho quyền trừng phạt hay còn gọi là danda.
Quốc vương Hindu như vậy buộc phải chọn chính sách bốn 
bậc (caturopaya) trong việc
cai trị dân chúng: sama, dana, danda, và bheda. Sama có 
nghĩa là hòa bình: người trị vì tài trí phải duy trì hòa bình cho thần dân. Dana 
có nghĩa là từ thiện (bố thí): người trị vì tài trí phải thực hiện từ thiện. 
Danda có nghĩa là trừng phạt: người trì vị tài trí trừng phạt tội phạm theo các mức độ phạm tội. Bheda có nghĩa là tạo nên sự chia 
rẽ khi cần thiết: người trị vì tài trí phải tạo ra những bất đồng trong dân 
chúng để vị trí của ông ta được bảo đảm. Nói cách khác, ông ta 
phải chọn chính sách “đường phân giới và sự cai trị”.
Tình hữu nghị
Quan điểm của Đức Phật hoàn toàn khác với quan điểm 
của người Hindu, rằng matsya nyaya là luật cơ bản của tự nhiên. 
Ngài rõ ràng nhìn thấy sự đấu tranh cho việc sinh tồn mà nó quá hiển nhiên ở 
trong đời sống, nhưng điều này Ngài quy cho sự vô minh của con người hơn là bản 
tính xấu ác bẩm sinh. Đức Thế Tôn cũng thấy rằng con người luôn sẵn lòng sống 
trong hòa bình và quan hệ thân thiện với đồng loại của mình, để hợp tác với đồng 
loại của mình, và thậm chí hy sinh bản thân vì lợi ích của đồng loại, với điều 
kiện là họ được hướng dẫn đúng đắn. 
Theo cái nhìn của Đức Phật, luật lệ áp đặt từ quyền lực bên trên hay bên ngoài 
là không đủ để kiểm soát con người, mà cần thiết phải có sự hiểu biết tự thân và 
kỷ luật bên trong.
Luật kẻ mạnh hiếp kẻ yếu (The law of the jungle/ luật 
rừng) rõ ràng không phải là phổ quát ngay cả ở trong rừng. Có tình hữu nghị và 
sự hợp tác giữa những con thú ở trong rừng – như Đức Phật đã chỉ ra trong nhiều 
câu chuyện Jataka.
Do vì có sự khác nhau cơ bản nơi cách nhìn giữa Ấn giáo 
và Phật giáo, chúng ta thấy rằng Phật giáo ít nhấn mạnh vào quyền lực (bala) hay 
trừng phạt (danda). Ví dụ, chúng ta thấy rằng thay vì là chính sách bốn bậc 
(caturopaya) sama, dana, danda, bheda của người Hindu, kinh sách Phật giáo nói 
về catu-sangaha-vatthu, hay bốn cách thức 
hành xử. Đó là, bố thí (dana), ái ngữ (priya-vacana), 
tiếc kiệm (artha cariya), và bình đẳng (samanatmata).
Như vậy, theo Phật giáo, vị 
vua đức hạnh nên thực hành bố thí (từ thiện). Bố thí ở đây không chỉ đem tài vật 
ban cho người nghèo mà cũng ban phát bổng lộc cho những người phục vụ nhà vua. 
Vị vua đức hạnh cũng phải thực hành ái ngữ, nói năng đúng đắn, tử tế. Ông 
ta không được sử dụng ngôn từ cay nghiệt và độc ác đối với người khác với bất kỳ 
lý do gì.
Nhà vua phải rèn luyện tính tiết kiệm. Từ artha cariya có nghĩa là tinh thần phục vụ cũng như sự tiếc kiệm và 
sống một đời sống giản dị. Vị vua hay người trị vì tốt cũng thực hành sự 
bình đẳng. Tức là, trong khi duy trì vị trí tối cao của người trị vì, ông ta 
không xem bản thân là kẻ tối thượng và dân chúng là kẻ hèn kém, và ông ta cũng 
học cách thực thi sự công bằng đối với nhân dân của mình mà không sợ hãi hay là 
như ban phát đặc ân. Một vị minh quân phải học đối xử bình đẳng với mọi người.
Mười phẩm hạnh dành cho vua (Dasa Raja Dharma/ Thập vương Pháp)
Trong thập vương pháp hay mười phẩm hạnh dành cho một 
vị vua, quan điểm Phật giáo về vương quyền được nói thêm. Mười phẩm hạnh của một vị vua bao gồm: bố thí (dana), 
giữ giới (sila), rộng lượng (pariccaga), trung thực (ajjavan), hòa nhã 
(majjavan), kiềm chế (tapam), không sân hận (akkodho), không bạo lực (avihimsa), 
nhẫn nhục (khanti), và từ ái (avirodhata).
Đức Phật cũng nhấn mạnh vào sự thật rằng cái xấu và cái 
tốt của dân chúng tuỳ thuộc vào sự hành xử của người trị vì họ; và vì cái tốt 
của dân chúng, Ngài đặt ra mười phẩm hạnh này để những người trị vì dân chúng 
thực hành. Trong Tăng chi 
bộ Đức Phật nói rằng, “Này các Tỳ-kheo, khi một người trị vì đất nước tốt và 
đúng đắn, những quan thượng thư của họ sẽ trở nên tốt và đúng đắn.
Khi các quan thượng thư trở nên tốt và đúng đắn, các 
quan lại sẽ trở nên tốt và đúng đắn. Khi các quan lại trở nên 
tốt và đúng đắn, các binh lính sẽ trở nên tốt và đúng đắn. 
Và, khi các binh lính trở nên tốt và đúng đắn, dân chúng sẽ trở nên tốt và đúng 
đắn.”
Mặc dù điều này đối với chúng ta là có phần đơn giản, 
tuy nhiên cần phải xem xét vấn đề này từ nơi xã hội đương thời, nơi hệ thống 
Bà-la-môn đã phân chia xã hội thành những đẳng cấp bất di bất dịch, và có một sự 
chấp thuận tôn giáo về sự phân chia đó...
Bình đẳng
Sự bác bỏ đẳng cấp và phân chia giai tầng của Đức Phật 
không chỉ là lý thuyết. Ngài thâu nhận thành viên của tất cả các đẳng cấp vào trong Tăng 
đoàn. Upali, trước đó là một thợ cắt tóc, Sunita trước đó là một người 
ngoài lề xã hội (ngoài đẳng cấp), đã nhận được sự kính trọng ở trong Tăng đoàn.
Đức Phật nói rằng: “Này các Tỳ-kheo, giống như tất cả 
những con sông lớn, đó là sông Hằng, sông Jammu, sông Aciravati, sông Sarabhu, 
sông Mahi, khi ra đến đại dương đều mất đi tên gọi ban đầu và đặc tính riêng của 
chúng và được đổ dồn vào trong đại dương. Cũng như vậy, Kshatriya, Brahmana, 
Vaisya và Sudra sau khi tham gia vào Tăng đoàn, đều mất đi những đặc tính trước 
đây của mình và trở thành thành viên của Tăng đoàn.”
Những nhà chiêm bái Trung Hoa như Pháp Hiền, Huyền 
Trang và Nghĩa Tịnh cho chúng ta biết rằng những khái niệm dân chủ và bình đẳng 
này vẫn được cỗ vũ ở Ấn Độ nhiều thế kỷ sau khi Đức Phật diệt độ.
Dân chủ
Sau khi đã thảo luận về quan điểm vương quyền trong 
Phật giáo, chúng ta phải tự hỏi rằng có phải Phật giáo xem nền quân chủ như là 
mô thức chính quyền lý tưởng? Vào thời Đức Phật, có một số vương 
quốc lớn ở Ấn Độ, chẳng hạn như Magadha và Kosala. Cũng có một số nhà nước dân chủ thời bấy giờ. Đức Phật rõ 
ràng đã bày tỏ sự ủng hộ hình thức nhà nước dân chủ và cũng bày tỏ quan điểm 
rằng hình thức nhà nước này có lợi cho sự ổn định xã hội.
Đề cập đến những chuẩn bị mà vua Ajatasattu thực hiện 
để tấn công vào một trong những xứ sở dân chủ - những xứ sở của người Vajjī - 
Đức Phật nói:
“Này Ananda, khi nào dân Vajjī thường hay tụ họp và tụ 
họp đông đảo với nhau, thời này Ananda, dân Vajjī sẽ được cường thịnh, không bị 
suy giảm…. Này Ananda, khi nào nghe dân Vajjī tụ họp trong niệm đoàn kết, giải 
tán trong niệm đoàn kết, và làm việc trong niệm đoàn kết, này Ananda dân Vajjī 
sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm… Này Ananda khi nào dân Vajjī, không ban 
hành những luật lệ không được ban hành, không hủy bỏ những luật lệ đã được ban 
hành, sống đúng với truyền thống của dân Vajjī như đã ban hành thuở xưa thời, 
này Ananda, dân Vajjī sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm… Này Ananda, khi 
nào dân Vajjī tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các bậc trưởng lão Vajjī 
và nghe theo lời dạy của những vị này, thời dân Vajjī sẽ được cường thịnh, không 
bị suy giảm… Này Ananda, khi nào Vajjī không có bắt cóc và cưỡng ép những phụ nữ 
và thiếu nữ Vajjī phải sống với mình thời, này Ananda, dân Vajjī sẽ được cường 
thịnh, không bị suy giảm…”
Phật giáo đã có công rất lớn trong việc phát triển 
những hình thức nhà nước dân chủ ở Ấn Độ cổ đại. Đây là những gì mà M. Zetland, một cựu quan chức của 
Ấn Độ, nói ở trong phần giới thiệu cuốn sách 
Legacy of India:
“Thực vậy, chúng ta biết rằng khoa học chính trị – 
tiếng Sanskrit là Arthasastra – là một đề tài được ưa chuộng đối với các học giả 
Ấn Độ một vài thế kỷ trước kỷ nguyên Thiên Chúa giáo. Khế ước xã hội như là nguồn gốc của vương quyền được 
thảo luận trong tác phẩm nỗi tiếng thời bấy giờ được cho là của Kautilya, một vị 
thượng thư của hòang đế Chandragupta, khoảng 300 năm trước Tây lịch. Và dường 
như rằng dân chúng – những người thoả thuận với nhau chọn một vị vua đã làm như 
vậy với mục đích rằng cần nên có quyền lực bên ngoài để có thể bảo đảm những 
luật lệ và quy định của những đoàn thể khác nhau – đã được tôn trọng… Đáng chú ý 
là khuynh hướng về chính phủ tự trị bằng những hình thức hoạt động đoàn thể khác 
nhau này đã nhận lấy sự thúc đẩy từ việc bác bỏ thẩm quyền của tầng lớp Tăng lữ 
và xa hơn bởi học thuyết về bình đẳng của Phật giáo, như trường hợp từ bỏ đẳng 
cấp. Quả thực, chúng ta cần phải lật dở kinh sách Phật giáo để 
tìm sự giải thích về kiểu thức những hội đoàn tự quản tiêu biểu đầu tiên được 
hướng dẫn như thế nào.
Và nó có thể gây ngạc nhiên đối với nhiều người khi nhận thấy rằng các buổi hội 
họp của những Phật tử ở Ấn Độ hơn 2.000 năm trước đã hình thành nên những nguyên 
tắc căn bản mà việc họp quốc hội của chính chúng ta ngày nay đang thực hành…”
Đăng Nguyên lược dịch
Nguồn: Bodhi 
Leaf No. 11, Kandy, Buddhist Publication Society, 2010, tr. 137.