Nhân Phật giáo khởi động hoạt động giáo dục xã hội: nhìn rộng ra các tôn giáo khác
Minh Thạnh
Chúng tôi bắt đầu thực
hiện mục tiêu như tựa đề bài viết nêu ra với đạo Thiên Chúa La Mã, qua việc điểm
một quyển sách mới vừa xuất bản gần đây, đó là quyển “Một
số vấn đề cơ bản của công giáo ở Việt Nam hiện nay”, tác giả Phó Giáo sư
Tiến sĩ Nguyễn Hồng Dương, Viện Nghiên cứu Tôn giáo thuộc Viện Khoa học Xã hội
Việt Nam, do Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa xuất bản.
Quyển sách đề cập đến
nhiều vấn đề của đạo Thiên chúa La Mã tại Việt Nam, nhưng từ mục tiêu nhìn rộng
ra hoạt động giáo dục xã hội của tôn giáo khác, nhân việc Phật giáo khởi động
hoạt động giáo dục, chúng ta sẽ chỉ chú trọng đến nội dung liên hệ đến hoạt động
giáo dục xã hội.
Còn việc Phật giáo Việt
Nam khởi động giáo dục xã hội là nói đến việc Phật giáo triển khai một số trường
lớp mầm non, lớp tình thương, và nhất là gần đây, Trường Tư thục Trung tiểu học
phổ thông Bồ Đề Phương Duy tại Long An.
Việc có thể coi là so
sánh dưới đây sẽ giúp cho Phật giáo Việt Nam chúng ta thấy được bức tranh chung
của giáo dục xã hội do tôn giáo tiến hành, cũng như thấy Phật giáo Việt Nam cần
nỗ lực nhiều hơn nữa trong lãnh vực này như thế nào.
Theo tác giả Nguyễn Hồng
Dương, đạo Thiên chúa La Mã tại Việt Nam đã sớm quan tâm đến hoạt động giáo dục
xã hội.
Mọi việc đã được chuẩn
bị từ sau khi đất nước đổi mới và chính thức khởi động vào đầu thập niên 1990.
Trang 137 sách “Một số vấn đề cơ bản của Công giáo ở Việt Nam hiện nay” cho biết:
“Trước tình hình một số dòng tu nữ “bung ra” hoạt động giữ trẻ, mẫu giáo, ngày
16/9/1990, chính quyền thành phố Hồ Chí Minh cấp giấy phép hoạt động cho 07 điểm
giữ trẻ thuộc các dòng tu nữ, đó là: Mến Thánh giá Thủ Thiêm, Mến Thánh giá Tân
Việt, Phaolo, Bác Ái Vinh Sơn (Bình Thạnh và Quận 3), Đức Bà Truyền giáo (Thủ
Đức) và Nazareth (Phú Nhuận). Tài liệu thống kê từ phía Giáo hội Công giáo, tính
đến thời điểm 2003, 25 giáo phận Công giáo có 799 nhà trẻ, mẫu giáo, nhiều nhất
là thành phố Hồ Chí Minh: 167, tiếp theo là Xuân Lộc: 93, Huế: 85. Hoạt động văn
hóa – xã hội, từ thiện của của các tôn giáo nói chung của Công giáo (trong đó có
các dòng tu) nói riêng nằm trong chính sách xã hội của Nhà nước Việt Nam. Chính
sách này hướng tới hai mục tiêu: một là, phát huy tiềm năng, trí tuệ vật chất
trong các tôn giáo, huy động chức sắc, tín đồ chăm lo sự nghiệp văn hóa – xã hội,
từ thiện; hai là, xã hội, đặc biệt là những người nghèo được hưởng thành quả từ
những hoạt động này.”
Bên cạnh những con số
thông tin có tính chất tổng quát, sơ lược như trên, sách “Một
số vấn đề cơ bản của Công giáo ở Việt Nam hiện nay” còn có một bảng thống kê
số liệu cơ bản của Giáo hội công giáo Việt Nam tính đến thời điểm 6/2012. Bảng
gồm nhiều nội dung, nhưng ở đây chỉ xin trích phần thông tin cơ
sở từ thiện giáo dục (được gộp chung làm một cột vì phía Thiên Chúa La Mã xem
giáo dục trước hết là hoạt động từ thiện).
Dưới đây là bảng trích
Số TT
|
Giáo phận
|
Cơ sở từ thiện giáo dục
|
I
|
Tổng Giáo phận Hà Nội
|
|
1
|
Hà Nội: Hà Nội, Hà Nam, Nam Định (1/2 thành phố, Mỹ Lộc, Vụ Bản, Hải Hưng)
|
35
|
2
|
Lạng Sơn: Lạng Sơn, Hà Giang, Cao Bằng
|
|
3
|
Hải Phòng: Hải Phòng, Hải Dương, Quảng Ninh, Hưng Yên (một phần)
|
6
|
4
|
Bắc Ninh: Bắc Ninh, Bắc Giang, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Tp Hà Nội (3
quận, huyện) và một số huyện thuộc các tỉnh Lạng San, Tuyên Quang, Hà Giang,
Phú Thọ, Hưng Yên, Hải Dương
|
49
|
5
|
Hưng Hóa: Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Hòa Bình, Hà Nội, Phú Thọ, Yên Bái,
Hà Giang, Tuyên Quang
|
5
|
6
|
Bùi Chu: Nam Định (Xuân Trường, Giao Thủy, Hải Hậu, Nam Trực, Trực Ninh,
Nghĩa Hưng, Khu vực xứ Khoái Đồng Tp Nam Định)
|
57
|
7
|
Thái Bình: Thái Bình, Hưng Yên (một phần)
|
|
8
|
Phát Diệm: Ninh Bình, và một phần tỉnh Hòa Bình
|
3
|
9
|
Thanh Hóa: Thanh Hóa
|
2
|
10
|
Vinh: Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình
|
40
|
II
|
Tổng Giáo phận Huế
|
|
1
|
Huế: Thừa Thiên – Huế, Quảng Trị
|
83
|
2
|
Đà Nẵng: Đà Nẵng, Quảng Nam
|
29
|
3
|
Quy Nhơn: Bình Định, Phú Yên, Quảng Ngãi
|
|
4
|
Kon Tum: Kon Tum, Gia Lai
|
27
|
5
|
Nha Trang: Khánh Hòa, Ninh Thuận
|
|
6
|
Ban Mê Thuột: Đắk Lak, Bình Phước
|
64
|
III
|
Tổng Giáo phận Tp. Hồ Chí Minh
|
|
1
|
Tp. Hồ Chí Minh: TP. Hồ Chí Minh
|
249
|
2
|
Vĩnh Long: Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, Đồng Tháp (Sa Đéc)
|
56
|
3
|
Cần Thơ: Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau
|
47
|
4
|
Mỹ Tho: Tiền Giang, Long An, Đồng Tháp
|
19
|
5
|
Đà Lạt: Lâm Đồng
|
81
|
6
|
Long Xuyên: An Giang, Kiên Giang, Cần Thơ (Thốt Nốt)
|
21
|
7
|
Phú Cường: Tây Ninh, Bình Dương, Bình Phước, Tp. Hồ Chí Minh (Củ Chi)
|
27
|
8
|
Xuân Lộc: Đồng Nai, Bình Dương (huyện Dĩ An)
|
3
|
9
|
Phan Thiết: Bình Thuận
|
78
|
10
|
Bà Rịa: Bà Rịa – Vũng Tàu
|
|
|
Cộng
|
981
|
Nguồn: Vụ Công tác tôn
giáo, Ban Dân vận Trung ương
Sách “Một số vấn đề cơ bản của Công giáo ở Việt Nam
hiện nay” cũng nêu một vài trường hợp cụ thể, thí
dụ hoạt động giáo dục xã hội của tu hội Bác Ái Vinh Sơn (trang 95): “Tính đến thời điểm 2003, tu hội nữ tu Bác Ái
Vinh Sơn (42 Tú Xương, P.7, Q.3, thành phố Hồ Chí Minh, có tất cả 7 lớp tình
thương: lớp tình thương Vinh Sơn Bình Lợi (469 Nơ Trang Long, P13, Q. Bình
Thạnh); lớp tình thương Vinh Sơn Huyện Sĩ (01 Tôn Thất Tùng, P. Phạm Ngũ Lão,
Q.1); lớp tình thương Vinh Sơn Vĩnh Hội (158 Bến Văn Đồn, P.6, Q.4); lớp tình
thương Mẫu giáo Fatima (212B/A Nguyễn Trãi, P. Nguyễn Cư Trinh, Q1); lớp tình
thương Cầu Kho (31/16c Trần Đình Xu, P. Cầu Kho, Q.1); lớp tình thương Mẫu giáo
Mai Anh B (159/61 Trần Văn Đang, P.11, Q.3); lớp tình thương Vinh Sơn, Nhà thờ
Đức Bà Sài Gòn (số 1, Công xã Paris, P. Bến Nghé, Q1)).
Trong 7 lớp tình thương có 6 lớp miễn học phí. Các lớp đều có khả năng tiếp nhận
từ trên 100 em đến học. Các lớp tình thương đều do các nữ đại diện.”
Hoặc trường hợp dòng Mến
Thánh Giá Quy Nhơn (trang 92): “Đến thời điểm năm 2003, dòng Mến Thánh giá
Quy Nhơn cải tổ mở 15 trường mẫu giáo, 9 nhà trẻ, 5 lớp tình thương và kí túc xá.
Để có đủ điều kiện chuyên môn, các dòng tu đã cử người đi đào tạo tại các trường
của Nhà nước.
Có thể nói, hầu hết các dòng tu nữ đều tham gia giữ trẻ, dạy mẫu giáo, mở lớp
tình thương. Một số dòng tu nam cũng tham gia mở lớp học tình thương, nuôi trẻ
em nghèo bán trú, cấp học bổng cho học sinh nghèo như dòng Don Bosco.
Hoạt động giữ trẻ và dạy mẫu giáo của các dòng nữ tu trước hết góp phần giải
quyết công việc làm cho các nữ tu nhờ số tiền thu học phí và tiền từ thiện của
những nhà tài trợ. Việc các nữ tu tham gia giữ trẻ, dạy mẫu giáo góp một phần
nhỏ xã hội hóa ngành giáo dục.”
Hoặc trường hợp dòng Don
Bosco: “Ổn định và phát triển không chỉ
biểu hiện ở dòng nữ mà còn ở dòng nam. Xin được lấy dòng Don Bosco làm ví dụ.
Năm 2002, dòng kỉ niệm 50 năm hiện diện ở Việt Nam với sự trưởng thành về nhiều
mặt trong đó có vấn đề nhân sự. Với đường hướng hoạt động như mở trường dạy nghề,
tạo công ăn việc làm cho thanh niên, hỗ trợ học bổng cho các em yên tâm học hành.
Ngoài việc chăm lo đời sống vật chất, dòng còn phụ giúp công tác mục vụ ở 17
giáo xứ và giáo điểm tại các giáo phận thành phố Hồ Chí Minh, Xuân Lộc, Đà Lạt.
50 năm qua, từ con số vài người ban đầu, hiện nay dòng đã có hơn 200 thành viên
tại 11 cộng đoàn, trong đó có 68 linh mục và 33 sư huynh”.
Đại hội XI Hội đồng Giám
mục Việt Nam họp 4-8/10/2010 đã thành lập “Ủy ban Giáo dục Công giáo” (trang 30
sách đã dẫn).
Sách ““Một số vấn đề cơ bản của Công giáo ở Việt Nam
hiện nay” cũng cho thấy giáo dục là 1 trong 3 lãnh vực quan tâm hàng đầu của
Đạo Thiên Chúa La Mã tại Việt Nam qua việc dẫn lại đề nghị của Giáo hoàng
Bênêdicto XVI với Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Minh
Triết ngày 11/12/2009.
Theo đó, Giáo hoàng “đề
nghị Nhà nước Việt Nam tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi để Giáo hội Công giáo
Việt Nam được tham gia đóng góp vào các hoạt động từ thiện, y tế và giáo dục”
(trang 257, sách đã dẫn).
Như vậy, qua sách “Một
số vấn đề cơ bản của Công giáo ở Việt Nam hiện nay”, tác giả Nguyễn Hồng
Dương đã cho chúng ta thấy sự đầu tư mạnh mẽ của đạo Thiên chúa La Mã ở Việt Nam
vào hoạt động giáo dục xã hội cũng như những kết quả đã có được. Từ đó, chúng ta
có cơ sở để so sánh với hoạt động của Phật giáo Việt Nam chúng ta trong cùng
lãnh vực. Điều rõ ràng là tuy Phật giáo chúng ta có một số thuận lợi, chẳng hạn
như đã thành lập được trường trung tiểu học, nhưng thành quả đó có tính cá biệt,
không đi kịp với tình hình chung. Phật giáo Việt Nam vẫn có một khoảng cách khá
lớn so với những gì mà Thiên Chúa giáo La Mã đã làm được trong lãnh vực giáo dục
xã hội những năm gần đây. Phật giáo Việt Nam chúng ta phải ý thức điều đó để nỗ
lực nhiều hơn nữa.
MT