Trong
thời gian gần đây có hai hiện tượng được đài báo và nhiêu tạp chí truyền thông...
Một là “hiện tượng thơ Thiền non thiêng Yên Tử” của ông Hoàng Quang Thuận, và
hai là hiện tượng “đạo sư” Duy Tuệ lập nhiều câu lạc bộ, nhóm, hội “ Thiền Minh
Triết Trần Nhân Tông” trong và ngoài nước.
Hiện
tượng nào cũng như sóng nổi ầm ào... và đúng sai, phải trái, chân ngụy - mọi
người cũng đang bàn cãi, tranh luận...
Nhận
thấy cả hai hiện tượng đều liên hệ đến vua Trần Nhân Tông, sơ tổ Thiền Trúc Lâm
Yên Tử. Cả hai đều mượn danh nghĩa ngài. Một người làm thơ về Yên Tử, rồi cổ súy,
ca ngợi trở thành “Thơ thiền non thiêng Yên Tử” để dự giải Nobel văn học! Một
người lấy luôn tên hội của mình là “Thiền Minh Triết Trần Nhân Tông” để rao
giảng “xuyên quốc gia” có nhiều tổ chức “nâng” và “đỡ”.
Nhận
thấy đây là mối nguy hại cho Phật giáo nói chung và non thiêng Yên Tử, Hương Vân
đầu đà nói riêng - nên tôi, là một tu sĩ, do có nghiên cứu thơ Thiền, và Thiền
của đại sĩ nên tôi muốn đóng góp một tiếng nói chính quy từ cửa Thiền, cửa Phật
không phân biệt Bắc Nam cùng mọi tông hệ trên toàn thế giới - hầu cùng chư vị
thức giả, trí giả suy ngẫm để biết đâu là cái thực và đâu là cái giả, đâu là cái
chánh, đâu là cái tà.
Dĩ nhiên,
hai bài viết của tôi phải bám tựa vững chắc trên mảnh đất Phật học và Thiền học
mang tinh yếu, cốt lõi nền tảng chung của giáo pháp.
Trân
trọng.
Bài thứ nhất:
Hiện tượng “thơ thiền” của Hoàng Quang Thuận
Hoa Tàn, Mưa Tạnh,
Non Yên Lặng...
Hiện tượng thiên tài thơ, siêu việt thơ, thần
thánh thơ... của GSTS Hoàng Quang Thuận - Viện trưởng Viện Công nghệ Viễn thông
Việt Nam - qua hai tập “Thi vân Yên Tử” và “Ngọa Vân Yên Tử” mà hội Nhà văn Việt Nam
vừa tổ chức hội thảo với những bài tụng ca vi vút tận trời xanh, xem như
“dòng thơ Thiền non thiêng Yên Tử” và người ta đã gởi đi dự giải Nobel văn
học, người ta đã tặng cho đất Phật Yên Tử cuốn sách độc bản với kích thước 125cm
x 80cm x 16cm nặng 120 ký đạt kỷ lục châu Á; lại nghe tin hành lang là người còn
dự định cho khắc chạm “thơ Thiền
này” khắp núi non Yên Tử nữa!
Hiện tượng ấy như là một cái gì cần phải
“chau mày suy nghĩ” đối với nền văn học nước nhà, nhất là văn học Phật giáo.
Người ta muốn quảng cáo như thế nào, đạt được kỳ vọng gì là quyền của người ta,
nhưng ca tụng thái quá hai tập thơ ấy như là
“thơ Thiền non thiêng Yên Tử” là một cái gì thiếu nghiêm túc, thiếu cẩn
trọng cần phải được báo động:
- Thơ của Hoàng Quang Thuận có phải là
“thơ thiền” hay không?
- Một người Phật tử hay là một người mộ Phật,
cảm xúc về Yên Tử có thể làm được “thơ thiền” chăng?
- Thơ “nhập đồng” hay là kiểu mượn bút viện cớ là của tiền nhân có phải là
tinh thần Phật giáo không?
- Làm thơ mà “đạo văn” của người khác - dù bạn bè đã gắng gượng đính chính chỉ là “mượn văn” - cái tâm ấy có thể sáng tác
ra “thơ thiền” được chăng?
Hỏi, dường như đã có câu trả lời. Một người
Phật tử bình thường cũng cảm nhận, cũng ý thức được đấy là chuyện “không thể”. Thế nhưng, tại sao, thiên hạ chẳng thấy đó là chuyện “không thể”, lại làm một trò đùa hơi quá đáng để
“tụng ca, tán thán ca” bằng một bè hợp xướng, một giàn đồng ca
”tươi vui xôm trò” như thế?
Cái hiện tượng thơ Thiền ấy tạo nên một cao
trào “rôm rả” mà ta có thể tóm lược như sau:
- Hai tập thơ đã được
in và tái bản bốn lần bằng tiếng Việt và cùng ba thứ chữ Việt-Pháp-Anh với số lượng in lên
đến 25.000 bản. Và người ta đã làm đầy đủ hồ sơ hai tập thơ và dịch
ra tiếng Anh gửi tham dự giải Nobel văn học.
- Có một vị giáo sư mê say ngồi dịch nó mặc dù
tuổi cao sức yếu vì không thể cưỡng lại
“chất Thiền” ở trong đó.
- Có một ngài nguyên Tổng
giám đốc đài nghe nhìn, đọc thơ của ông Thuận đã cảm hứng thốt lên bằng một bài
thơ thất ngôn tứ tuyệt tuy không đúng niêm luật, lại tán thơm: “Tôi tưởng theo anh thăm Yên Tử/ Nào ngờ lạc
bước chốn thi vân/ Hoàng Quang cửa Phật soi câu chữ/ Thuận dòng rửa sạch chốn
bụi trần”.
- Đến nay hiện đã có hàng chục tờ báo ở trung ương và địa phương, từ báo Nhân
Dân, Hà Nội mới, Sài Gòn Giải phóng đến các báo Hạ Long, Quảng Ninh, Thể thao - Văn
hóa... đều đã có bài đăng tải về “hiện
tượng thơ Hoàng Quang Thuận”.
Thậm chí có người “cho lên mây xanh”
nhưng dựa trên nền thực trạng bát nháo thơ Việt hôm nay: “Giữa
thời buổi thơ in ra nhan nhản, chủ yếu xoay quanh đề tài tình yêu hoặc co vào
suy tưởng chiêm nghiệm cá nhân, đôi khi rối mù tắc tị… thì “Thi vân Yên Tử” và “Ngọa Vân Yên Tử” như một áng mây lành, thoát tục,
trong trẻo đến lạ lùng dắt người đọc vào chốn Bồng Lai, rũ bỏ bụi trần trở về
với bản ngã thiện tâm trong mỗi con người...”
- Tập thơ đã có tiếng vang thật là “quốc tế”, có lẽ do không tiếc công quảng cáo, tiếp thị,
“ưu thế quan hệ” và cả cái gì đó khó hiểu nữa - đến đổi Tổng Thống Pháp đã khen ngợi, Tổng Thống Mỹ gởi lời cảm ơn
và hoàng cung Thụy Điển đánh giá là cao siêu và sâu sắc!
- Trước sự động viên cổ vũ của “giàn đồng ca”, ông Thuận
đã tự mình - hay ai đó xúi giục - gửi hai tập thơ ấy đi
tham dự giải Nobel văn học; và có
người còn đẩy “giá trị thơ thiền” ấy
đi quá xa, rằng là: “Được giải hay không chẳng quan trọng bằng việc hai
tập thơ đã là sách gối đầu giường của nhiều bạn đọc hôm nay và mai sau, đặc biệt
đối với những ai yêu thích ‘dòng thơ Thiền’ với
những trải nghiệm tâm linh cực kỳ thú vị”.
Còn nữa, chúng ta còn có duyên may mắn ngàn
năm một thuở được nghe khúc hòa tấu vang vọng lên tận non thiêng Yên Tử, nó động
đến, làm giật mình những hồn thơ cổ xưa, cổ kính của sơ tổ Trúc Lâm, tam tổ
Huyền Quang và cả Nguyễn Trãi, Nguyễn Trung Ngạn nữa...
Để có thêm tư liệu dẫn chứng, tôi xin nhắc đến
bài “Thi vân Yên Tử - tác phẩm và dư luận”
của GD&TĐ Online đã đúc kết đại lược là: Sau hội thảo
“Hoàng Quang Thuận với Non thiêng Yên Tử” do Tạp chí Nhà văn - Hội Nhà văn
Việt Nam tổ chức ngày 8/8/2012, có rất đông người yêu thơ phản hồi bày tỏ tình
cảm quan tâm, trân trọng những vần thơ đẹp lạ, rất thanh khiết mà dung dị mang
đậm chất Thiền. Đại diện cho Hội Nhà văn, ông Hữu
Thỉnh nói rằng: “Thơ anh - Hoàng Quang Thuận - là một bức tranh tôn giáo trầm
mặc mà sống động, thanh khiết mà run rẩy!”
Những ai quan tâm đến nội dung buổi hội thảo mà GD&TĐ đề cập để biết cái “thanh khiết mà run
rẩy” của Hữu Thỉnh muốn nói là cái gì - thì có thể đọc
bài của ông: “Một hồn thơ sau những bức
tranh tôn giáo”. Tiếp
theo, những ai muốn nghe những “vần thơ đẹp lạ, rất thanh khiết mà dung dị mang đậm chất Thiền”
ấy ra sao thì cứ nhờ chú Google dẫn đường để xem thêm một số bài khác:
-
Lạc đạo tùy duyên cùng Thi Vân Yên Tử
(Đỗ Ngọc Yên). Hoàng
Quang Thuận với non thiêng Yên Tử (Hữu Việt). Cảm
hứng thiền trong thơ Hoàng Quang Thuận (Ngô Hương Giang). Dấu tích vua Phật Trần Nhân Tông ở Yên Tử trong lòng thi
nhân (Đặng Hiến). Vẻ đẹp cõi Phật trong Thi
Vân Yên Tử của Hoàng Quang Thuận (Nguyễn Toàn Thắng). Cảm thức tâm linh trong thơ Hoàng Quang Thuận
(Dương Kỳ Anh). Thiền vị trong Thi vân Yên
Tử của Hoàng Quang Thuận (Trần Thị Thanh). Về Yên Tử đọc thơ Hoàng Quang Thuận
(Đăng Lan). Cảnh vật trong cảm thức thiền tông
(Phạm Quang Trung). Không gian “Thiền”
trong Thi vân Yên Tử (TS. Hà Ngọc
Hòa). Yên Tử
qua thơ Hoàng Quang Thuận (Thu Phong). Chữ
tâm trong Thi Vân Yên Tử (Mộc Lan). GS. Hoàng Quang Thuận:
"Tiền nhân mượn bút tôi viết thơ " (Dương Tử Thành). Có một nhà thơ danh sơn
Yên Tử (Trần Nhuận Minh). Thi vân Yên Tử của Hoàng Quang Thuận - Một chân dung thơ - Phật tính hiền truyền (Hoàng Trung Hiếu). Tình yêu đất nước và chất thiền Thi Vân Yên Tử
(Thế Trung). Thi vân Yên Tử của tác
giả Hoàng Quang Thuận như một hiện tượng văn học
(PGS.TS Nguyễn Hữu Sơn).
Tuy nhiên, có điều đáng mừng là không phải ai cũng chạy theo phong trào ca tụng
ấy, quả thật đã có những người đã tỏ vẻ hoài nghi thiên tài thơ thiền ấy, họ đã
biết đặt những vấn đề:
- Thi vân Yên Tử “nhập đồng” hay
“đạo”
thơ? (SGGP Online). Trong đó nhà văn
Võ Thị Xuân Hòa: “Hội Nhà văn Việt Nam sẽ
làm rõ nghi án ‘đạo’ thơ”.
Còn nhà phê bình Nguyễn Hòa: “Liệu nó
có đúng là thơ không và có đúng với những gì mà ông Thuận nói là thơ của tiền
nhân không, vì theo đánh giá của tôi, đó chỉ là văn bản thơ hạng xoàng!”
-
“Thi vân Yên Tử” của Hoàng Quang Thuận có phải là thơ nhập
đồng? của luật sư Nguyễn Minh Tâm. Trong đó, người viết đã rất trung thực
phân tích và chứng minh rõ, thơ ấy không phải là thơ nhập đồng, cũng không phải
tiền nhân mượn bút - mà chính Hoàng Quang Thuận đã lấy ý từ quyển sách “Chùa Yên Tử, lịch sử - truyền thuyết, di tích và danh thắng” của
tác giả Trần Trương để “biên soạn lại
thành thơ”.
- “Hiện
tượng thơ nhập đồng” hay là trò sao chép, lừa đảo? của Mai An đăng ở báo Dân Việt, trong
đó tác giả nói trong ba đêm mà sáng tác 141 (sic) bài thơ và
dự giải Nobel phải chăng là “giấc mơ quá cỡ”? Rồi Mai An trích câu nói của
nhà thơ Trần Trương, hội Nhà văn VN: “Đây là một hành động lừa đảo...”
- Dấu
hiệu đạo văn của “nhà thơ nhập đồng”
- tác giả Nguyễn Việt Chiến đăng trong tạp chí Văn học và Ngôn ngữ.
- “Hiện
tượng thơ nhập đồng”: Sớm làm rõ “nghi án” đạo văn; và “Ai tiếp tay cho nhà thơ nhập đồng Hoàng
Quang Thuận dự giải Nobel”
- Lê Tâm thực hiện. Trong đó tác giả bảo có nhiều người muốn biết ai viết giấy
giới thiệu? Và nổi bật ý kiến: “Dự giải Nobel là một điều khôi hài”.
- Và mới đây là bài “Cái lưỡi... đa nhân cách và những phát ngôn”
của Kỳ Duyên đăng tại Báo Mới.com - trong đó tác giả sau khi phê phán khá nặng
nề ... và viết lơ lửng “Xấu chàng, hổ... Tạp chí Nhà văn”, đã nói là ông Thuận phải trả giá
đắt cho sự nông nổi của mình chỉ vì hai chữ lợi danh tai quái; ông muốn đạt tới “ngộ” nhưng có lẽ tục lụy còn quá nhiều, tham, sân si còn quá lớn
nên “ngộ nhận” chăng?
Có lẽ liệt kê như thế cũng tạm đầy đủ.
Đầu tiên, tôi xin góp ý một cách đúng đắn và
khách quan rằng, cả hai tập thơ của Hoàng Quang Thuận là loại thờ tả cảnh, tự
sự, cổ tích, sử tích, huyền thoại vào loại bình thường. Tôi nói là bình thường -
chớ không dám nói thẳng thừng như nhà phê bình Nguyễn Hòa gọi là
“hạng xoàng!” Đối với tôi, nếu “được gọi là thơ” thì thơ Quang Thuận chưa phải là
“thơ hay” vì nó thiếu “chất thơ”,
tức là thiếu vắng ngôn ngữ nghệ thuật và hình tượng nghệ thuật. “Chất thơ” thì nó không nằm nơi ý nghĩa
bề mặt câu chữ của văn bản mà nó phải ở ngoài hoặc ở phía sau bề mặt câu chữ của
văn bản. Cố gắng đọc vài chục bài thơ của ông, tôi đã thấy chán, vì nó
“chẳng có thơ” và dĩ nhiên, đích thực là “chẳng có Thiền”! Tôi thấy đâu đó chỉ là sự lắp ghép ý tứ, câu chữ,
lựa dáng, tìm vần... nhưng mà cũng chưa chỉnh, chưa “giỏi” lắm!
Và ý nghĩa của nó chỉ có một, nó nằm “chết”, nằm “bất động” nơi bề mặt câu chữ của văn bản
mà thôi. Ta hãy khảo sát một số bài:
1. “Cổ
thụ vươn cao xòe tán rộng
Rừng già
nóng lọt đốm hoa rơi
Dây leo
chằng chịt vắt cành lá
Chìm
rừng
líu lót với hương trời”.
2. “Viên
gạch Hoa Cúc đời nhà Trần
Phù điêu
sư tử sứ hoa vân
Vẫn ba
gốc đại ngày xưa ấy
Bao
năm
xa cách vẫn thấy gần”.
3.“ Từ
bỏ ngôi vua để tu hành
Từ
cái nhất thời, cái hữu danh.
Vĩnh
hằng vô hạn, vua tìm đến
Yên Tử
trường xuân hóa đất lành”.
4. “Vòng
cung uốn lượn tựa mình rồng
Vươn
mình thế núi hướng biển Đông
Ẩn
sâu khúc lượn trong lòng đất
Đầu rồng
ngoảnh lại hướng Thăng Long”.
5. “Dựng xây cung điện đế triều nghi.
Định đế xưng vương lập
thành trì.
Đại Hoàng
cổ Việt Trương Yên phủ.
Hào sâu núi hiểm
bất khả tri”
Cả năm bài tứ tuyệt, nếu là tứ tuyệt nghiêm
túc thời trung đại thì bài nào ở đây cũng thất niêm luật cả (những chữ gạch đáy, đổi trắc thành bằng,
bằng thành trắc mới đúng); và ý nghĩa của nó chẳng khác gì thông tin của một
văn bản điện tử, hiểu ngay, nắm bắt được ngay! Đây là loại
“văn xuôi có vần!”
Rất tầm thường! Mới tập làm thơ cũng làm được. Nếu ai đó nói là có tâm thì đúng
vậy, nó chỉ có tâm! Nhưng ngay cái tâm ấy cũng chưa nắm bắt căn bản tư tưởng
Phật học khi nói “vĩnh hằng và trường xuân” ở nơi bài 3 - vì
“vĩnh hằng” là cõi của nước Chúa, còn
“trường xuân” là cảnh giới luyện tinh thành khí để đạt
“trường xuân bất lão” của Đạo gia! Còn về thơ tứ tuyêt như trên thì nhà phê
bình Nguyên Hòa cười mỉm: “Dù tác giả làm nhiều bài thơ tứ tuyệt hoặc
ghép hai bài tứ tuyệt thành một bài thất ngôn bát cú cho có dáng dấp Đường luật
thì ngay cái việc cố gắng ép thơ vần cũng đã đưa lại ý tứ khôi hài...”
Đấy là chúng ta khảo sát về cái gọi là thơ thì
thơ Quang Thuận chỉ là “văn xuôi có vần!”, chưa phải là thơ thứ
thiệt! Còn về cái mà người ta gọi là “thơ
Thiền” của Quang Thuận, thì hãy nghe nhà phê bình Nguyên Hòa nhắc nhở:
“Xin chớ nghĩ hễ trong bài thơ có hình ảnh chùa chiền, non cao, bóng núi, cây
đá, mây trời, trăng treo, tiếng hạc... là bài thơ có chất Thiền! Xin hãy hiểu
rành rẽ về Thiền và thơ Thiền rồi hãy viết, kẻo lại rơi vào cảnh ngộ ‘vẽ rắn
thêm chân’!” Nói vậy, rõ là ông Nguyên Hòa đã rất thận trọng
“về Thiền và thơ Thiền”. Thận trọng là đúng. Tuy nhiên, nếu là tôi, là một
tu sĩ có học Thiền, có tu Thiền và cả dạy Thiền, tôi sẽ mạo muội xin phép viết
lại mệnh đề cuối như sau:“Xin hãy tu tập Thiền, chứng nghiệm Thiền,
sống Thiền rồi hãy làm thơ Thiền, kẻo lại rơi vào cảnh ngộ ‘đầu thượng trước
đầu, tuyết thượng gia sương’! ” Vì vậy, hai tập thơ của Quang Thuận
viết về Yên Tử mà được mọi người gọi là thơ Thiền thì quả là hơi nóng vội, có
cái gì đó thiếu chân xác, cần phải đính chính lại.
Tại sao tôi lại dám nói vậy? Vì thật sự là thơ
Thiền thì phải được cảm hứng từ trực giác tâm linh của những Thiền sư đạt ngộ,
của những hành giả đã từng miên mật công phu định tuệ trên
non cao, động thẳm, trong những tu viện xa vắng, tịch liêu. Các vị ấy đã nhảy
qua hố thẳm phạm trù của lý-trí-thức-tri-nhị-nguyên-sai-biệt, đã giải quyết trọn vẹn
“tử sinh đại sự”, đã cất tiếng cười lạnh giá cả sao Ngưu, sao Đẩu, đã cởi bỏ
tất thảy mọi xiềng xích buộc ràng của bản ngã với những mặt nạ hư dối, đã trang
bị cho mình con mắt thứ ba của “tuệ nhãn”
nhìn xuyên thủng hư vô bị che chắn dập dờn bởi khói sương mê lầm, vọng huyễn.
Cuộc đời các vị ấy là một chân dung mô phạm khả kính. Họ có đời sống giới luật
nghiêm túc, có đạo hạnh tôn quý, có tuệ giác khinh linh siêu thoát. Họ sống
thiền trong từng hơi thở, từng sát-na nên mới có thẩm quyền về thiền, nói về
thiền, mới có thể “thở ra thơ thiền”
được. Còn tác giả của những tập thơ Yên Tử này là ai? Một Phật tử hay đơn thuần
chỉ là một người mộ Phật? Hoặc chỉ là một người kính yêu non thiêng Yên Tử? Là
một con người bình thường có gia đình vợ con? Một cư sĩ trí thức hay một vị quan
đang “đại ẩn” tại triều trung? Và nếu
gồm tất thảy những con người ấy, với những “hành trạng” như thế thì người ta chỉ có
thể làm thơ tức cảnh, tức tình, về tự sự, về cổ tích, về danh thắng hay về huyền
thoại... nhưng thơ ấy không thể gọi là thơ thiền! Tôi nghe biết tác giả là một
GSTS, một viện trưởng, một nhà khoa học; tuy nhiên, cho dẫu một trí thức uyên
bác cũng không thể nào với tới thế giới tâm linh trực giác, là lãnh địa ở ngoài
mọi kiến thức và trí năng? Có thể nào trí thức bác học hiện nay trên thế giới ai
cũng có thể liễu giác, chứng nghiệm thiền, sống thiền trong một vài sát-na tư
duy đốn ngộ và có thể làm được thơ thiền cả thảy? Điều này là bất khả. Điều này
là “vẽ lông cho rùa”, “chắp sừng cho thỏ” .
Còn nữa. Còn một chuyện nữa. Như người ta nói,
và chính tác giả cũng có nói là mình làm trong ba đêm liền tập “Thi vân Yên Tử” gồm 143 bài trong trạng thái như
“nhập đồng’, do tiền nhân mượn bút nên khó lý giải được. Đầu tiên, xin được
đính chính, là cái kiểu “nhập đồng, mượn
bút” kia không phải là tinh thần của nhà Phật chánh tông, nó hơi “tà” rồi đấy! Có người lại suy luận, có
lẽ do nhập định sâu
mới làm thế được. Xin thưa, “nhập định sâu” thật sự thì phải đóng hết cả sáu căn
(mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý); trong trạng thái ấy, hành giả đâu có thể
khởi tư duy mà làm thơ được?! Hàng ngàn người tu thiền định thứ thiệt họ biết rõ
điều đó; nói chuyên môn một chút là phải xuống “cận hành định”
mới khởi “tầm và tứ” tức là khởi ý
niệm và suy nghĩ được! Riêng chuyện nhập thần, mượn bút thì có thể có - nhưng
“tiền nhân” này là ai? Tiền nhân này sao lại có đọc quyển sách
“ Chùa Yên Tử, lịch sử, truyền thuyết, di tích và danh thắng”
của tác giả Trần Trương? Cứ dựa theo sách của người ta, đổi văn xuôi thành văn
vần để biến ra cái gọi là thơ thiền? Tiền nhân này sao lại
“mượn văn” của tác giả đang sống hiện nay một cách vô ngại thời gian như
thế? Và nếu có thật chuyện đó thì tiền nhân này không phải là Phật, là thần, là
Trần Nhân Tông, là các vị thiền sư, là các đại bút danh sĩ rồi! Tại sao? Vì Phật
thần thì không có cái tâm xiêng xẹo, cong vênh như thế! Và nếu là các tác gia
thời trung đại thì “đại bút” của các vị ấy đã rơi xuống “tiểu bút” rồi, thi hương cũng không đỗ đâu! Còn nếu là Trần Nhân
Tông, Huyền Quang, các vị thiền sư giáng bút thì sao thơ quý ngài lại
“xuống cấp”
đến vậy, “tầm thường thơ” đến vậy,
chẳng có tuệ, có thiền, có trao truyền mật chỉ tâm ấn gì cả?! Tiền nhân này là
ai vậy? Chúng ta phải tìm cho ra cái khuôn mặt
của ông ta - để giải bớt cái oan khuất cho tất thảy thiền sư, danh sĩ thời Lý,
Trần mà văn học sử thường xem như đấy là thời đại đỉnh cao của văn học, là cái
“nôi”
hàm tàng mọi giá trị mỹ học, thiền học cũng như tinh túy văn hóa bản sắc của cha
ông. Tiền nhân nhập bút ấy là ai mà Nguyễn Hòa đã than:
Nếu thực sự “tiền nhân mượn bút” của Hoàng
Quang Thuận để “viết thơ” thì xem ra thơ của “tiền nhân” đã sa sút đến mức thê
thảm... Với các bài thơ chưa đúng niêm luật ... mà được gọi là “nghệ thuật Đường
thi trác việt” thì đúng là hết thuốc chữa!
Quả đúng là hết thuốc chữa!
Vì “trăm
năm duyên kiếp” như thế này mà cũng là thiền sao:
“- Trăm
năm duyên kiếp còn lưu lại
Lối cũ
đường xưa ngập cỏ cây”.
Và đây cũng gọi là thơ, là thiền sao:
“- Ba
tên
kẻ cướp nhảy chặn đường
Vua Trần
cho bạc lẫn phần cơm
Nhẹ
nhàng thuyết giáo trừ tâm độc
Cả ba
quỳ lạy hứa hoàn lương!”
Và đây nữa:
“- Hoa Lư kinh thành của Đế vương
Mây bay phủ núi luỵ biên cương
Hoàng Long dậy sóng ngàn năm ngủ
Long Mã truy phong thượng đạo
đường”.
Bài nào cũng thất niêm luật, không những không
phải thơ, không phải thơ thiền mà còn không hiểu tác giá đưa thông tin “bí mật” gì ở nơi chỗ
“lụy biên cương” và cái “thượng đạo
đường”?
Vậy là quá đủ.
Xin chư vị thức giả thẩm định cái gọi là
“tiền nhân nhập thần mượn bút” ấy cho!
Tôi không tu Thiền theo thiền phái Trúc Lâm,
không phải là đệ tử, thân hữu, cũng không quen biết các ngài, các Sư, Ni ở trong
tông môn đó. Tôi thuộc Theravāda, chỉ là một tu sĩ yêu thơ, có nghiên cứu thơ
văn của Trúc Lâm tam tổ và các danh sĩ làm thơ có ảnh hưởng thiền thời Lý, Trần.
Thơ, thơ thiền, thơ có tư tưởng thiền và thơ có liên hệ đến non thiêng Yên Tử
của các vị ấy, vào thời trung đại ấy... tôi nghẹn chữ, không biết nóí sao. Tôi
chỉ muốn ví von - dù biết ví von nào cũng khập khễnh - là nó như là hạt tuyết
trắng trinh tuyền trên non cao. Nó là đóa hoa tinh khôi, diệu vợi u hương trên
đầu núi. Mà bút khí, bút lực, bút trí, bút tâm của thế gian là bút của chợ
triền, ở dưới này, thường không vói tới! Nó khác, nó rất khác, nó khác xa so với
tất cả thơ mạo nhận là thơ thiền hiện nay. Tảng đá tịnh định, trầm mặc trong
vườn thiền hôm kia cũng toát mồ hôi. Lau cỏ quê mùa dân dã, an nhiên sáng nay
bên hiên chùa cũng run lẩy bẩy. Hiện tượng phẩm bình hơi quá bút về thơ thiền
của Hoàng Quang Thuận làm cho “đá cỏ trong vườn thiền” cũng phải lên
tiếng đính chính một vài chỗ cần thiết. Tuy nhiên, thật may mắn thay cho Phật
giáo chúng ta, và cả cho những ai yêu non thiêng Yên Tử cùng cốt cách
“cam lộ lưu phương ” của Hương Vân đầu-đà - là các nhà học
giả nghiêm túc, các nhà nghiên cứu có đạo đức tri thức đã đồng loạt phản bác,
phê phán nghiêm khắc, đã nhìn ra “chân
tướng”,
đã chỉ ra cái “bản lai diện mục” của
cái trò chơi hơi “quá đà” kia rồi! Chỉ một chút xíu
“quá đà”
thôi, chớ không nên nói khá nặng lời như ai đó đã xem như là một hiện tượng vĩ
cuồng!
Tạm dịch (không lấy hết ý trong cặp đối):
“- Phải,
trái niệm rơi hoa rạng sớm
Lợi danh
lòng lạnh mưa thâm đêm
Hoa tàn,
mưa tạnh, non yên lặng
Còn tiễn
xuân tàn, một tiếng chim!”
Hy vọng rằng, những hiện tượng phù du như vậy
rồi sẽ qua đi. Chuyện phải, chuyện trái nó rơi theo hoa buổi sớm rơi. Cái tâm về
lợi danh nó lạnh ngắt giống như trận mưa lạnh ngắt đêm rồi! Và ngay cái rơi, cái
lạnh ấy cũng không còn nữa, nó rụng, nó tạnh hết rồi, chỉ còn lại non yên lặng
mà thôi. Và ở nơi cái “thực tại non yên lặng”
ấy, một tiếng chim vừa hót lên...Cũng vậy, cái gì không phải thơ, không phải
thiền thì nó sẽ rơi, sẽ rụng đi - nhưng sự an tĩnh và thanh khiết của hồn thơ,
hồn thiền non thiêng Yên Tử sẽ còn mãi với thời gian. Mong vậy thay!
Am Mây Tía 20/8/2012
Minh Đức Triều Tâm Ảnh
Chú thích:
,
Bài thứ hai
Hiện tượng về “đạo sư” Duy Tuệ
Mổ xẻ cái gọi là Thiền Minh Triết
của “đạo sư” Duy Tuệ
Lời thưa,
Đọc qua một số sách và những bài giảng đó đây của vị “đạo sư” này, tôi
thấy đây đúng là một hiện tượng cần phải báo động! Người ta ca tụng, tuyên
truyền cũng nhiều mà trao đổi, đối thoại gay gắt cũng lắm. Đài báo, các câu lạc
bộ tổ chức rất chính quy, rất bài bản để xiển dương hội “Minh Triết Trần Nhân
Tông”
của ông ta thì tạm thời chúng ta hãy nhẫn xả bỏ qua một bên hoặc giả vờ quay mặt
đi. Thôi thì khởi tâm bi mà thương xót những người dại dột bị dụ dỗ mà không
biết! Thảng hoặc“tránh voi chẳng xấu mặt nào”! Tại sao vậy? Vì Phật giáo
chân chính không chống nổi tà đạo vào thời đại “Phật nhất xích, ma nhất
trượng!” này. Vì tiếng chuông nhà chùa không “áp đảo” nổi cả một hệ
thống đánh trống thổi kèn ăn theo do tiền bạc; do khoác áo trơn vỏ để luồn lách
của những con rắn trăm đầu; do thế lực ngầm nào đó bài xích Phật đã mượn kẻ hám
danh, hám lợi tuyên truyền cho họ; do vì một số quần chúng hời hợt, “óc để
ngoài tai”; do một số người trẻ tuổi chưa có bề dày về kiến thức, văn hóa,
tâm linh - cái gì có vẻ xôm trò, được quảng cáo, tiếp thị rùm beeng là a dua
theo để chứng tỏ mình tiếp thu được “phong trào thời thượng”! Ở đây tôi
chỉ bàn chuyện “trao đổi, đối thoại” với ông ta của hằng chục tờ báo Phật
giáo trong và ngoài nước mấy năm trở lại đây. Người ta nghiêm khắc lên án
một hiện tượng dường như “điếc không sợ súng” khi phỉ báng Phật, Pháp,
Tăng nơi quyển sách
“Ta là ai” của ông “đạo sư” tự phong Duy Tuệ kia là đúng, là chính
đáng. Tuy nhiên, viết bài trao đổi mà như “ăn miếng trả miếng”
như kiểu “cục đá quăng qua, cục chì ném lại” thì ai thắng, ai thua đều bị
tổn thương cả. Ta phải đứng cao hơn ông ta một, hai cái đầu, lại dùng tinh thần
con nhà Phật mà nói chuyện. Trong trường hợp ông ta chắc chắn là có “tí”
học thức, kiến thức thì chúng ta phải có chút ít trình độ học thuật mới đối trị
nổi cái con người mà ai cũng bảo là “ma giáo” này! Đa phần những Phật tử
có đức tin, có tâm huyết ấm ức quá nên lúc trao đổi, họ không chịu ngồi cùng một
chiếu nên như cuộc đối thoại giữa hai người điếc! Vì ai cũng có chân lý, chủ
kiến của riêng mình mà! Thảng hoặc họ chỉ phanh phui, săm soi nơi cành nhánh
ngọn nên không biết căn bệnh phát sanh từ gốc. Phải lần tìm tận gốc, chư vị ạ!
Hoặc như bắt rắn thì phải tìm cái đầu, nơi yết hầu chứ đừng loay hoay chụp nắm
cái đuôi! Phải lôi ngay chính quyển “kinh tinh túy” của ông ta, từ
“căn cứ địa”
mà ông ta lập thuyết, lập ngôn mà mổ xẻ. Nói kiếm hiệp một chút chơi cho thư
giãn, là phải tạm mượn “Thất thương quyền”
của phái “Không Động” để “đả thương thất tình” của chúng sanh; phải vận dụng “đàn chỉ tuệ kiếm”
để điểm vào tử huyệt “Thiền Minh Triết”của
ông ta.
Phải biết tùy nghi phương tiện ngồi cùng một chiếu Minh Triết, từ lập ngôn, lập
ngữ của ông ta mà đối thoại!
Tôi nghĩ rằng quyển sách “Cẩm nang thực hành Thiền Minh Triết” của Duy Tuệ chính là hệ thống tư tưởng
căn bản, từ đó ông thêm rau cải, tương chao gì đó để viết thành sách hoặc thuyết
giảng nơi này và nơi khác. Vậy tôi sẽ đọc từng dòng, từng câu, từng đoạn, từng
chương một, xem thử nội dung Thiền Minh Triết của ông ta có những gì? Có một số
tư tưởng được lấy “nguồn” ở đâu? Rồi chỗ nào là “quay cóp” của
Phật mà làm của mình? Chỗ nào là “vay mượn” tư tưởng triết học Đông Tây?
Rồi gồm tất cả đó, ông chiên xào như món hàng thập cẩm rồi đem rao bán trong
nước và ngoài nước, như nơi những trang Web. thống kê “cao trào thắng lợi”
của ông ta, kẻ mà người ta gọi là đã bán Phật không giấy tờ văn tự này: Web:ww.daosuduytue.com;
www.duytue.com và ww.ungdungphathoc.vn...
Tình hình như vậy đó nên
tôi sẽ bình tĩnh, ung dung “tận tình” mổ xẻ từng điểm một, chậm rãi
từng hồi một, để mọi người thấy rõ ông ta sai lầm chỗ nào, tà kiến chỗ nào, chỗ
nào là quay cóp, tạm mượn của ai, tư tưởng gốc ra sao... để ông ta không thể lòe
bịp những người con Phật nhẹ dạ, cả tin được nữa.
Nội dung ấy tôi đã lập ra
đây, có 7 hồi, đặt tiêu đề theo sách giảng
“Thiền Minh Triết” của ông ta:
- Hồi thứ nhất: Về cụm từ
“Thiền Minh Triết”.
- Hồi thứ hai: Vấn đề của cái đầu.
- Hồi thứ ba: Trải qua ba kinh nghiệm.
- Hồi thứ tư: Ba thời kỳ của cuộc đời.
- Hồi thứ năm: (Ông ta giảng) Thiền
Minh Triết là gì.
- Hồi thứ sáu: (Ông ta)
Kết luận.
- Hồi thứ bảy: Hộp Minh Triết.
(Xin chư độc giả nhẫn nại xem từng hồi một)
Hồi Thứ Nhât:
Về cụm từ Thiền Minh Triết:
(Enlightenment Meditation)
Đầu tiên tôi sẽ khảo sát, phân tích xem thử cái kiến thức “hàn lâm” của
ông ta như thế nào! Thiền là gì và Minh Triết là gì! Và ông ta có hiểu Thiền là
gì không? Có hiểu Minh Triết là gì không?
Đập ngay trước mắt ta là cụm từ “Thiền Minh Triết” mà ông đã dịch sang
tiếng Anh là Enlightenment Meditation - xem thử có đúng với ngữ nguyên chăng?
Enlightenment: Khai sáng, giác ngộ.
- Nếu dịch “enlightenment” là “khai sáng” thì xuất xứ của nó ta
được biết có từ
“thời kỳ khai sáng” hay “thời đại khai sáng” mà người Anh gọi là
“The Enlightenment” (Xem Wikipedia). Phong trào có tên là “Thời đại khai
sáng”
này xuất hiện ở châu Âu được đánh dấu niên đại từ năm 1648, hiệp ước Westphalie
đến năm 1979, cách mạng Pháp - nhằm hạ bệ sự thống trị của tôn giáo trên mọi
lãnh vực tín ngưỡng, tư tưởng, nhân sinh, xã hội, nhất là khoa học tự nhiên
(natural science). Phong trào này người ta cho rằng, chính “lý trí và
khoa học” chứ không phải tôn giáo (Thiên chúa giáo La Mã) làm cho
nhân loại tiến bộ. Vậy “khai sáng” trong không-thời-gian và bối cảnh châu
Âu thuở ấy có nghĩa là “lý trí khoa học” khai sáng (enlightenment)
cho nhân loại qua những nghiên cứu về vật lý, sinh học, hóa học, cơ học, quang
học, thiên văn học...
- Nếu dịch “enlightenment” là “giác ngộ” thì Tây phương thường
dùng để chuyển tải khái niệm về sự giác ngộ của đức Phật (The
Buddha's Enlightenment). Và nếu là giác ngộ thì nó không thuộc phạm
trù lý trí khoa học ở trên nữa, mà nó thuộc về trực giác tâm linh, tức là sự
thấy biết chân lý, sự thật, pháp như thực tánh (sabhāva dhamma) ngay tức
khắc, không qua trung gian của lý trí nhận thức hay suy luận (tưởng tri -
sañjānāti hay thức tri - vijānāti). Nó thuộc lãnh vực của tuệ tri
(pajānāti)
hay liễu tri (ājānāti) mà học thức, trí năng của con người không bén mãng
tới được.
Meditation:
- Tây phương thường dùng từ này để dịch chữ “Thiền” của Phật giáo. Có lẽ
họ đã không có từ tương đương để chuyển tải chính xác nội dung của “Thiền”.
Tại sao vậy?
Trong Tam Tạng kinh điển Pāḷi văn mà (hội)
Pāḷi Test Society đã dịch ra tiếng Anh phổ biến từ thế ký 19-20, các nhà nghiên
cứu người ta đã rất thận trọng khi dịch những thuật ngữ Phật học. Từ nào chuyển
ngữ được thì họ tìm từ tiếng Anh tương đương, từ nào không chuyển ngữ được, họ
dịch ý, nếu sợ bị lệch khái niệm thì họ giữ nguyên từ Pāḷi.
*Thiền tuệ, tuệ quán hay minh sát tuệ: Chính là Thiền minh sát (vipassanā),
tiếng Anh không có từ tương đương nên họ dịch ý bằng những cum từ “nhìn vào
bên trong” (inward vision), “thấu hiểu bên trong” (insight), thấy
biết bằng “trực giác, qua trực giác” (intuition). Hiện nay, do rất nhiều
nhà sư Tây phương tu Thiền tuệ, minh sát, biết dịch sang một ngôn ngữ khác sợ
khái niệm bị lệch lạc nên họ đã cẩn trọng giữ nguyên từ vipassanā - khi đề cập
đến Thiền minh sát.
Vậy, nếu là Thiền Nguyên thủy (Theravāda), là Thiền có thời đức Phật thì
ngài chỉ nói Định và Tuệ. Định thì phải tu “Thiền chỉ - Thiền vắng lặng”
qua 40 đề mục về khái niệm (paññatti). Tuệ thì phải nội quán, minh sát
ngũ uẩn, thập nhị duyên khởi để thấy rõ tam tướng; tức là phải thấy thực, như
chân như thực vô thường, khổ không, vô ngã; và đối tượng của nó phải là pháp như
thực tánh (paramattha dhamma)
không đi qua, không dính mắc nơi thế giới khái niệm. Đây chính là nội dung mà
người Anh thận trọng dịch ý là “nhìn vào bên trong”, “thấu hiểu bên trong”,
“bằng trực giác, qua trực giác” như trên. Tất cả các truyền thống Thiền như
Thiền Đông độ, Thiền Zen Nhật Bản, Thiền các quốc độ Nam phương như Thái,
Myanmar, Srilaṅkā... Thiền Trúc Lâm tam tổ - đều lấy Tứ niệm xứ, nói rõ là Thiền
minh sát này làm sở y.
Do vậy, do liên hệ đề tài này, chúng ta phải bỏ công khảo sát thêm ba dòng Thiền
khác nữa, đó là Thiền Đông độ của Trung Quốc, Thiền Zen của Nhật Bản và Thiền
của Trúc Lâm Sơ tổ.
*Thiền Đông độ: Sơ tổ là Đạt Ma với tuyên ngôn “Bất lập văn tự, giáo ngoại
biệt truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”.Và sự lãnh hội tâm
chứng của lục tổ Huệ Năng qua bài kệ: “Bồ-đề bổn vô thụ. Minh kính diệc phi
đài. Bản lai vô nhất vật. Hà xứ nhạ trần ai!”.
Do giới hạn trang viết nên chúng ta chỉ cần khảo sát hai tuyên ngôn này là biết
rõ Thiền này là Thiền gì!
Đạt Ma nói, đại ý là: “Thiền của ta không y cứ trên văn tự, chữ nghĩa, nó là
đường truyền riêng không lệ thuộc từ chương kinh giáo; chỉ cứ việc đi thẳng vào
tâm người, nếu thấy rõ tánh thì tức khắc thành Phật”. Tuyên ngôn này rất rõ
ràng, là đừng kiếm tìm nơi văn tự chữ nghĩa, kinh giáo nữa, mà hãy hạ thủ công
phu tu tập nội quán, thấy rõ pháp thực tánh (sabhāva dhamma), tức là
thành Phật.
“Trực
chỉ nhân tâm” ấy như thế nào?
Huệ Khả thưa:
- Tâm con “không an” xin thầy “an tâm” cho con?
Tổ Đạt Ma mỉm cười (vì chắc là ngài nở nụ cười trong tâm):
- Đâu? Đâu nào? Tâm “không an” của ông đâu, đưa ra đây ta “an”
cho!
Có lẽ Huệ Khả “lắng nghe” một hồi rồi thưa bạch:
- Con đã cố tìm rồi nhưng không thấy!
- Vậy là ta đã “an tâm” cho ông rồi đó!
Đúng thế! Vậy là tổ “đã an” rồi! An mà không an gì cả! Truyền tâm mà
chẳng truyền cái tâm nào cả. Hóa ra, Đạt Ma dạy quán “tâm pháp” đó thôi!
Tại sao? Vì khi Huệ Khả quay lại tìm kiếm tâm, quán tâm, lắng nghe tâm thì khi
ấy chính ông ta đã khởi tuệ tri (pajānāti) để nhìn ngắm. Và ông ta đã
“tuệ tri được cái tâm bất an”
ấy, đã nhìn như thực nó, nhìn ngay cái bản lai diện mục của nó, không đánh giá,
không phê phán, không thủ, không xả! Đây đúng là bản sao y gần như nguyên văn
câu kệ Pāḷi trong kinh Tứ niệm xứ, đức Phật dạy về lắng nghe tâm, quán tâm, minh
sát tâm: “Asamāhitaṃ vā cittaṃ asamāhitaṃ cittaṃ ti pajānāti (Tâm bất an, tuệ
tri tâm bất an). Hoặc là: “Thấy như thực thấy, nghe như thực nghe... biết
như thực biết...” nhan nhản trong các Nikāya. Cái “tâm bất an” ấy
chính là cái đang là, đang hiện thực, đang hiện tiền, nó chính là cái thiết thực
hiện tại (sandiṭṭhiko);
nó chính là pháp như thực tánh (sabhāva dhamma). Rõ ràng là do nhờ căn
trí cao, Huệ Khả tức khắc “ngộ”
ra nên quỳ xuống sụp lạy. Vậy là ông ta được trao tâm ấn làm đệ nhị tổ Thiền
Đông độ .
Thật ra, đây chỉ là một cách “truyền tâm, quán tâm”
mang cá tính, bản sắc Trung Quốc, nhưng cũng là vọng âm ngàn đời của minh sát
vipassanā có được từ Thiền Nguyên thủy vậy.
Còn Huệ Năng thì ngài đề cập thẳng vào cái tánh của giác ngộ, bồ-đề (bodhi),
cách nói khác của tánh không (Suññatā-Śūnyatā).Ở trong tánh không rốt ráo hay tuệ
“thâm bát-nhã - gambhīrapaññā” thì không tồn tại một
chút gì của thế giới hữu vi (ly tứ cú, tuyệt bách phi) thì chỗ nào, vật
nào ở đâu mà dính bụi bặm phiền não? Đây là tổ khơi mở lối vào thế giới thực
tánh (paramattha dhamma) của tuệ giác bên kia bờ (đáo bỉ ngạn).
Vậy, Thiền của tổ Huệ Năng cũng được “truyền đèn nối lửa”
từ Đạt Ma, từ Thiền vipassanā Nguyên thủy.
*Thiền Zen Nhật Bản:
Nhật Bản tiếp thu Thiền Đông độ, dung hợp với tín ngưỡng cổ truyền cùng thần đạo
dân tộc, vận dụng sáng tạo để biến ra Thiền Zen cho hợp với khẩu vị, hợp với bản
sắc văn hóa của mình. Nhờ vậy, nó phát triển rất mạnh, đi sâu vào mọi sinh hoạt
xã hội. Thật không ngạc nhiên gì, khi nơi “xứ sở hoa anh đào” này cái gì
cũng Đạo cả, cái gì cũng Zen cả rất chi là rôm rả, xôm trò vậy. Nói chính xác
hơn - Zen Nhật Bản đã “tận tình và tâm huyết” biến Thiền Đông độ thành
“mỹ học Thiền”, thành “nghệ thuật Thiền” để phụng sự cho con dân xứ
Mặt Trời.
Nhưng nếu ta thử hỏi, Thiền Zen của Nhật Bản là Định hay Tuệ? Thật ra, Zen là phát âm đọc trại của từ Jhāna mà
ra. Nhưng Jhāna không mang nội dung Thiền định hay Thiền tuệ, nó cũng có nghĩa
là Thiền nhưng là để chỉ các tầng Thiền, ví dụ sơ Thiền, nhị Thiền, Thiền chi
(jhānaṅga)... Vậy, hóa ra, Thiền sư Suzukhi là thủ phạm sai lầm - đã dịch
sai - bây giờ đã tràn lan khắp thế giới. Hay là ông ta đã cố ý chuyển ngữ sai,
bởi lòng tự hào dân tộc để thầm nói rằng:“Thiền của Nhật Bản ta không phải là
Định hay Tuệ của Phật Ấn Độ hay Phật Trung quốc - mà là Thiền của con cháu Thái
Dương Thần Nữ!”
Tuy nhiên, nói cho vui vậy thôi, chứ điều đó không quan trọng bằng nội dung mà
nó chuyển tải. Suzuki là một vị Thiền sư cư sĩ, cũng là một nhà thơ Thiền - khi
ông nói bằng hình tượng nghệ thuật: “Phải nắm bắt thực tại bằng bàn tay trần
trụi, không mang găng tay!” Thực tại là pháp như thực tánh (sabhāva
dhamma), bàn tay trần trụi là “tánh không”, không mang găng tay là
rỗng không tất thảy mọi ý niệm, khái niệm dù danh hay vật. Thấy chưa, cốt tủy
Thiền, qua Zen Nhật Bản cũng có một sợi chỉ đỏ xuyên suốt. Đa phần trí thức Tây
phương biết Thiền, phần nhiều là nhờ vị học giả uyên bác và thông thái này. Đọc
bộ luận của Suzuki, Trúc Thiên và Tuệ Sỹ dịch, ta thấy rõ nó cũng là bản sao của
Thiền Đông Độ mà thôi. Nhưng mà nó mạnh mẽ hơn, có cá tính Nhật hơn.
*Thiền Trúc Lâm sơ tổ:
Trong một bài tiểu luận viết về vị vua này,
tôi đã tóm thâu vào một đoạn văn khá dài: Người ta thường nói, Thiền Trúc Lâm
Yên Tử là Thiền Việt Nam! Đây là dấu hiệu tốt, một ý thức độc lập, tự chủ muốn
ly thoát cái bóng vĩ đại của đế quốc phương Bắc đã phủ trùm dân tộc ta thuộc mọi
lãnh vực hơn ngàn năm qua. Tuy nhiên, cốt lõi Thiền, yếu tính Thiền, yếu chỉ
Thiền là kiến tánh, thấy rõ thực tánh, liễu ngộ pháp thực tánh (sabhāva dhamma, (paramattha dhamma) thì Thiền Nguyên
thủy, Thiền Đông độ, hay Zen đều giống nhau.
Nếu nói là Thiền mang bản sắc văn hóa dân tộc Việt thì nghe ổn hơn. Tôi nói
“nghe ổn hơn” là vì điều ấy cũng chưa nói được gì, vì rằng, Phật giáo đến
quốc độ nào đều mang bản sắc văn hóa bản địa của dân tộc ấy. Ví dụ, Trung Quốc
kết hợp Phật với Khổng Mạnh và Lão Trang; và sau khi Thiền Đông độ ra đời, sau
Huệ Năng thì Thiền ấy trở thành Thiền phù hợp với khẩu vị, bản sắc văn hóa Trung
Quốc. Nhật Bản thì kết hợp với văn hóa truyền thống và tín ngưỡng Thần đạo dân
tộc mà biến thành Zen. Tây Tạng kết hợp với đạo Bon, tín ngưỡng thờ ma quỷ,
huyền thuật mà thành Mật tông! Ấy là sự thật trong lịch sử Phật giáo thế giới,
không có gì là đặc thù, khu biệt và mới mẻ cả. Phải nói rằng, Trần Nhân Tông,
sau khi tiếp thu trọn vẹn mọi nguồn, mọi tông phái Thiền học đương thời, ngài
vận dụng thêm tư tưởng nhập thế tích cực hơn để đáp ứng với tình thế đất nước,
huy động toàn bộ nhân dân không kể đạo đời, tăng tục cùng đoàn kết chống ngoại
xâm, xây dựng đất nước thì khả dĩ hơn. Tôi cũng nói
“khả dĩ hơn”, vì thật ra, cái vận dụng nhập thế tích cực, đạo đời, tăng tục
không có biên ranh thì đã có từ thời Lý Thánh Tông với Thiền phái Thảo Đường; và
gần nhất là các Thiền sư cư sĩ như Ứng Thuận, như Tuệ Trung! Trần Nhân Tông chỉ
là người tiếp lửa cho xu hướng Phật giáo nhập thế tích cực ấy! Chính điều quan
trọng nhất, mấu chốt nhất, cốt tử nhất mà chưa ai đề cập là: Thiền nhập thế ấy
có được từ một vị vua trẻ tuổi từng là một bậc anh hùng lãnh đạo hai cuộc chiến
tranh tự vệ oanh liệt; một nhà chính trị, quân sự kiên cương nhưng thầm lặng;
một nhà ngoại giao cứng mềm tùy nghi nhẫn xả; một người xây dựng đất nước có
chiến lược, có tầm nhìn xa, trông rộng; lại là một nhà văn hóa cầm đuốc dẫn đạo
tiên phong phục hồi, duy trì và phát huy ngôn ngữ Việt; một Thiền sư sơ tổ Trúc
Lâm đại sĩ tầm vóc lớn lao; một nhà sư thọ trì 12 pháp đầu-đà khổ hạnh, một nhà
thơ trong sáng và tịnh định hồn Thiền - mới chính thật là vô tiền, khoáng hậu!
Trong lịch sử thế giới, ở đâu có sự tổng hợp, tương hòa, hỗn dung kỳ diệu, tối
đại thượng thừa như thế chứ? Không, không có! Và chưa hề có!
Hành trạng của sơ tổ là vậy, còn Thiền của vị
ấy, ta có thể khảo sát từ 4 câu kệ được đúc kết trong bài phú
“Cư trần lạc đạo” sau đây:
“Cư trần lạc đạo thả
tùy duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc
miên
Gia trung hữu bảo hưu
tầm mịch
Đối cảnh vô tâm mạc
vấn Thiền”.
(Ở đời vui đạo hãy tùy
duyên
Hễ đói thì ăn, mệt ngủ
liền.
Châu báu trong nhà
đừng kiếm nữa
Không tâm đối cảnh,
hỏi chi Thiền”.
Ta có thể diễn giải 4 câu thơ ấy, đi theo dòng chảy của cốt tủy Thiền
vipassanā:
“Ở đời vui đạo” là cách nói khác của
“hiện pháp lạc trú”, tức là an lạc trong hiện tại bây giờ đây, ở đời này,
ngay giây khắc này. Về phương pháp lạc trú, vui đạo thì Nikāya, A-hàm hay Hán
tạng có cả một tủ kinh, ai muốn tham khảo thì có thể xem . Phải biết
“tùy duyên” mà sống. Khi ăn uống, nằm ngồi, nói năng, hành động, suy nghĩ
đều phải chánh niệm, tỉnh giác... đón nhận mọi việc đến và đi một cách
“thuận pháp”, đừng cưỡng cầu, vọng tưởng trái với cái tự nhiên đang là, đang
xảy ra, đang cụ thể, thiết thực diễn ra trong hiện tại
(thiết thực hiện tại - sandiṭṭhiko). Tứ niệm xứ dạy rằng, đi biết đi, ăn biết
ăn, nằm biết
nằm, ngủ biết ngủ, suy nghĩ
biết suy nghĩ... Vì là một nhà thơ nên Hương Vân đầu-đà nói cho giản dị,
khiến cho ai cũng có thể lãnh hội “tâm ấn”
được: “Đói thì ăn, mệt thì ngủ”! Lưu ý
cho, đây là câu kệ của vị Thiền sư nên xin ai đó đừng hiểu một cách dung tục để
dịch câu ấy, đại lược là: “Hễ đói thì ăn, mệt ngủ ‘khì’!”; hoặc
nghĩ rằng, tổ dạy “ăn no nằm ngủ” là Thiền - thì thật là
oan cho chư Phật và chư tổ ba đời!
Tiếp nữa:“Quá khứ không truy tìm,
tương lai không ước vọng, chỉ có pháp hiện tại, tuệ quán chính là đây”;
đừng rong ruổi Đông Tây Nam Bắc, đừng tìm kiếm ở đâu nữa, châu báu nó có sẵn
trong nhà, trong tâm mình, tại đây và bây giờ đây! Hãy sống với hiện tại, hãy để
tâm rỗng rang khi đối cảnh. Chỉ có tâm không, tuệ không mới thấy được pháp thực
tánh, như thị tánh (sabhāva dhamma). Nếu sống được như vậy
thì hỏi Thiền làm chi nữa! Đây chính là Tứ niệm xứ, là vipassanā rồi!
Nói tóm lại, khi Thiền Tứ niệm xứ sang Trung Quốc thì khái niệm, cách nói,
sự vận dụng đã mang bản sắc, cá tính của dân Hoa Hạ, không tránh khỏi bàng bạc ở
trong đó khói sương của tư tưởng Khổng, Lão. Đại Việt thuở ấy cũng vậy, Trần
Nhân Tông đã từ bản sắc văn hóa, căn cơ của người Việt để nói cho người Việt sau
khi đã bác lãm, kinh qua chư kinh, chư giáo cùng mọi Thiền, mọi lục. Ai muốn
tham khảo, để chứng thực cho điều này thì hãy bỏ công khám phá cái vỉa quặng ẩn
sâu trong bài phú “Cư trần lạc đạo”
của ngài thì sẽ thấy và hiểu.
Đến đây, ta có thể kết luận mà không sợ áp đặt, là tất cả Thiền của mọi quốc độ,
xưa cũng như nay đều được khởi xuất từ Thiền minh sát vipassanā cả thảy.
Còn đạo sư Duy Tuệ? Ta chưa vội đi vào nội dung cái gọi là “cẩm nang” của
ông ta, nhưng cụm từ Thiền Minh Triết mà tác giả dịch là Enlightenment
Meditation - thì nghĩa nó ra làm sao?
Như đã bàn ở trên, Thiền của ông ta là meditation, Thiền định, không phải Thiền
tuệ vipassanā. Nếu là Định sâu, an trú vào các tầng Thiền thì chưa có Tuệ. Còn
Minh Triết mà tác giả dịch là Enlightenment thì nó có nghĩa là “khai sáng”
hay “giác ngộ”? Tác giả chữ nghĩa cũng có được vài thành, nên biết đâu
ông ấy có dụng ý “ngạo mạn” dùng từ Enlightenment có nghĩa là “khai
sáng” để khai sáng cho thế gian y như tuyên ngôn của lý trí khoa học thời
phục hưng? Nếu vậy là “đại loạn, đại ngông cuồng” rồi! Ông ta đã dùng
công cụ của lý trí bất toàn đầy tham vọng cùng với những sở tri chắp vá, vay
mượn nhiều nơi để khai sáng cho bao người?! Còn nếu Enlightenment có nghĩa là
giác ngộ thì Định (meditation-samādhi),
an trú Định làm sao mà giác ngộ? Vậy thì tác giả đã sử dụng từ Minh Triết theo
nghĩa nào - hay là ông ta “quay cóp” từ “Minh Triết” của hội
“Minh Triết Việt” do Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai khởi xướng và cũng là
giám đốc điều hành hội này trong hơn mười năm qua? Và đa phần trong đó là các
bậc thức giả cha chú, trưởng thượng về tuổi tác cũng như về lãnh vực nghiên cứu,
học thuật hàn lâm - hơn ông Duy Tuệ mấy cái đầu kia đấy! Nếu vậy, do sự mù mờ về
kiến thức, chắc ông ta cũng chưa hiểu rõ nguồn gốc, xuất xứ của nó?
Thì ông Duy Tuệ hãy chịu khó nghe cho kỹ đây.
Tôi là người có viết bài tham luận cho hội “Minh Triết Việt” nhân đọc
“Minh Triết phương Đông và Triết học phương Tây” của Triết gia Francois Jullien, người
Pháp. (Bản Việt dịch - chủ biên: GS. Hoàng Ngọc Hiến, GS. Lê Hữu Khóa - NXB
Đà Nẵng, 2004). Ở đó, tôi có đóng góp thêm ý kiến với vị triết gia khả kính
này về Minh Triết của Phật. Và sau khi làm một cuộc so sánh, tỷ giảo, tôi đã
chứng minh được, là Minh Triết của Phật cao siêu hơn Minh Triết của Khổng, Lão
qua những tư tưởng khái niệm vô vị, vô vi, vô ý, vô cố, vô tất, vô ngã... là ở
chỗ nào và như thế nào. Cố học giả uyên bác Hoàng Ngọc Hiến rất “hứng thú”
về bài viết có “tính phê phán rất nhẹ nhàng” ấy của tôi, lẫn cả “vỉa
quặng” Minh Triết Phật và Minh Triết Việt mà tôi có nêu ra trong bài. Trong
hai lần ghé thăm Huyền Không Sơn Thượng, đi cùng Nhà nghiên cứu Nguyễn Khắc Mai,
PGS.TS Trần Thị Băng Thanh với một số vị học giả, nhà nghiên cứu khác - cụ Hoàng
Ngọc Hiến có nói với tôi rằng: “Triết gia Francois Jullien cũng biết vậy,
biết những điều sư nói, nhưng thế giới tư tưởng Phật giáo mênh mông quá nên ông
ta ‘chưa dám’ bước vào!” Nói vậy chỉ để nhắc nhở ông Duy Tuệ, rằng là, không
rõ ông có hiểu gì về Minh Triết của Phật không, mà dám cả gan sử dụng cụm từ
“Thiền Minh Triết”
làm nhãn hiệu để rao giảng đó đây, trong lúc triết gia nổi tiếng đương đại
Francois Jullien, người Pháp kia
cũng chưa dám bước vào? Cho đến đổi, từ thuở bình minh của triết học phương Tây, đối với Minh Triết (sagesse) chư vị triết gia cổ đại Hy Lạp
cũng “kính nhi viễn chi” không dám bàn đến! Họ chỉ biết cúi đầu, chấp tay
cung kỉnh tôn vinh nó, vì “Minh Triết là
của thần, con người chỉ có thể quý kính nó chứ không thể vươn tới nó được”.
Từ sagesse (Minh Triết), tiếng Pháp
thì Anh dịch là wisdom, Nga dịch là mudrost; rồi
cũng từ đó, nội dung trường nghĩa được kiến lập từ “tư duy lý tính” mà chúng ta hiểu ngày
nay là tuệ trí, duệ trí, tài trí, minh trí, trí thức, học thức, thông minh...
không biết đã với tới cái sagesse kia chưa? Những triết gia cổ đại Hy Lạp người ta rất là khiêm tốn dù
sở học bác lãm, mênh mông; còn ông Duy Tuệ học hành “i-tờ-rít” gì mà dám cả gan mạo phong đạo
sư để đi dạy Thiền Minh Triết khắp nơi trong nước, sang cả các quốc gia châu Âu,
châu Mỹ?...
Còn Đông phương thì nói gì về Minh
Triết? Tôi sẽ chỉ cho ông Duy Tuệ thấy luôn.
Nó có cũng đã từ lâu lắm! Dịch,
Thi, Thư... chúng có bàng bạc, rải rác từ thời thượng cổ, sau Khổng Tử san định
lại mà thành. Khổng nói lại trong Kinh Thi:
“Ký minh thả triết” (sáng suốt, thấu đáo mọi việc); từ đó
“dĩ bảo kỳ thân” (dùng để bảo vệ bản thân cho khỏi trái đạo). Trong Kinh Thư
thì có “Duệ triết văn minh” (văn minh trí tuệ); “tri chi viết Minh Triết” (hiểu
biết sự việc gọi là Minh Triết). Vậy cả Đông và Tây đều có cùng một trường
nghĩa giống nhau về Minh Triết.
Tóm lại, Thiền và Minh Triết khi đã tra cứu
tận ngọn nguồn, từ đó, chúng ta sẽ lần lượt mổ xẻ Thiền Minh Triết của vị “đạo sư” này ra sao! Trong cái “hồ lô” của ông ta đựng những gì! Ông ta có đi từ những Minh Triết
mà chúng ta vừa khảo sát khi lập ngôn
“Thiền Minh Triết”? Hay ông ta như mọi người phê phán hết chữ, hết lời - là
một “quái vật”, tự mình đẻ ra một “quái thai”, gầy dựng một phong trào
“quái đản”, rao giảng những điều “quái gở”, cùng một số người
“quái dị” nghe và tin theo ông ta một cách
“quái cuồng”? Ai muốn biết cái uy lực và hiệu ứng đô-mi-nô của tiếp thị,
quảng cáo, của truyền thông điện tử thời đại tin học ngày nay thì cứ đi lần theo
cái địa chỉ email của
daosuduytue@yahoo.com
thì sẽ thấy cả một đống hỗn mang, một cái gì bất bình thường y như tâm thần vậy;
người ta nói là còn bài bản hơn, xảo trí hơn,
“quái chiêu” hơn, “quái kiệt” hơn, “quái quỷ” hơn hiện tượng Thanh Hải vô
thượng sư nữa. Chúng ta hãy chịu khó bỏ chút thờ giờ vào trong mà xem một tí
(tôi ghi nguyên văn):
“1- Sự phát triển của chương trình học và thực hành Thiền Minh Triết.
Các buổi thuyết giảng, chia
sẻ trải nghiệm của Thiền Minh Triết do Đạo sư Duy Tuệ thuyết giảng nhiều năm qua
với hàng trăm người nghe trực tuyến tại nhiều nước được cập nhật, đăng tải và
chuyển thành bài viết, clip qua trang web: ww.daosuduytue.com ; www.duytue.com
và ww.ungdungphathoc.vn với hàng trăm lượt đọc, lượt nghe mỗi ngày. Những bài
viết, những bài giảng được biên tập và chuyển tới cộng đồng và bạn bè quốc tế
qua nhiều đầu sách đã xuất bản và phát hành bằng tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng
Nauy và đang tiếp tục được chuyển ngữ sang tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Thái,
tiếng Trung. Trang web www.duytue.com cũng đang được chuyển ngữ sang tiếng Anh
và tiếng Pháp.
Các clip, bài giảng cũng
được các Hiền Giả Minh Triết tuổi trẻ chia sẻ trên các mạng xã hội với hàng ngàn
thành viên tham gia như Facebook, Tagged, Youtube...
1.Thiền Minh Triết đã được áp dụng tại hầu hết các tỉnh thành trong cả
nước.
- Thiền Minh Triết áp dụng
cho các Câu Lạc Bộ Trần Nhân Tông thuộc Trung tâm UNESCO Nghiên cứu và Ứng dụng
Phật học Việt Nam.
- Thiền Minh Triết đã phát
thanh trên Đài tiếng nói Việt Nam 12 buổi liên tiếp trong chương trình CLB Người
cao tuổi. Cẩm nang Thiền Minh Triết được Trung tâm UNESCO Nghiên cứu và Ứng dụng
Phật học Việt Nam gửi tặng các CLB Người cao tuổi cấp huyện trên toàn quốc.
- Thiền Minh Triết được đưa
vào áp dụng cho Trung tâm cai nghiện, Trung tâm hướng thiện, Trung tâm bảo trợ
xã hội...
- Thiền Minh Triết được áp
dụng trong Hội người mù Lâm Đồng, Hội người mù Khánh Hòa...
- Thiền Minh Triết được áp
dụng cho tuổi trẻ qua các CLB Trần Nhân Tông Tuổi Trẻ Thăng Long và CLB Trần
Nhân Tông Minh Triết Tuổi Trẻ Phía Nam, thuộc Trung tâm UNESCO Nghiên cứu và Ứng
dụng Phật học Việt Nam; qua Diễn đàn tuổi trẻ tiếp cận hành trang vào đời sống
Minh Triết.
- Thiền Minh Triết được áp
dụng cho viên chức, doanh nhân, học sinh, sinh viên, người thành thị và nông
thôn qua hệ thống nghe giảng online, sách, CD, VCD và DVD.
- Thiền Minh Triết được áp
dụng trong (sic) các học giả, nhà trí thức qua các buổi Hội thảo do Trung tâm
UNESCO Nghiên cứu và Ứng dụng Phật học Việt Nam tổ chức.
- Thiền Minh Triết được áp dụng cho tăng ni, phật tử qua các buổi giảng
trực tuyến của Đạo sư Duy Tuệ và qua hệ thống sách và ấn phẩm phát hành.
2. Thiền Minh Triết được áp dụng tại các nước: Na Uy, Đan Mạch, Hà Lan, Úc Châu,
Cộng hòa Séc, Slovakia, Hoa Kì, C H Pháp, Thái Lan...
- Thiền Minh Triết được
truyền tải qua hệ thống online và các cuộc thăm viếng của Đạo sư Duy Tuệ tại các
nước.
- Tại Na Uy, Hà Lan, Đan
Mạch đã hình thành các hội Thiền lấy tên Trần Nhân Tông và hoạt động áp dụng
Thiền Minh Triết hơn 6 năm nay. Tất cả các Hiền giả Minh Triết tại những nước
này đều nhiệt tâm phát đại nguyện truyền bá Thiền Minh Triết đến cho mọi người,
mọi nhà để góp phần xoa dịu nỗi đau của con người.
- Tại Úc Châu: Hội Thiền
Trần Nhân Tông Minh Triết Úc Châu đã có giấy phép chính thức hoạt động vào tháng
11 năm 2009.
- Hiện nay, tại Hoa Kì đang
chuận bị để ra đời Hội Thiền Minh Triết Trần Nhân Tông Hoa Kì.
- Chương trình cũng đang
phát triển tại CH Pháp với một nhóm Hành giả Minh Triết trẻ trung, đầy năng lực
và nhiệt huyết phát triển trong giới trẻ và từng lớp trí thức”.
Thật là kinh khiếp phải không chư vị thức giả? Tôi là tu sĩ, có tu học mấy phần,
có chút nhẫn, chút xả mà cũng “rợn cả tóc gáy” những chiêu thức quỷ ma
của tà đạo mượn danh chánh đạo thời nay - ở đây, ông ta mượn “vỏ Thiền”
của Trần Nhân Tông:
Đành phải “hạ”
một câu sáu tám nữa:
“Quái cuồng, quái quỷ, quái chiêu”
Là Thiền Minh Triết chợ chiều xúm mua”.
(Đón xem hồi thứ hai)
Hồi Thứ Hai:
Vấn đề của cái đầu
Ông ta thuyết giảng (tôi giữ nguyên văn):
1-“ Hằng ngày, chúng
ta phải giải quyết bao nhiêu công việc đang bày ra, phải giải quyết bao nhiêu
tình huống bất bình, phải đối đầu với bao nhiêu tình huống chưa tìm ra lối
thoát. Ví dụ như chồng hay vợ làm những việc, nói những lời lẽ mình không sao
giằn được cơn tức giận. Con cái không nghe lời, cha mẹ chồng hay cha mẹ vợ làm
quý vị bực mình khó xử, hoặc chàng rể hay nàng dâu nói năng, cư xử làm cho quý
vị đau lòng. Hoặc trong anh chị em ruột, anh chị em vợ hay chồng làm mình khó
chịu. Hoặc người yêu hay bạn bè phản bội. Đặc biệt về tình trạng kinh tế, tài
chính khó khăn làm đảo lộn cuộc sống hay công cuộc làm ăn của mình, thấy mình sa
sút so với bạn bè, làm cho mình lo âu, sợ hãi, mất ngủ, quên ăn, mất hết hy
vọng, thân hình tiều tuỵ, gây ra bao nhiêu bệnh hoạn như nám mặt, lao phổi, nóng
gan, suy thận, cao huyết áp, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não... Nói tóm
lại là các hoàn cảnh bên ngoài làm cho đầu óc của mình bất an, khó chịu và
thường xuyên có nhiều cảm xúc tiêu cực, lúng túng trong cách giải quyết, bực
tức, giận hờn, đau khổ chẳng hạn.
Ngoài
những cảnh bên ngoài như vậy, còn bên trong đầu óc quý vị, các suy nghĩ cứ tự
động xảy ra gây nhiều cảm xúc khó chịu, làm việc mất tập trung nên hiệu quả công
việc không cao và thường gây ra sai lầm.
Hoặc vì
nhiều lí do khác đã làm cho gương mặt của quý vị không được tươi vui, hồn nhiên,
phải dùng đến các phương pháp của thẩm mỹ viện hay các mỹ phẩm. Nhưng rốt cuộc
cũng không gây được cảm tình, trìu mến, yêu thương của người khác.
Các vấn
nạn này đang đưa quý vị vào một đời sống thật sự chật chội và vô nghĩa, bất
hạnh. Cuộc sống đặt ra cho quý vị nhiều vấn đề phải giải quyết không dễ chút
nào, giống như học sinh đứng trước những bài toán khó, không sao giải được, bởi
đầu óc con người rất hữu hạn mà những công thức thì biến hoá khôn lường, có khi
vừa tìm được cách giải thì nó lại chuyển sang loại hình khác”.
Xem những cụm từ gạch đáy, quý vị thấy có cái
gì mới lạ không? Cái nhận thức thực trạng mọi đau khổ như kể trên, một trí thức
tầm tầm cũng thấy được, cũng biết được. Và có lẽ một nhà xã hội học, một nhà tâm
lý học còn giỏi hơn, con chuyên sâu hơn, còn giải mã, nói năng thuyết phục hơn
cả ông ta nữa đó!
Như vậy cái bài văn “mào đầu” của ông ta chỉ là trình độ phổ
thông của Phật học, ông đã “trích”
một giọt nước từ trong lòng đại dương
sự-thật-về-khổ (dukkha-sacca) của đạo Phật đó thôi. Đã học được chút ít
từ kho tàng vô giá của đạo Phật như thế mà ông ta còn cả gan chỉ trích đức Phật,
đức Pháp và đức Tăng. Hãy theo đường dẫn của Google để xem mọi người phản bác và
“buồn lòng” về ông như thế nào! .
Ông ta nói tiếp:
2- “Vấn đề chính là
ở cái đầu. Để giải quyết tất cả các bài toán biến hoá của cuộc đời, chúng ta
phải tập trung giải quyết chuyện của cái đầu, rồi thì cũng sẽ chẳng cần giải
quyết bài toán nào nữa cả! Để giải quyết rắc rối của cái đầu, trong hơn mười năm
qua, tôi đã chia sẻ cho rất nhiều vị nhiều phương pháp khác nhau và hầu hết đều
đem lại kết quả tốt đẹp cho đời sống tinh thần và vật chất của họ. Tinh thần ổn
định hơn, đời sống vật chất phát triển êm dịu hơn và ứng xử thành công hơn trước
khi thực tập. Tôi tạm dùng ba chữ Thiền Minh Triết để chỉ cho các phương pháp ổn
định cái đầu”.
Sau khi
tìm ra thủ phạm là cái đầu, vị “đạo sư” này chưa chỉ cho mọi người
phương pháp ổn định cái đầu của mình - mà ông ấy cho mọi người biết rõ là mình
đã kinh nghiệm điều ấy, đã “giác ngộ”
điều ấy ra sao:
“Trước khi quý vị đi vào nghiên cứu và thực tập một số bài
Thiền Minh Triết, tôi muốn chia sẻ cùng quý vị nguyên nhân có những bài Thiền
này.
Tôi tự cho rằng mình cũng không nằm ngoài những hiện tượng của các bậc tiền bối
xưa nay từng trải qua, đó là hiện tượng tình cờ được vào trạng thái bừng sáng
bên trong để hiểu rõ chính cái đầu của mình.
Từ sự kiện trọng đại này, tôi đã thay đổi hoàn toàn, giống như một con người
vừa sinh ra và cũng lại chính con người thay đổi đó đã thoát ra khỏi lịch sử
đương đại.
Từ sự thay đổi hoàn toàn này, tôi sống trong hạnh phúc ngập tràn do cái nhìn từ
cái đầu không có nguyên liệu cho bộ máy suy nghĩ hoành hành.
Cũng từ đây, tôi nhìn thấy được sự thất vọng, tuyệt vọng, bế tắc, đối đầu, hoang
mang… và sự hoảng loạn không lối thoát của con người.
Dẫu bất cứ ai đang đóng bất cứ vai tuồng nào trên đời, và dù loài người đã cố
tìm ra nhiều con đường giải toả những bế tắc ấy nhưng đến nay vẫn chưa có con
đường nào làm yên lòng nhân loại.
Đồng thời, tôi cũng nhận ra con đường sống thật phúc lạc không điều kiện cho
những ai lắng nghe không thành kiến những điều tôi chia sẻ!”
Quái lạ! Thật là quái lạ ở trong câu này:
“Trong giây phút tình cờ, bên trong ông bừng sáng, không cung cấp
nguyên liệu cho cái đầu nữa!” Vậy là sao ha? Không cung cấp nguyên liêu
cho cái đầu nữa, nên chắc chắn trong lúc ấy, là từ trong “vô thức, vô tri”... ông ta thấy những
thực trạng đau khổ chung chung kia là do tức giận, bất bình, sợ hãi, lo âu...
kéo theo tâm bệnh, thân bệnh.
Ông ta nói cũng như các bậc tiền bối xưa? Vậy vị tiền bối xưa ấy là ai mà lại “tình cờ” đi vào “trạng thái bừng sáng bên trong”, mới
hiểu rõ chính cái đầu của mình - như của ông vậy?
Viện dẫn tiền bối nào đó là hoàn toàn dối láo, do ông tự
“phịa”
ra, vì lịch sử cổ kim Đông Tây, các vị giáo chủ, các vị chân sư, đạo sư, Thiền
sư, hiền triết, triết gia... không có ai lập thuyết, lập ngôn, đưa ra một hệ tư
tưởng mà do “tình cờ”
cả. Ai cũng tu tập, hoặc suy tưởng, trầm tư đến
“sói trán, lỏng óc” mới có kết quả được! Hãy chỉ cho tôi nghe một cái tên
thử xem nào! Một cái tên thôi? Là tôi lạy ông làm sư phụ và tôi sẽ đốt hết thư
viện kinh sách không thèm đọc nữa! Hãy nghe cho kỹ đây: Chỉ có các nhà khoa học,
đôi khi phát kiến một định luật, định lý nào đó thì có một số trường hợp do tình
cờ. Ví dụ như quả táo của Newton - nhờ quả táo rụng trúng đầu mà ông tìm ra sức
hút của quả đất, sau đó mới có định luật
“vạn vật hấp dẫn” ra đời! Ví dụ như nhà khoa học Archimède khi đang tắm
trong bồn, cảm thấy cơ thể mình bị nước nâng lên; vui sướng quá, ông để trần
truồng như vậy, chạy la hét giữa đường “Ơ-rê-ka!... Ơ rê-ka!” (Ta tìm thấy rồi!...
Ta tìm thấy rồi!), sau đó cho ra đời định luật sức đẩy của nước, được gọi là “lực đẩy Archimède”. Cả hai đều là do ngẫu nhiên, tình cờ mà phát
kiến hai định luật ấy!
Ông Duy Tuệ nói là do “tình cờ”, ông được đi vào
“trạng thái bừng sáng bên trong”, khi ấy mới “hiểu rõ chính cái đầu”
của mình! Như vậy, gốc nguồn sự
“giác ngộ”
của ông ta là do “tình cờ”,
tình cờ nó rơi vào trạng thái “bừng sáng bên trong”! Đây là một trong những tà kiến sai lầm có từ
thời cổ Ấn Độ - khi chúng rơi vào những chủ thuyết bất khả tri, do không thấy,
không biết gì cả, nên đổ vấy cho tình cờ, cho ngẫu nhiên, cho tất định, cho
phiếm định hay cho Thượng Đế... Vậy, ông ta không phải từ tu tập Định, Tuệ mà
có, chỉ do tình cờ, ngẫu nhiên thôi! Ôi! Bậc trí trên đời này, có ai tin
điều ông ta nói không?
Tiếp nữa, ông cảm giác hạnh phúc ngập tràn do
“cái nhìn từ cái đầu không có nguyên liệu cho bộ máy suy
nghĩ hoành hành”. Đây là cái gì vậy? Là làm rỗng cái đầu, đừng cho nó một
nguyên liệu nào thì cái đầu sẽ không có nguyên liệu cho cái bộ máy ấy suy nghĩ
nữa! Ôi! Chỗ này thì ông ta sai lầm trầm trọng rồi. Sai lầm cái chỗ căn để nhất,
chứng tỏ ông ta mù tịt về cái tâm, cái trí và cả cái suy nghĩ ! Ông ta chưa hề
minh sát để thấy rõ cái tâm, cái trí, cái suy nghĩ của chình mình vận hành ra
sao, duyên khởi ra sao! Người học Vi diệu pháp
(Abhidhamma), Duy Thức hay ai có tu nội quán, minh sát, hay Thiền định đều
biết rõ, thấy rõ - vì họ theo dõi chúng mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi hơi thở.
Tâm
(citta),
có ngữ căn “cit” là suy nghĩ nên đồng
nghĩa với thức (viññāṇa), nhận biết.
Suy nghĩ là suy nghĩ về cái gì, nhận biết là nhận biết viết về cái gì -
bao giờ nó cũng có đối tượng. Không có đối tượng, tâm hay thức không biết
được cái gì cả. Bản chất của thức hay tâm là tìm kiếm, nó luôn luôn tìm kiếm
không bao giờ ở yên - như tâm viên, ý mã là vậy. Từ thức, từ tâm nhận thức ban
đầu ấy mà phân biệt phải trái, đúng sai, tốt xấu, biện biệt, so sánh, tỷ giảo
điều này việc kia mới gọi là trí (ñāṇa).
Không cung cấp nguyên liệu
cho bộ máy suy nghĩ, có nghĩa là không cho nó một đối tượng nào, một thức ăn,
một nguyên liệu nào thì khi ấy được bừng sáng ư? Xin thưa, chỉ có Thiền định đi
qua 5 Thiền chi để loại trừ 5 triền cái để đi vào sơ Thiền thì bộ máy suy nghĩ ấy mới không còn nguyên liệu.
Và nếu ở trong định sơ Thiền thì hành giả không biết gì cả , tuệ không bừng sáng gì cả mà chỉ an trú, thọ hưởng hỷ và lạc của
định này mà thôi. Muốn suy nghĩ trở lại, thì hành giả phải từ bỏ định an chỉ,
rời xuống cận hành định mới có “tầm (tìm kiếm) và tứ (suy nghĩ)” khi ấy mới khởi ý niệm, tư duy
được.
Như vậy, ông Duy Tuệ
“làm rỗng đầu óc bằng cách nào” hay lại đổ dối
“cho tự nhiên, cho tình cờ”? Phát ngôn không trách nhiệm, phát ngôn khi mình
chưa hề tu, hề chứng, chưa hề biết cái tâm, cái trí, cái suy nghĩ của mình - cái
gốc của các pháp là cái chi chi - mà dám mạo lạm đạo sư giảng nói cho thiên hạ
nghe! Thật không biết trời cao đất dày ra sao, dám múa gậy vườn hoang, tưởng thế
gian này ai cũng mù mắt, mù tai như đám đệ tử gà mờ của ông rồi phán thế nào
cũng được hay sao?
Ta hãy theo dõi tiếp, xem ông ta còn nói những
gì trong cơn mê sảng của mình: “Dẫu bất cứ ai
đang đóng bất cứ vai tuồng nào trên đời, và dù loài người đã cố tìm ra nhiều con
đường giải toả những bế tắc ấy nhưng đến nay vẫn chưa có con đường nào làm yên
lòng nhân loại”.
Loạn rồi! Tăng thượng mạn rồi! Điên thật rồi!
Từ xưa đến nay chỉ có y, Thiền Minh Triết của y mới cứu được nhân loại thôi!
Chính ông ta, ông ta cũng không biết mình đang đóng vai tuồng gì, khoác cái vỏ
bản ngã hư dối nào mà xem nhân loại cổ kim như cỏ rác vậy!
Rồi ông còn khuyên: “Đồng thời, tôi
cũng nhận ra con đường sống thật phúc lạc không điều kiện cho những ai lắng nghe
không thành kiến những điều tôi chia sẻ!”
Cái
“phúc lạc không điều kiện”, gốc nguồn ở đâu vậy? Xin thưa, cũng là của Phật
đó - tức là muốn nói đến hạnh phúc Niết-bàn vô vi, vô lậu, vô hành, vô tạo tác ở
ngoài mọi điều kiện, mọi sự kết hợp hữu vi. Ông ta
“đang ở trong vô thức, vô tri tình cờ bừng sáng bên trong”, không biết Định
là gì, Tuệ là gì lại rao giảng Niết-bàn. Lại còn ai
“lắng nghe không thành kiến” những điều ông chia sẻ cũng nếm thưởng hương vị
Niết-bàn như ông ta!
“Lắng
nghe không thành kiến!” Hay đó! “Lắng nghe với đầu óc rỗng, lắng nghe với tâm trí không chứa chấp cái
biết chủ quan” nào cả! Lắng nghe trước khi làm rỗng cái biết của mình đi, có
phải tương tợ như chung trà của vị Thiền sư với ông giáo sư đại học. Câu chuyện
như sau:
“ Sơ y văn trung. Nhập lưu vong sở. Sở nhập
ký tịch. Động tịnh nhị tướng. Liễu nhiên bất sanh. Như thị tiệm tăng. Văn sở văn
tận. Tận văn bất trụ. Giác sở giác không. Không giác tịch viên. Không sở không
diệt. Sinh diệt ký diệt. Tịch diệt hiền tiền!”
Tôi dịch thoát cho dễ hiểu mà không rời ý kinh
- vì vipassanā cũng nghe như vậy, tôi cũng đã từng nghe như vậy nhiều năm:
“- Bước
đầu, y cứ nơi tánh nghe. Cứ nghe một cách miên tục, cố đi vào dòng nghe là
chính, đừng để ý đến cái đối tượng nghe. Khi đối tượng nghe đã lặng rồi thì hai
tướng động và tịnh tự nhiên nó không còn sinh khởi nữa. Hãy cứ như vậy mà tiến
dần lên. Đến khi cái nghe và đối tượng nghe đều đã dứt, đã yên lặng rồi - thì
đừng dừng lại, đừng níu giữ, đừng trụ nơi cái chỗ đã dứt và yên lặng ấy. Và ngay
nơi cái năng giác (cái biết) ấy và cái sở giác (đối tượng biết) cũng phải không
- thì cái ‘giác không’ ấy mới tịch tịnh viên mãn. Rồi cái ‘năng không’ và ‘sở
không’ ấy cũng diệt luôn. Khi sinh diệt đã diệt rồi (không bị sinh diệt chi phối
nữa - cách nói khác của vô sinh bất diệt) thì ngay lúc ấy là tịch tiệt hiện tiền
(Niết-bàn)!”
Vậy là cái “lắng nghe không thành kiến” của Duy Tuệ đã là cái
“đinh” gì mà ông ta dám bảo hướng dẫn mọi người nếm thưởng được phúc lạc
không điều kiện - tức là Niết-bàn?!
Thật là hết thuốc chữa! Bệnh
“không” thì cho uống thuốc “hữu”,
bệnh “hữu” thì cho uống thuốc
“không”. Còn kẻ si mê, vô minh cùng với cái kiến thức học “mót” nhưng đại
ngã mạn thế kia, có lẽ một đức Chánh Đẳng Giác cũng phải thở dài!
Xin chư vị thức giả cho tôi khởi tâm hữu vi
múa chữ hạ bút một câu sáu tám nữa:
“ Đầu óc ‘vô tri’ lắng nghe,
Đá, đất, rác, cỏ... bồ-đề nở hoa!”
(Đón xem
hồi thứ ba)
Hồi Thứ
Ba
Trải qua
ba kinh nghiệm
Khảo sát cái gọi là“Diễn biến những sự
kiện bừng sáng bên trong tôi”.
Ông ta nói:
“Tôi kể vài nét
chính để chia sẻ với quý vị. Qua bao nhiêu năm tháng ưu tư về bí mật đời người,
ý nghĩa cuộc sống, khổ đau của con người… tôi tình cờ đã rơi vào trạng thái hạnh
phúc mãn nguyện khi bộ máy suy nghĩ trong đầu bị khoá chặt hoàn toàn”.
Sự trải nghiệm đặc biệt này xảy ra thường xuyên trong ba năm liên tiếp.
Đợt trải nghiệm thứ
nhất xảy ra hai lần với đặc điểm là trải nghiệm trạng thái hạnh phúc tuyệt diệu
khi bộ máy suy nghĩ bị tê liệt hoàn toàn!
Đợt trải nghiệm thứ hai lặp lại rất nhiều lần trong
hơn một năm với đặc điểm là, nhìn thế giới hữu hình trong tình trạng bộ máy suy
nghĩ trong đầu bị khoá chặt, vô hiệu hoàn toàn.
Đợt trải nghiệm thứ ba xảy ra một lần với đặc điểm
là, bộ máy suy nghĩ không bị khoá nhưng toàn bộ nguyên liệu cho nó hoạt động bị
biến mất hoàn toàn. Mỗi giai đoạn trải nghiệm cho tôi thấy một sự thật hiển
nhiên để qua đó ổn định đời sống tinh thần của mình”.
Ông kể lại trạng thái mãn nguyện khi bộ máy
suy nghĩ trong đầu bị khóa chặt, nghĩa là trong trạng thái các thức tri không có một đối tượng nào! Người ta thì phải tinh cần
tu tập Thiền định một cách miên mật mới đóng 6 căn được, còn ông có lẽ do ma đưa
lối, quỷ dẫn đường cho nên tình cờ rơi vào trạng thái ấy. Đây được
gọi là “Định-tình-cờ” chăng?! Cái “Định-tình-cờ-ngẫu-nhiên”
này chẳng lẽ là Thiền Minh Triết của ông ta? Thôi, ta cứ hãy cố gắng nhẫn nại mở
rộng tai mà nghe thêm 3 cái kinh nghiệm của ông:
- Trải nghiệm trạng thái hạnh phúc tuyệt diệu
khi bộ máy suy nghĩ bị tê liệt hoàn toàn.
- Nhìn thế giới hữu hình
trong tình trạng bộ máy suy nghĩ trong đầu bị khóa chặt, vô hiệu hoàn toàn.
- Bộ máy suy nghĩ không bị khóa nhưng toàn
bộ nguyên liệu cho nó hoạt động bị biến mất hoàn toàn.
Trải nghiệm thứ nhất có lẽ do bị tiêm thuốc
tâm thần quá liều lượng nên bộ máy suy nghĩ bị tê liệt hoàn toàn. Còn nếu là
định sơ Thiền, ý thức bị đóng cửa thì nó sẽ đi từ hỷ, qua lạc, vào cận hành và
nhất tâm - như một giấc ngủ ngon không mộng mị.
Trải nghiệm thứ hai, có lẽ do nhờ ông ta mượn
mắt tai mũi lưỡi thân ý của người chết mà nhìn thế gian, thế giới nên mọi đối
tượng bên ngoài không thấy gì nữa cả. Mà lấy cái gì để thấy?
Trải nghiệm thứ ba - vẫn suy nghĩ nhưng
đối tượng suy nghĩ bị biến mất hoàn toàn!
Tôi sẽ cô đọng lại một lượt nữa:
- Trải nghiệm một: Khóa chặt cái bên trong.
- Trải nghiệm hai: Khóa chặt bên trong để nhìn
cảnh bên ngoài.
- Trải nghiệm ba: Không khóa bên trong, nhưng
cảnh biến mất.
Thật ra, tôi đã cố gắng vận dụng tâm trí để
hiểu nhưng mà không hiểu nỗi ông ta muốn nói cái gì! Và nếu dạy cho người ta tu
tập như thế thì có mà “ buông tay dốc thẳm”!
Tối như hũ nút!
Tuy nhiên, chỗ này tôi xin tạm mượn
“Tứ liệu giản” của Thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền. Hay ông ta đã tình cờ tiện
tay “cuỗm” “Tư liệu giản” này rồi biến hóa sáng tạo một cách vừa hời hợt vừa
khó hiểu như thế?
“- Hữu
thời đoạt nhân bất đoạt cảnh
Hữu thời
đoạt cảnh bất đoạt nhân
Hữu thời
nhân cảnh câu đoạt
Hữu thời
nhân cảnh câu bất đoạt”.
Tôi sẽ giải thích cho ông Duy Tuệ để ông hiểu
một chút bí kíp Thiền của người xưa, mà ông đã cao ngạo xem họ như cỏ rác, như
sau:
“Có lúc,
người tu Thiền chỉ dựa vào chính mình, nhắm mắt lại, đóng ngũ căn lại, chỉ lắng
nghe tham sân phiền não ở bên trong - đấy gọi là nắm lấy cái “nhân” chớ không
nắm lấy cái “cảnh”!
Có lúc,
người tu Thiền bước qua cấp độ thứ hai! Ồ, hóa ra, ngoại cảnh sắc, thanh, hương,
vị, xúc chi phối nên nó mới sinh ra chuyện này, chuyện nọ. Vị ấy bèn yểm ly, thu
thúc để ngăn chặn phiền não, tham sân phát sanh từ đấy. Đây gọi là nắm lấy
“cảnh”, để ý cảnh mà không lý gì đến “nhân”!
Có lúc,
người tu Thiền bước qua cấp độ cao hơn, sáng ra một chút! Ồ, hóa ra trong ngoài,
“nhân cảnh duyên khởi” nên sinh ra mọi thứ, đâu chỉ nhân, đâu chỉ cảnh mà là cả
hai, phải quan sát cả trong ngoài. Đấy là “nhân, cảnh” đều phải quan sát chúng.
Có lúc,
người tu Thiền phát sanh tuệ giác, thấy rõ hoàn toàn, trong ngoài duyên khởi đều
không tánh, đều như thực tánh thì vị ấy không còn dính mắc gì nữa. Đây được gọi
là “nhân cảnh đều không đoạt”, cứ quan sát như thực tự tánh nó đến, nó đi theo
cửa ngõ “tam giải thoát môn” không, vô tướng, vô tác!”
Nếu ông đạo sư dổm, Thiền sư dổm Duy Tuệ có
nghiên cứu qua “Tứ liệu giản”
của ngài Lâm Tế Nghĩa Huyền thì có lẽ ông ta sẽ không đến nổi ngông cuồng nói
chuyện trong ngoài, nhân cảnh như kẻ ú ớ mê sảng
nói gì chính mình cũng không tự biết! Xót thay! Thương thay! Mà cũng đáng đánh
30 hèo! Ngốc!
Còn những sự thật hiển nhiên sau trải nghiệm
nữa. Xem thử ông ta “ngủ mớ” những gì!
Đây, sự thật hiển nhiên thứ nhất:
“Sự thật thứ nhất là có năng lượng hạnh phúc không
điều kiện hiện hữu triền miên nơi chính mình.
Hạnh phúc hay phúc lạc kì lạ nhất, huyền ảo nhất, rộng khắp nhất, hoàn hảo nhất,
sâu thẳm nhất, nhiệm màu (sic) nhất, bền bỉ, ổn định và đáng hưởng nhất mà đời
sống do đầu óc suy tính và tác động vào sẽ không bao giờ có được.Trạng thái hạnh
phúc kì diệu, vô giá này sẽ xuất hiện khi suy nghĩ không hoạt động được. Trạng
thái hạnh phúc này không phụ thuộc vào sự làm việc của cái đầu và dĩ nhiên là
không phụ thuộc vào cuộc sống mang tính hình thức. Hạnh phúc hay phúc lạc này là
chung cho mọi sự sống của hành tinh này và cho tất cả sự sống của các hành tinh
khác”.
Cũng không có gì lạ. Chỉ là
lặp đi lặp lại cái hạnh phúc vô điều kiện, mênh mông, rộng khắp, cả tinh cầu, vô
lượng tinh cầu khi tiêm thuốc tâm thần quá liều lượng cho những cái đầu óc của
chúng sanh trên ba ngàn thế giới tê liệt đi hết! Hiển nhiên là vậy!Khiếp chưa!
Còn sự thật hiển nhiên thứ
hai?
Nó đây, cái mặt mũi của nó đây:
Sự thật thứ hai là, quan sát cẩn trọng từ trong đầu
óc cho đến bên ngoài đích thực là lẽ sống thật, là sinh mệnh của con người! Quan sát
càng chính xác bao nhiêu thì cuộc sống càng hạnh phúc bấy nhiêu. Quan sát giúp
đầu óc nhẹ nhàng nhất, mới mẻ và dễ chịu nhất! Trải nghiệm này cho tôi thấy rõ
rằng, trong lúc bộ máy suy nghĩ bị khoá chặt không làm việc được thì có một cuộc
sống khác thật ổn định hiện ra, đó là đời sống với tính quan sát cẩn trọng chứ
không phải là những ý kiến hay ý nghĩ trong đầu óc. Đây là đời sống ổn định, đời
sống thật sự là sống chứ không phải suy nghĩ là đời sống thực. Trong lúc sự trải
nghiệm xảy ra, bộ máy suy nghĩ đã bị khoá, người đang sống dựa trên quan sát
biết rõ bộ máy suy nghĩ bị khoá chặt và đầu óc không thể ra lệnh, không thể hiện
hữu các khái niệm về tên gọi cho chính mình, cho các vật thể chung quanh. Mọi
thứ mình thấy qua mắt chỉ là những hình ảnh rời rạc của một thực thể thống nhất
đang hiện bên dưới chúng. Trọng lượng cơ thể nhẹ hẳn, tất cả đất đá và những đồ
vật hằng ngày mình thấy giờ đây hoàn toàn mới và chưa có hay không có tên gọi.
Tóm lại, mọi thứ dừng lại ở giai đoạn quan sát. Và ngay lúc ấy, khi tôi rờ vào
đâu, nhìn vào đâu đều tự nhiên ứng ra lời giải đáp không nằm trong cái đầu của
mình”.
Tôi cố nhẫn nại đọc một
đoạn văn câu cú lộn xộn, ý tứ trùng lặp, tư tưởng tối mò để lần ra mấy điểm
chính sau đây:
- Quan sát trong ngoài (nhân cảnh) là lẽ sống đích thực, là sinh
mệnh của con người. Quan sát chính xác bao nhiêu thì hạnh phúc bấy nhiêu. Nó
giúp đầu óc nhẹ nhàng, mới mẻ và dễ chịu nhất.
- Trải nghiệm ấy có được là
do “nhân”
bị khóa chặt, vô hiệu hóa nó thì có một cuộc sống khác thật ổn định hiện ra; nó
giúp cho sự quan sát cẩn trọng hơn - chứ không phải ý kiến hay ý nghĩa trong đầu óc. Đây mới
thực sự là đời sống ổn định, là đời sống thực - chứ không phải suy nghĩ là đời
sống thực. Đến chỗ này thì đầu óc không thể ra lệnh, các khái niệm tên gọi (danh khái niệm) về nhân, về cảnh không hiện hữu; còn những hình ảnh (vật khái niệm) rời rạc của một thực thể thống nhất hiện ra. Từ đây,
trọng lượng cơ thể nhẹ nhàng và tất cả cảnh, thế giới ngoại trần đều mới mẻ,
chưa có hoặc không có tên gọi (không có danh khái niệm).
- Cuối cùng, mọi thứ dừng
lại nơi sự quan sát. Và ngay lúc ấy, sờ vào đâu, nhìn vào đâu tự nhiên ứng ra
lời giải đáp không nằm trong cái đầu của mình.
Quả thật là mệt khi đọc văn
của một đạo sư tâm thần, vĩ cuồng! Có bao nhiêu đâu mà nói dông dài con cà con
kê, mù mịt tối tăm như thế kia chứ.
Đây, tôi diễn đạt lại theo
thuật ngữ Phật:
- Quan sát trong ngoài, tâm
cảnh một cách chánh niệm, tỉnh giác. Vì trong ngoài tâm cảnh duyên khởi, vì
“sự sống đang là” chính là duyên khởi căn trần thức, ngoài sự diễn tiến, vận
hành ấy, không có sự sống nào nữa cả!
- Khi tâm không, trí không quan sát thì ta
sẽ lần hồi từ bỏ thế giới danh khái niệm
(nāma-paññatti),
chỉ còn vật khái niệm (attha-paññatti)
hiện ra. Ngay khi ấy, trời đất cỏ cây, sum la vạn tượng nó hiện ra mới mẻ, tinh
khôi.
- Chỉ quan sát, “minh sát” thế thôi! Và lúc ấy,
“trực giác” (từ của tôi dùng) xuất hiện, nó sẽ ứng ra những lời giải mà
không qua đầu óc!
Rõ ràng quá chứ! Và chắc
chắn, ông Duy Tuệ không nói được như vậy. Thứ nhất, do ông ta chưa có căn bản
Phật học. Hoặc thứ hai, do ông ta chỉ muốn dùng
“chữ” của riêng mình, hòng lếu láo bảo với mọi người là Thiền Minh Triết do
ông ta khai đạo.
Tôi đã làm sáng tư tưởng mù
mờ của ông. Tuy nhiên, do cách diễn đạt tối tăm của ông, cho tôi kết luận rằng,
ông ta chỉ là kẻ học lóm, chưa tới đầu tới đũa. Và dù ngang cái chỗ dừng lại nơi
chỗ quan sát không tư tưởng, không thành kiến như Krishnamurti - thì ông duy trì
chúng được mấy sát-na? Rồi vô lượng tham sân si, phiền não nằm lưu niên lưu cữu
trong rừng già hoang nguyên, hoang dã, sâu kín
thăm thẳm của nội tâm, ông giải quyết ra sao - không nghe ông nói đến? Lộ
trình minh sát tuệ không đơn giản, cũng cần phải công phu miên mật, không chỉ
đầu môi, chót lưỡi ba xạo mà được, thưa ông!
Còn nữa, ông muốn nói gì
nữa đây.
À, còn sự thật hiển nhiên thứ ba:
“Sự thật thứ ba là khi mọi thứ nguyên liệu của bộ máy
suy nghĩ biến mất thì tôi nhìn thấy nguyên nhân gây ra khổ đau cho chính mình là
do cái đầu suy nghĩ. Cùng với
sự nhìn thấy ấy, tôi thấy năng lượng sang tạo đời sống hạnh phúc và tình yêu vô
tận của con người đã bị suy nghĩ tàn phá, khống chế hay che lấp. Trải nghiệm này
cũng cho tôi thấy rất rõ bộ óc hay đầu óc hoàn toàn có khả năng làm việc thật
hoàn hảo trong trạng thái không chứa bất cứ thứ nguyên liệu nào trong đó như kí
ức, kiến thức trong cuộc sống, khái niệm hay triết lí sống cho riêng mình, niềm
tin tôn giáo, niềm tin vào một học thuyết hay triết thuyết để xây dựng một xã
hội, hay xây dựng một cuộc sống cho cá nhân hay cho gia đình. Không còn một ý
niệm hay ý tưởng khuôn mẫu nào cho cá nhân, cho một gia đình, hay cho một cộng
đồng quốc gia hay quốc tế. Sau này, tôi tạm gọi là sống và làm việc, yêu thương
theo đầu óc mở, không theo khuôn phép nào. Trải nghiệm và nhận biết rằng mọi ý
tưởng, khái niệm, chữ nghĩa, ý nghĩ, ý nghĩa của các chữ viết, quan niệm sống,
sự tiêm nhiễm các triết thuyết hay học thuyết có thể rơi rụng hoàn toàn trong
đầu óc, và không gian trống rỗng vô tận trong đầu óc chỉ mang năng lực nhìn thấy
và hiểu biết vô tận sẽ chiếu soi và cho ta biết rằng, thủ phạm gây khổ đau tinh
thần (và đôi khi cả thể chất) mà con người cưu mang trong nhiều kiếp chính là
suy nghĩ. Và đi cùng với suy nghĩ là con người không nhận biết được điều này, mà
trái lại, còn tin tưởng và bám chặt lấy nó, không chấp nhận từ bỏ nó”.
Ta có thể phanh từ trong
cái rừng rậm chữ nghĩa ấy, có bốn điểm chính:
- Mọi nguyên nhân đau khổ,
đầu óc là thủ phạm.
- Sống và làm việc, yêu thương với đầu óc mở
rộng không theo một khuôn phép nào.
- Hãy làm rỗng đầu óc. Đừng cho nó bất cứ một
nguyên liệu nào như ký ức, kiến thức, triết lý, học thuyết, niềm tin tôn giáo
hay niềm tin vào các định chế xã hội. Không lưu giữ một ý niệm, ý tưởng khuôn
mẫu nào cho cá nhân, gia đình, quốc gia hay quốc tế. Khái niệm, chữ nghĩa, ý
nghĩa, ý nghĩ cũng tương tự vậy, cho nó rụng hết.
- Khi ấy, đầu óc sẽ là một không gian trống
rỗng vô tận, mà năng lượng nhìn thấy và hiểu biết của nó sẽ chiếu soi, nó cho ta
biết rằng, sự đau khổ tinh thần và cả thể chất mà con người cưu mang trong nhiều
kiếp chính là suy nghĩ. Nhân loại không nhận biết điều ấy, cứ tin tưởng nó, bám
chặt nó không chịu buông rời!
Đoạn này cũng chỉ lặp đi, lặp lại, không có gì
khác: Thủ phạm là suy nghĩ, là đầu óc; hãy rời suy nghĩ, làm rỗng đầu óc, thế
thôi!
Duy Tuệ còn nói tiếp:
“Qua ba lần trải nghiệm, tôi đã bỏ ra thời gian hai năm để thưởng thức thứ hạnh
phúc mà mình chưa bao giờ trải nghiệm.
Nó gần giống như tôi thấy lại một con đường xưa cũ,
con đường mà tạo hoá ban cho loài người tự bao giờ vẫn còn đó, không có một chút
bụi bám lên, không có chút tì vết của thời gian do con người quy ước, không có
một bóng người đi trên con đường, chỉ mỗi mình tôi.
Cho dù thật sự cô độc nhưng hoan lạc ngập tràn cho
một người đã vượt ra khỏi lịch sử về tuổi tác, nguồn gốc, hình tướng, màu da,
tiếng nói, kiến thức, học thức, ngôn ngữ và văn hoá cũng như văn minh.
Tôi tự biết đây là con đường tuyệt vời dành cho loài
người vẫn còn bị che dấu bên dưới đầu óc của mình. Không có lối vào con đường
này nhưng hơn mười năm qua, tôi hết sức cố gắng để đưa những đệ tử thiêng liêng
cao quý đi cùng tôi và truyền sự màu nhiệm của con đường này cho cuộc sống của
họ với mọi người chung quanh.
Cũng có thể nói theo cách khác là, ba giai đoạn trải nghiệm đã đưa đầu óc tôi vào thế
giới sáng tạo ra vô lượng, vô biên các con đường để chẳng những dẫn đến chấm dứt
hoàn toàn sự khổ đau, mà còn cho ra những con đường khai mở khả năng rộng lớn
đến vô tận của sự sáng tạo, của tình yêu, của sự làm việc trong đời và của sự
hưởng thụ trọn vẹn cuộc đời đầy chông gai, bão táp và thiên biến vạn hoá này.
Sau ba lần trải nghiệm như nói trên, tôi bắt đầu tập
thành thói quen một số phương pháp để giữ bền vững không gian Minh Triết trong
đầu óc mình và tôi thật sự hạnh phúc!
Đến tận bây giờ, tôi cũng vẫn thường xuyên quan sát
và theo dõi các diễn biến trong đầu óc của mình.
Tôi lấy sự quan sát làm lẽ sống của mình, coi nó là
đời sống thật, là hơi thở cho Minh Triết trong đầu óc và lấy việc không tin vào
suy nghĩ của mình làm lẽ sống cho riêng mình.
Tôi thật sự hạnh phúc”!
Đoạn này lặp đi, lặp lại cũng đã cũ mòn, khuôn sáo -
nhưng nổi bật cái mà nhà báo ngày nay hay gọi là tự sướng -“tự sướng bản
ngã”. Rồi còn “than vãn” trong hoang vu rừng rậm, là tôi cô đơn, tôi
một mình đi trên con đường ngàn xưa, con đường mà “tạo hóa” ban cho loài
người, vẫn còn đó, không bụi bặm, không tì vết của thời gian và quy ước, không
một bóng người, không có ai đi trên đó, “thui thủi” chỉ mỗi một mình tôi!
Mọi người nghe rõ cả đấy chứ? Đức Phật lúc tìm ra
Bát chánh đạo ngài cũng nói tương tự thế nhưng lại vô cùng khiêm tốn: Là Như Lai
không sáng tạo con đường, mà chỉ là người phanh lần ra con đường xưa cũ của chư
Chánh Đẳng Giác đã đi trong quá khứ. Đấy, một vị Chánh Đẳng Giác mà còn noi theo
chư Chánh Đẳng Giác đi trước; còn con đường của ông ta là do “tạo hóa”
ban, và từ xưa đến nay chỉ có “mỗi một mình ông ta” đi thôi!
Viết đến đây tôi chợt muốn khóc giùm ông ta, muốn
ngậm ngùi rơi giọt lệ như Trần Tử Ngang:
“ Tiền bất
kiến cổ nhân.
Hậu bất kiến lai giả
Niệm thiên địa chi du du
Độc sảng
nhiên nhi thế hạ!”
Tạm dịch:
“Ngoảnh
trước mặt, người xưa chẳng thấy.
Trông
sau lưng, quạnh quẽ không ai.
Gẫm suy trời đất dặt dài
Mình ta
hạt lệ u hoài mà thương!”
Tôi cũng chạnh lòng mà xót thương cho ông Duy
Tuệ như thế đó! Ôi, là “ba sự thật hiển nhiên”
của ông ta đã làm cho tượng đồng vô tri phải toát mồ hôi mà tượng đá vô tình
cũng phải rỏ lệ!
(Đón xem
hồi thứ tư)
HỒI THỨ
TƯ
Ba thời
kỳ của cuộc đời
Về sự phân chia cuộc đời ra làm ba thời kỳ,
ông giảng:
“Để minh hoạ cho dễ hiểu về các trải nghiệm nêu trên, tôi tạm chia cuộc đời tôi
ra làm ba thời kì, và thời kì sau cùng tạm gọi là đời sống hạnh phúc. Tôi cũng
đã nói những điều này trên skype cho nhiều người nghe. Ba thời kì đó là:
- Thời kì nước mắt hồn nhiên của tuổi thơ
- Thời kì nước mắt của sự trả giá trong cuộc đời do vô minh, chưa hiểu về bí mật
của cái đầu.
- Và thời kì nước mắt xuất hiện của sự trở lại bản
tính hồn nhiên trong bộ não già cỗi.
Thời kì thứ hai là rất cần thiết! Nó là điều kiện không thể thiếu cho thời kì
thứ ba. Không thể thiếu cho tình yêu và trí tuệ Minh Triết nở hoa trong thời kì
thứ ba.
Ở thời kì thứ hai, do sự trả giá với cuộc đời mà nhiều người muốn trốn tránh áp
lực cuộc đời nên cố nghĩ ra một thế giới chứa chấp sự trốn chạy của mình.
Đến thời kì thứ ba, rất giống thời kì thứ nhất, chẳng có nhu cầu đi về đâu sau
cái chết. Quý vị có thể nói đến thiên đàng cho một em bé được không? Em bé đang
ở trong thiên đàng của chính đầu óc nó và của cuộc sống chung quanh.
Nó thật sự không có nhu cầu thiên đàng. Đây là thời kì trưởng thành của con
người nhưng con người chưa đủ khả năng nhận biết, phải chờ đến thời kì thứ ba
vậy.
Nói đến hạnh phúc hay trưởng thành là nói đến sự
thăng hoa về tinh thần, về đầu óc chứ không nói đến kiến thức, quyền lực chính
trị, quyền lực kinh tế hay thế quyền hoặc thần quyền. Chữ “quyền” không nằm
trong phạm trù trưởng thành hay hạnh phúc.
Trong hơn 10 năm qua, dù thiếu thốn cực khổ đến đâu, dù chịu bao nhiêu sự ghen
tị, tị hiềm bởi tính ích kỉ của con người, tôi cũng vẫn giữ vững một đại nguyện,
một tấm long làm phước giúp cho con người nhìn thấy và thực hiện con đường làm
cho cái đầu an ổn. Từ người trẻ đến người già, khi lắng nghe và thực hành bài
quan sát hơi thở, đầu óc và các cảm xúc của mình đều được thay đổi rất lớn.
Những vị có sự thay đổi lớn là những vị lúc nào cũng gần gũi, lắng nghe và thực
hành những điều tôi chia sẻ.
Để có thể bước vào giai đoạn thứ ba của cuộc đời, sự tập luyện là cần thiết chứ không phải góp nhặt kiến thức là cần
thiết.
Tôi khuyên
quý vị không nên phát triển kiến thức về con đường này. Bởi bất cứ thứ kiến thức nào cũng làm cho quý vị
tiếp tục đắm chìm sâu vào giai đoạn trả giá với cuộc đời. Kiến thức không đem
lại sự thay đổi ngược chiều để tận hưởng hoan lạc trong giai đoạn thứ ba này.
Chỉ có một cách hiệu quả nhanh nhất và hy vọng nhất là nên nghi ngờ những gì mà
mình hiểu biết và tìm nhiều cơ hội gần gũi tôi. Tuy nhiên, tôi vẫn cố
sáng tạo ra vài phương pháp để giúp quý vị tự tìm hướng tiếp cận con đường xưa.
Từ trong thực tế rèn luyện tự thân thành người lấy thói quen quan sát làm lẽ
sống của mình, từ thực tiễn kết quả của biết bao nhiêu người học tập với tôi
trong hơn mười năm qua, tôi tạm sáng tạo ra một số bài tập để giúp cho nhiều
người trên khắp thế giới thực tập mà hưởng thụ cuộc sống tươi đẹp hơn! Chúng tôi
lần lượt hình thành các Trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng Minh Triết vào đời sống
trên nhiều quốc gia. Các Trung tâm này sẽ là nơi hướng dẫn cho những ai quan tâm
đến đời sống an tâm, thành đạt, và hạnh phúc.
Dưới đây là vài phương pháp thực hành để giúp quý vị có thể lặn xuống bên dưới
dòng sông suy nghĩ và cảm xúc.
Bây giờ đi vào chi tiết của Thiền Minh Triết”.
Đọc ba thời kỳ nêu trên, ai cũng hiểu cả rồi.
Tuy nhiên, khi phân chia như thế, không biết
ông Duy Tuệ có biến thể từ câu chuyện “Núi
là núi, sông là sông”
của Thiền tông không?
Nó đây, theo cách diễn đạt của tôi:
“Sải tôi
trước đây 30 năm khi chưa học đạo Thiền thì thấy sông là sông, thấy núi là núi.
Khi đang học đạo Thiền thì sãi tôi thấy sông không phải sông, thấy núi không
phải núi. Khi ngộ đạo Thiền rồi 30 năm sau, sãi tôi thấy sông vẫn là sông, thấy
núi vẫn là núi thôi!”
Rất là dễ hiểu. Người phàm phu, bình thường
trên thế gian gọi sông là sông, núi là núi trong thế giới khái niệm quy ước
(paññatti) là giai đoạn một, khi chưa tu. Giai đoạn hai, khi đang tu, người
ấy minh sát mình và ngoại giới, tất thảy chỉ là những yếu tố đất nước lửa gió
kết hợp lại với nhau mà giả danh gọi tên này hay vật nọ. Ví dụ, cái bàn, chỉ là
sự kết hợp của ván, gỗ, đinh và ý niệm của người thợ - nên giả danh gọi là cái
bàn. Rời các yếu tố tạo nên cái bàn, cái bàn không hiện hữu, không có trong thế
giới thực, chỉ tồn tại nơi ý niệm của con người. Sông, núi và tất thảy sum la
vạn tượng, tên gọi này tên gọi kia đều chỉ là giả danh! Từ giai đoạn hai, sang
giai đoạn ba, người tu Thiền đã thấy rõ (giác ngộ) cái thực, như chân như thực
(sabhāva-dhamma),
không còn bị ràng buộc bởi thế giới khái niệm, quy ước ấy nữa nên thung dung, tự
tại cả hai bờ, giờ thấy sông cứ gọi là sông, thấy núi cứ gọi là núi hoàn toàn vô
ngại, rỗng không, giải thoát.
Còn Duy Tuệ, ông nói khá nhiều về giai đoạn
hai:
“- Thời kì nước mắt của sự trả giá trong cuộc đời do
vô minh, chưa hiểu về bí mật của cái đầu.
Thời kì thứ hai là rất cần thiết! Nó là điều kiện không thể thiếu cho thời kì
thứ ba. Không thể thiếu cho tình yêu và trí tuệ Minh Triết nở hoa trong thời kì
thứ ba.
Ở thời kì thứ hai, do sự trả giá với cuộc đời mà nhiều người muốn trốn tránh áp
lực cuộc đời nên cố nghĩ ra một thế giới chứa chấp sự trốn chạy của mình.
Để có thể bước vào giai đoạn thứ ba của cuộc đời, sự tập luyện là cần thiết chứ không phải góp nhặt kiến thức là cần
thiết.
Tôi khuyên
quý vị không nên phát triển kiến thức về con đường này. Bởi bất cứ thứ kiến thức nào cũng làm cho quý vị
tiếp tục đắm chìm sâu vào giai đoạn trả giá với cuộc đời”.
Tuy lặp đi, lặp lại, chẳng có gì mới, nhưng ta cũng
có thể tóm tắt chúng là ở trong giai đoạn tu, dù kiểu tu của ông nói lung tung
nhưng cũng nhằm vào chuyện “làm rỗng cái đầu”.
Giai đoạn ba, ông nói:
“- Thời kì nước mắt xuất hiện của sự trở lại bản tính
hồn nhiên trong bộ não già cỗi. Nó rất giống thời
kì thứ nhất, chẳng có nhu cầu đi về đâu sau cái chết. Cũng là thời kỳ tình yêu và trí tuệ
Minh Triết nở hoa”.
Ông muốn nói đây là giai
đoạn trở về với trạng thái hài nhi tuy khối óc đã già cỗi. Hai nhi này là “thiên đường” cho mọi người, dành cho
những ai tu tập Thiền Minh Triết. Ở đây cũng tương tợ trở về thế giới
“tâm bình thường như thị đạo” của Nam Truyền, và của Thiền:
“Sông nói là sông, núi nói là núi”!
Hài nhi này có liên hệ gì
với “xích tử chi tâm” (tâm như đứa con đỏ)
của Lão Tử?
Hài nhi này có thấp thoáng
bóng dáng:“Quả thật, ta nói cùng các
ngươi, nếu các ngươi không quay lại như con trẻ thì chẳng thể vào được nước
thiên đàng đâu” trong “Ma-thi-ơ 18: 1-3”?
Hài nhi này có được lấy ý
trong ba giai đoạn triết học của Nietzsche, với biểu tượng con lạc đà, sư tử và
trẻ con - để nói lên quá trình vận hành đi đến viên mãn của triết lý tâm
linh hướng thượng. Con lạc đà là hình ảnh chở mang hiểu biết, kiến thức, các giá
trị quy ước của cuộc đời, với bước chân đậm đạp, lầm lũi, nặng nề đi qua những
sa mạc cháy bỏng của phải trái, hơn thua, xấu tốt, được mất... Con sư tử là giai
đoạn đã kinh qua các trải nghiệm đường đời, đã học được những bài học máu xương;
cho nên nó cất tiếng sư tử hống giữa thế giới giả tạo, triết thuyết, học thuyết,
chủ thuyết, lịch sử cùng mọi nhân danh xảo dối, trầm kha và bi thống của con
người. Nó đạp đổ tất cả điện đài thiêng liêng ngụy tạo của con người, với tuyên
ngôn xanh rờn rợn: “Thượng đế đã chết
rồi”; vậy chính mi phải là thượng đế của chính mi, sáng tạo và sáng hóa đời mình
với ý chí hùng lực, siêu nhân! Cuối cùng, giai đoạn ba là trở về với hài
nhi, với đứa con đỏ, không biết gì quê hương, lý lịch, tên gọi, hồn nhiên vô tư
vô lự...
Vậy, quả thật, cái được gọi
là ba giai đoạn kia, kỳ lạ không hiểu nổi, là ông đang đau đớn nên giai đoạn nào
cũng có nước mắt? Và tựu trung, nó là bản sao quá mờ nhạt của Thiền học, Thiên
chúa giáo, Lão giáo cùng với tư tưởng của Nietzsche. Chẳng có cái gì là của ông
ta cả. Con đường xưa cổ nhân chưa có ai đi, Trần tử Ngang đã ngậm ngùi rơi hạt
lệ; và bây giờ? Than ôi! Con đường mà ông mạo nhận tìm kiếm ra đấy, Thiền Minh
Triết đem dạy cho thiên hạ, là trở về với
“thiên đường hài nhi” trong thân xác và bộ óc già cỗi - chính là
“cuỗm” nơi này một ít, nơi kia một ít để làm của mình: Một món ăn vụng nấu
lại để cho siu nguội, không bỏ cho thức giả quay lưng, cười chê, khinh bỉ mình
hay sao?
Kết hồi này:
“- Trẻ con hạnh phúc thiên đường
Là Thiền Minh Triết, thị phường bán rao!”
(Đón xem
hồi thứ năm)
Hồi Thứ
Năm
Thiền Minh Triết là gì?
Đấy là tiêu đề của ông Duy Tuệ.
Rồi ông giảng:
“- Là phương pháp kích hoạt (activate) không gian tĩnh lặng vô tận của đầu
óc để quan sát mọi dấu hiệu hay hiện tượng đang xảy ra và vận hành trong chính
nó như các suy nghĩ, ý tưởng, đánh giá, suy luận, hơn thua, thèm thuồng, nhớ
tưởng về chuyện đã qua, tưởng tượng chuyện sắp đến. Làm như vậy, sẽ lấy lại được
bầu trời thanh bình dễ chịu và minh mẫn, ứng xử tự nhiên và thành công, phù hợp
mọi hoàn cảnh mà đầu óc vẫn luôn gìn giữ được sự hồn nhiên.
Là thường xuyên nhận biết các cảm xúc (emotion) như
lo lắng, bồn chồn, khó chịu, đau buồn, tức giận, thất vọng, tuyệt vọng… đang
chạy trên cơ thể để qua đó chúng mất đi và đầu óc trở lại bình yên dễ chịu và
tỉnh táo, sáng suốt trước mọi biến động của hoàn cảnh.
Là các phương pháp thực hành để dừng sự tin tưởng hay
lòng chấp của mình vào ý nghĩ hay ý tưởng trong đầu óc. Khi đó, một không gian
tỉnh thức vô tận sẽ mở ra và cho chúng ta mọi trí tuệ cần thiết để tồn tại trong
niềm vui hòa bình và hạnh phúc thật sự! Kết quả của đời sống Minh Triết là đầu
óc lúc nào cũng bình yên, an lạc và một tình yêu không bị bất cứ điều kiện nào
của cuộc sống hình thức và ý tưởng chi phối. Tình yêu này sẽ dâng trào và là vẻ
đẹp tuyệt hảo của con người! Tình yêu này cũng cho con người ấy hạnh phúc vô tận
bởi sự chứng ngộ tình yêu chân thật, chứ không phải tình yêu theo ý nghĩ và thoả
mãn ý nghĩ của mình.
Là bí quyết thưởng thức niềm vui và hạnh phúc bên
trong tâm hồn. Mục đích chung
nhất của Thiền Minh Triết là mở ra không gian vô tận trong đầu óc của mình”.
Quý vị đọc đi đọc lại xem.
Đoạn văn này gồm hai phần. Phần một, nhân tu tập:
“Là kích hoạt (activate) không gian tĩnh lặng vô tận của đầu óc để quan sát mọi dấu
hiệu hay hiện tượng đang xảy ra... ví dụ như suy nghĩ, ý tưởng, đánh giá, suy
luận, hơn thua, thèm thuồng, nhớ tưởng về chuyện đã qua, tưởng tượng chuyện sắp
đến. Là thường xuyên nhận biết các cảm xúc (emotion) như lo lắng, bồn chồn, khó
chịu, đau buồn, tức giận, thất vọng, tuyệt vọng...”
Và phần hai, quả tu tập:
“Làm như vậy, sẽ lấy lại được bầu trời thanh bình dễ
chịu và minh mẫn, ứng xử tự nhiên và thành công, phù hợp mọi hoàn cảnh mà đầu óc
vẫn luôn gìn giữ được sự hồn nhiên. Khi đó, một không gian tỉnh thức vô tận sẽ
mở ra và cho chúng ta mọi trí tuệ cần thiết để tồn tại trong niềm vui hoà bình
và hạnh phúc thật sự! Kết quả của đời sống Minh Triết là đầu óc lúc nào cũng
bình yên, an lạc và một tình yêu không bị bất cứ điều kiện nào của cuộc sống
hình thức và ý tưởng chi phối. Tình yêu này sẽ dâng trào và là vẻ đẹp tuyệt hảo
của con người! Tình yêu này cũng cho con người ấy hạnh phúc vô tận bởi sự chứng
ngộ tình yêu chân thật, chứ không phải tình yêu theo ý nghĩ và thoả mãn ý nghĩ
của mình”.
Đây là ông Duy Tuệ “thó” ngay Tứ niệm xứ của
đức Phật mà làm của mình. Tứ niệm xứ là cả một đại dương, cái đầu óc vỏ hến của
ông chỉ múc được mấy giọt rồi đem ra giảng nói. Phần một, ông nói lung tung, lẫn
lộn giữa những cảm xúc, cảm giác và suy nghĩ, ý nghĩ, tưởng tượng nhưng đức Phật
chỉ tóm gọn nơi minh sát “thọ” và “tâm” (thân, thọ, tâm, pháp). Thọ,
cảm giác, cảm xúc là nó gồm tất thảy niềm vui, nỗi buồn, khổ và lạc, cả hoan
lạc, thích thú, ưu tư, lo lắng, sợ hãi, thất vọng, tuyệt vọng... Tâm là
gồm suy nghĩ, ý nghĩ, tưởng tượng, vọng tưởng, gồm cả tham lam, khao khát, nóng
nảy, giận dữ, sân hận, si mê và cả khi không có tham, sân, si, nhẹ nhàng, thư
thái, nhu nhuyến, mềm mại, tâm dục giới, tâm sắc giới, tâm vô sắc giới...
Minh sát một cách khách quan, trung thực, như thực, không phê phán, không đồng
hóa. Chúng như thế nào thì minh sát chúng như thế, đúng như thực tướng mà nó là.
Người tu tập minh sát không phải bỏ khổ tìm vui, không tránh bất an tìm an,
không lìa thất vọng được hy vọng. Chúng chính là hai mặt của thực tại. Tu minh
sát tuệ càng ngày càng trong sáng thì tâm như tấm kính trong suốt, không bụi bặm
có thể phản ảnh trung thực những thọ, nhưng tâm đến và đi, sinh và diệt
một cách rõ ràng. Những tham ưu ở đời sẽ không còn nữa, trí minh, tuệ minh được
thường trực thắp sáng nên thấy rõ tam tướng. vô thường, vô ngã của tâm và pháp.
Còn ông Duy Tuệ nói sao? Ông bảo tu như thế, chỉ
“quan sát thọ và tâm lẫn lộn” - mà khi đó, “một không gian tỉnh thức vô
tận sẽ mở ra và cho chúng ta mọi trí tuệ cần thiết để tồn tại trong niềm vui hòa
bình và hạnh phúc thật sự! Kết quả của đời sống Minh Triết là đầu óc lúc nào
cũng bình yên, an lạc và một tình yêu không bị bất cứ điều kiện nào của cuộc
sống hình thức và ý tưởng chi phối. Tình yêu này sẽ dâng trào và là vẻ đẹp tuyệt
hảo của con người! Tình yêu này cũng cho con người ấy hạnh phúc vô tận bởi sự
chứng ngộ tình yêu chân thật, chứ không phải tình yêu theo ý nghĩ và thoả mãn ý
nghĩ của mình”.
Xin thưa ông “đạo sư dổm”, phát ngôn ấy của
ông, mới mở tâm trí quan sát mà có được trí tuệ, có niềm vui hòa bình và hạnh
phúc thật sự ư? Rồi còn tình yêu vô điều kiện xuất hiện? Rồi sẽ dâng trào và là
vẻ đẹp tuyệt hảo gì đó nữa. Minh sát như thực, đối tượng của nó là thế giới
như thực tánh (paramattha-dhamma); nếu tu tập khắn khít, miên mật thì chân lý sẽ
hiển lộ, càng thấy rõ vô thường, vô ngã - chứ làm gì có cái gọi là hạnh phúc, là
tình yêu, làm gì có cái gọi là chứng ngộ tình yêu chân thật? Lộ tẩy bán hàng
giả rồi, ông bạn! Món hàng bên ngoài láng lẩy, bao bì nhãn mác trông ngon mắt
nhưng bên trong là tâm địa xấu xa: Lấy bình an, hạnh phúc, tình yêu để câu nhử
những người nhẹ dạ, thiển cận, tu ít mà được nhiều, mua ít mà lời to.
Thật khiếp! Tứ niệm xứ của đạo Phật là làm lắng
dịu tham ưu ở đời, mọi khổ lạc, hỷ ưu đều được nhìn ngắm như thực tánh. Còn
ông ta dụ dỗ, tu “vế” khổ-bất-an-tuyệt-vọng này để được “vế” kia
là lạc-thanh-bình-và-hy vọng! Thế thì tôi phải bắt chước nhà thơ Trần Tế
Xuơng:
“- Phen này tôi quyết đi buôn ‘lạc’,
Quảng cáo dối gian cũng đắt hàng!”
Thêm câu nữa:
“- Đận rày, mồm mép trơn tru khiếp,
Hạnh phúc, tình yêu lắm kẻ thèm!”
Hóa ra cái gọi là Thiền Minh Triết của ông ta là vậy
đó - chỉ cuổm một tí tẹo minh sát mà đã chứng đắc hạnh phúc vô biên! Rồi phương
pháp tu tập tiếp theo cũng có hai trình độ, căn bản và chuyên sâu. Cái căn bản
cũng được lặp lại - là để đầu óc bình yên; và chuyên sâu là nhận rõ bản chất của
suy nghĩ, tư tưởng, ý tưởng, Cái này cũng lặp lại. Và ông ta không cho biết
“bản chất của chúng là cái gì”
- rồi lại được thưởng thức sự nhiệm mầu của tỉnh thức? Rồi lại còn tách ý nghĩ
ra khỏi sự tỉnh thức đến 99% - để thăng hoa, để sáng tạo... gì gì đó nữa. Hay
ông mù tịt bản chất của suy nghĩ, ý tưởng chúng cũng như dòng sông sát-na tư
tưởng trôi chảy, cũng vô thực tính, vô ngã tính?
Điều tôi vừa nói chính là ở đoạn văn rườm rà, cũ mèm
của ông nói và và viết sau đây:
“- Thiền ở trình độ căn bản là để giảm stress, để đầu
óc bình yên vì thiếu vắng hoạt động của suy nghĩ”.
Giảm stress thì chẳng cần
theo Thiền Minh Triết của ông. Bất cứ Thiền nào cũng đạt hiệu quả này khi thư
giản, buông xả. Cả những khoa tâm bịnh học, thần kinh học - chẳng cần tu Thiền
mà họ cũng làm được điều đó. Món hàng này người ta bán đầy ở chợ.
“Ở trình độ này là giai đoạn ranh giới của giai đoạn hai và giai đoạn ba của
cuộc đời mà tôi đã nêu trên. Nó đang chuyển hóa từ khổ đau sang chấm dứt khổ đau
và trở thành người sáng tạo, hạnh phúc và yêu thương”.
Nó mới chỉ giảm sự căng
thẳng của cơ bắp, nó giãn ra, nó trả lại sự vận hành nhẹ nhàng tự nhiên cho khí
huyết, nhịp tim, hơi thở (thân); và khi ấy, mọi áp lực tinh thần
được lắng dịu xuống
(tâm). Còn cái mà ông bảo “chấm dứt đau khổ, sáng tạo, hạnh phúc và yêu
thương” là ông tưởng tượng đấy, ông bán hàng dổm đấy! Vì sao? Chưa thấy thực
tướng, bản chất như thực của pháp thì làm sao chấm dứt đau khổ? Chưa chấm dứt
đau khổ mà ông lại khêu gợi lòng tham, khát vọng hạnh phúc và yêu thương - có
nghĩa là ông lấy lòng dục mà tu tập nên sẽ đạt
“bản ngã dục” to lớn hơn mà thôi!
Tôi đã tận tình lấy chánh
pháp của Phật nói cho ông nghe đó. Tu như vậy thì ông sẽ đi địa ngục rồi dẫn mọi
người cùng đi xuống địa ngục với ông. Chìa khóa địa ngục thầy trò ông đang nắm
trong tay đó, bằng vàng ròng nguyên chất đó!
“Còn ở trình độ sâu thẳm là đi vào nhận rõ bản chất của suy nghĩ, các ý tưởng,
tư tưởng để có thể làm giảm sự tàn phá của nó đối với đời sống tinh thần cũng
như thể chất của mình. Ở trình độ này, Thiền sinh sẽ thưởng thức những sự nhiệm
mầu của tỉnh thức và gần như chủ động đến 99% tách ý nghĩ ra khỏi tỉnh thức. Ở
giai đoạn 2, Thiền sinh sẽ tập sống đi vào giai đoạn ba của cuộc đời, giai đoạn
thăng hoa tinh thần”.
“Nhận rõ bản chất của suy nghĩ, các ý tưởng, tư
tưởng”. Đồng ý! Nhưng
ông không nói cho người ta biết, lấy cái gì mà nhìn ngắm nó? Đầu óc, suy nghĩ
ông đã chích thuốc tâm thần cho nó tê liệt rồi, ông đã vô hiệu hóa nó rồi; ông
đã không cho nó thức ăn, nguyên liêu, đối tượng thì nó suy nghĩ về “cái gì”?
“Cái gì”, đối tượng không có thì làm sao có ý tưởng, có tư tưởng? Đã thế,
cái quả của việc nhìn ngắm ấy (không biết cái gì nhìn ngắm) , ông lại
nói:
“Ở trình độ này, Thiền sinh sẽ thưởng thức những sự nhiệm mầu của tỉnh thức và
gần như chủ động đến 99% tách ý nghĩ ra khỏi tỉnh thức”.
Đạo Phật dùng tuệ tâm sở, tuệ không, tuệ như thực
tánh, chánh kiến, tỉnh thức, minh sát để nhìn ngắm - còn ông ta lại từ cái
“vô tri” mà nhìn ngắm lại phát sanh “tỉnh thức”, sự nhiệm mầu của
tỉnh thức! Hơn thế nữa, lại còn tách ý nghĩ ra khỏi tỉnh thức 99%! Lập ngôn này
là điên đảo! Hay ông muốn bắt chước Lão Tử để tuyên bố: “Tri bất tri,
thượng!” Câu này tôi không giải, cứ để cho ông suy nghĩ đến lỏng óc, một
ngàn năm ông cũng không hiểu Lão Tử muốn gởi thông điệp gì!
Và cũng từ chỗ đó, chính là nền tảng sai lầm của
ông, chỗ “bất tri”
của ông! Từ sai lầm, từ tà kiến này mà lập ngôn, lập thuyết thì ông đã tung bóng
tối tà kiến ấy di hại cho biết bao nhiêu “con chiên” ngây thơ của ông?!
Tại sao ông không chịu nhìn rõ bản chất
“tà mị, vô tri, dối vạy, điên đảo, ma giáo” của chính ông? Đây là bản
chất như thực đấy! Thấy rõ bản chất ấy thì ông cũng giác ngộ được kia mà! Và đây
là đề mục minh sát thiết thực, hiện tiền, cụ thể (saṅdiṭṭhiko) cho ông
quán tâm đây: “Với tâm tà mị, vô tri, dối vạy, điên đảo, ma giáo - tuệ tri
tâm tà mị, vô tri, dối vạy, điên đảo, ma giáo!” Đây chính là đề mục “đang là” để
ông tự cứu mình đó. Vì, khi vị ấy tuệ tri như vậy, sống quán tâm như vậy, vị ấy
sẽ thấy tánh sanh khởi, tánh diệt tận, tánh sanh diệt trên tâm ấy; vị ấy phát
sanh tuệ giác, tuệ minh; vị ấy sống không nương tựa (anissito), không còn
chấp trước điều gì (na upādayati) ở trên đời này nữa! Chính tại chỗ này
mới chuyển hóa mọi đau khổ, thưa ông!
Rồi ông còn tiếp tục dụ dỗ, muốn kéo chúng đệ tử về
với mình. Đây là dã tâm thấy rõ:
“- Nhưng dù là phương pháp nào, việc gần gũi với tôi
trong giai đoạn đầu là rất quan trọng, giống như quả trứng cần hơi nóng để
trở thành con”.
Vậy là phải cần thầy “ấp trứng” cho
đó!
Rồi những bài Thiền căn bản: Thiền ngồi, Thiền quan sát ý nghĩ, Thiền trong lúc
làm việc, Thiền trong lúc đi bộ, thể thao hay khi đang dạo chơi, Thiền trong lúc
đang nói chuyện công cộng.... Chuẩn bị tinh thần, quần áo, địa điểm, thời
gian, thời lượng... cũng đều là lượm lặt không tới nơi tới chốn nơi này và nơi
khác. Đọc thấy mệt. Xưa như quả đất. Tôi không muốn ghi ra đây, sợ làm phiền
thời gian của chư vị thức giả khả kính. Vì nó chỉ chứng tỏ là học trò hạng bét
của các trường Thiền chân chính.
Chán cái ông này quá! Thôi kệ! tôi sẽ “tuệ tri tâm nóng nảy, tâm bực bội” khi viết những dòng này. Và cả
mấy câu thơ này nữa:
“- Con cóc đáy giếng tà sư,
Nghiến răng, vỗ bụng kinh thư bằng trời!”
(Đón xem hồi thứ sáu)
HỒI THỨ
SÁU
(Ông ta kết luận)
Đây là phần kết luận Thiền Minh Triết của ông.
Đầu tiên ông đưa ra vài ví dụ cụ thể một số người đã đến hỏi ông, nghe ông
giảng, tu theo ông rồi có được “hạnh phúc bất tận”.
Tôi sẽ “tận tình” mổ xẻ từng điểm.
Ông
“điềm đạm” kể lại rằng:
“Trong
nhiều năm tháng thầy nghe nhiều người nói rằng: “Con ăn chay trường và tu Thiền
rất nhiều năm, ít nhất là trên mười năm với các thầy thì cũng hiểu được thế nào
là Phật tính nhưng cứ chờ đợi sự chứng ngộ thật sự, nhưng chờ mãi, chờ hoài vẫn
chẳng thấy gì mới. Tuy nhiên, chúng con đã lỡ tu rồi nên cứ phải chờ đợi sự
chứng ngộ, mặc dù nhiều khi cũng cảm thấy chán ngán lắm!”
Quý vị thấy sao? Cách nói
này, dựng đứng câu chuyện này thì chỉ có những người
“ngoại đạo” mới tin! Tại sao vậy? Ăn chay trường thì tốt rồi, tu Thiền nhiều
năm thì tốt rồi! Nhưng tại sao không cho biết luôn là tu Thiền gì, Minh sát,
Đông độ, Zen hay Trúc Lâm Yên Tử? Rồi thầy nào, có thầy Thiền nào mà dạy cho học
trò “chờ đợi Phật tính” như người ngu
nước Tống ôm cây đợi thỏ? Thắp đèn giữa ban ngày cũng không tìm ra ông thầy “gà mờ” ấy! Tại sao? Tại vì, dù là ông thầy Thiền dở nhất, tệ nhất,
ngốc nhất (xin lỗi các ông thầy vô danh,
tôi đã nói nặng là vì mạch văn cần thiết) cũng biết Thiền là quán, là nhìn
ngắm, là lắng nghe thân tâm trong ngoài khi đi đứng, nằm ngồi, ăn nói, ý nghĩ,
tư tưởng cùng những sinh hoạt liên hệ trong đời sống. Ai cũng biết là
“trực chỉ lắng nghe mình”. Chẳng có ai “chờ đợi Phật tính” trong bất cứ một trường Thiền, một lớp Thiền nào
cả! Thầy trò ông đã vu oan cho “tông môn Thiền, tông chỉ Thiền, tinh yếu Thiền” trên khắp thế giới
đó, ông có biết không? Hãy nuốt cái lưỡi của ông lại đi! Thêm một tội
“vu không với miệng lưỡi rắn rít”. Một địa ngục nữa đó!
“Đặc biệt gần đây, Thiền sinh Nguyễn Đức Luân, mười sáu tuổi, Phật Tâm Danh là
Duy Nguyện, cùng bố và mẹ là Không Tuệ và Tuệ Thiêng từ Việt Nam qua Mỹ để học
Thiền với thầy đã đặt ra câu hỏi này: “Thưa thầy, mình tu Thiền như vậy bao lâu sẽ chứng được đạo? Nếu lâu quá
chắc tuổi trẻ như chúng con sẽ không theo được.”
Chỗ này tôi sực nhớ chuyện ông thầy thuốc bán
thuốc dổm, muốn quảng cáo thần dược của mình, ổng thuê một chục người, hai chục
người viết giấy chứng thực, tôi bệnh như vậy, tôi đau như vậy nhưng đi khắp
nước, hằng trăm thầy Đông Tây y đều không chữa khỏi - nhưng khi tôi uống “thần dược” này, bệnh tôi lành hẳn chỉ
trong “một thang”, người tôi da dẻ hồng hào, tười trẻ như tuổi thanh xuân
nữa chứ. Đúng là thần y, đúng là thần dược!
Ông Duy Tuệ đã làm đúng bài bản lắm lắm! Đáng
khen vậy thay!
“Thầy trả lời rằng: “Thật ra, không có gì để chứng cả. Mục đích
hành Thiền không phải để thành chính quả. Sự thật rất quan trọng, hết sức quan
trọng trong việc thực hành Thiền là để Thiền giả hình thành một thói quen có lợi
toàn diện về đời sống tinh thần và thể chất. Do vậy, phải thường xuyên thực hành
Thiền để thói quen ngày càng nhuần nhuyễn, và ngay trong thói quen thánh thiện
này sẽ cho Thiền giả niềm vui và hạnh phúc bất tận bên trong , không bao giờ chấm dứt và
rất ổn định. Thói quen này sẽ phát triển đời sống Minh Triết hoàn hảo! Nó cũng
đem lại cho bạn nhiều may mắn và bình an!
Duy Nguyện reo lên vì thấy vấn đề rất nhẹ nhàng là chuyển từ mục tiêu Thiền để
chứng quả sang mục tiêu thực hành Thiền là tạo một thói quen tốt đẹp, làm cho
tính tích cực trong con người phát triển. Duy Nguyện hứa sẽ ra sức thực hành vì
nó đem lại kết quả ngay: hình thành thói quen tỉnh thức và xua tan ý nghĩ,
‘đây là thói quen mà con thích và có lợi cho con trong cuộc sống và học tập!’
Tóm lại, phương pháp Thiền thầy chia sẻ không có mục tiêu chứng ngộ mà là hình
thành thói quen thụ hưởng sự làm chủ của tỉnh thức đối với cái đầu đã, đang và
sẽ tiếp tục tự do tung hoành suy nghĩ, quấy nhiễu tạo ra cảnh khổ đau giả tạo
cho tinh thần. Từ thói quen này, Thiền giả sẽ có tất cả những niềm vui, hạnh
phúc thật sự và tinh thần rất ổn định.
Những kiến thức bổ sung để gúp chúng ta mở rộng và vào sâu không gian Minh
Triết”.
Đoạn văn dài phía trên, ta
chỉ rút ra 3 điểm:
- Sự thật quan trọng:
Hành Thiền là để Thiền giả hình thành một thói quen có lợi toàn diện về đời sống
tinh thần và thể chất.
- Phải thường xuyên thực hành Thiền để thói quen ngày càng nhuần nhuyễn.
- Hình thành thói quen thánh thiện này (tức là thói
quen thụ hưởng sự làm chủ của tỉnh thức) sẽ cho Thiền giả niềm vui và hạnh phúc bất
tận.
Vậy là đã rõ, cứu cánh của Thiền Minh Triết là hình thành một thói quen,
nhuần nhuyễn thói quen thánh thiện là thụ hưởng sự làm chủ tỉnh thức sẽ đem đến
niềm vui và hạnh phúc bất tận - tức là “lạc” trường cửu.
Chư vị thức giả, trí giả đã thấy ông tà sư này lộ ra đuôi cáo, đuôi chồn chưa?
Thói quen lâu ngày tích lũy, nhuần nhuyễn nó sẽ tạo nên một “cái đà năng
lực”, một quán tính, và đây chính là “nghiệp” của tất thảy chúng
sanh. Tôi sẽ có ví dụ cho cái thói quen, cái quán tính này.
“Hôm kia, cảnh sát bắt nhốt 3 người: Một tay đánh
bạc, một tên nghiện hút, một bợm rượu. Mấy ngày sau được thả. Tay đánh bạc tìm
ngay đến sòng bài. Tên nghiện hút chạy tìm cô tiên nâu. Bợm rượu thì mò đến quán
ma men!”
Đây là do thói quen lâu ngày hình thành một năng lực, rất mạnh. Ai đẩy chúng đi?
Chính do năng lực thói quen, năng lực quán tính, năng lực nghiệp đẩy chúng đi.
Chúng sanh ba cõi sáu đường đều bị chi phối bởi định luật này. Tâm nào cảnh nấy.
Và đó cũng là nhân, cũng là quả. Chẳng có thượng đế nào, tạo hóa nào xen dự vào
đấy cả.
Vậy, Thiền Minh Triết của Duy Tuệ không nhằm thấy rõ bản chất như thực của pháp
để chấm dứt tất cả khổ đau phiền não - mà là để
hình thành thói quen, hình thành quán tính, hình thành nghiệp!
Nhưng mà nghiệp mà ông ta muốn nói là nghiệp gì vậy? Là thói quen thụ hưởng sự làm chủ của tỉnh thức! Ồ, hay tôi đọc nhầm? Không phải! Thư ký
nhầm hay ông Duy Tuệ nói nhầm?
Tỉnh thức là “công cụ”
của tuệ tri, tuệ giác - nhờ nó quan sát, nhìn ngắm, lắng nghe ngũ uẩn, thập nhị
nhân duyên nên thấy được sự vận hành duyên khởi của thân, tâm, của lục căn, lục
trần, lục thức... Tất cả chúng chỉ là duyên khởi, vì duyên khởi nên vô ngã.
Chẳng một mảy tâm, một mảy may pháp nào là thực tính, là hiện tồn vô tận hay
trường cửu; nói theo khoa học vật lý lượng tử thời đại hạ nguyên tử ngày nay,
thì chúng chỉ tồn tại trong kỳ gian sinh diệt của phần tỷ giây đồng hồ! Cũng
chính nhờ “công cụ”
này mà tuệ giác thấy rõ cái “thực tánh vô
tự tánh”, cái “tánh không” (suññatā)
của mọi sự, mọi vật - sẽ không còn bám víu chấp thủ của những ngã ái, ngã kiến
nữa. Tâm và trí lúc ấy là cả một miền trong lặng, một tấm kiếng trong vắt, các
pháp vẫn đến, vẫn đi, ý nghĩa, tư tưởng cũng lui, cũng tới - nhưng đều được phản
ánh một cách chân xác và trung thực,
như-mà-nó-là - là thế giới của “tịch
diệt hiện tiền” chứ không phải là “thói
quen thụ hưởng sự làm chủ của tỉnh thức”- sẽ cho Thiền giả “niềm vui và hạnh phúc bất tận”!
Đây là cái kiểu lấy nhân mà làm quả, mà cái quả ấy cũng là quả trong sinh tử
đúng như các Nikāya đều có nói: “Khổ và lạc là căn bản của phiền não”, ở
đây còn là “cái lạc” bất tận nữa chớ! Hay ông có sờ đến cái “thường,
lạc, ngã, tịnh” của cảnh giới phạm thiên?
Ông còn muốn giảng thêm:
“Không gian mình triết là gì?
Khó có thể định nghĩa chính xác được, nhưng nay
tôi nói theo ngôn ngữ của riêng mình, cốt sao giúp quý vị đạt được hạnh phúc
chân thật. Tất cả mọi định nghĩa hay khái niệm tôi dùng theo cách riêng là nhằm
giúp cho quý vị tiếp cận được với cõi phúc lạc chân thật, với năng lượng tình
thương dồi dào, và mãn nguyện với đời sống làm người của mình trên hành tinh
này”.
Chỉ lặp lại ý ở trên.
“Quý vị
cứ tưởng tượng trong đầu óc, bộ não của mình có rất nhiều hộp (box) để chứa
những gì mình thấy, nghe, nghiên cứu học hỏi được. Có hộp chứa kiến thức, chứa
kinh nghiệm, chứa các hình ảnh xảy ra trong quá khứ, hộp chứa lòng ham muốn, sự
ích kỷ, lòng vị tha, năng lượng yêu thương có điều kiện, sự tưởng tượng, cái
nhìn thực tế rõ ràng, sự đánh giá, sự hồn nhiên, sự thành kiến, sự ngạo mạn,
hách dịch… hộp chứa sự khiêm tốn, hờn ghen, giận dữ, đau buồn, lỗi lầm, hối hận,
sợ hãi và hộp chứa sự kiên nhẫn, yêu thương chân thành... Những hộp này cũng dễ
thấy và cũng có thể lấy ra dùng hằng ngày, tuy hơi khó”.
Hóa ra, cái không gian Minh Triết của ông ta là nơi cất chứa những cái hộp, tạm
chia có hai loại, là hộp đựng cái xấu ác và hộp đựng cái lành tốt. Mặc dầu ông
dùng nhiều danh từ, nhiều tính từ, nhiều hình dung từ nhưng vẫn thiếu khi muốn
nói đến các trạng thái tâm và tâm sở. Chỗ này, đã hơn hai nghìn rưởi năm trước,
đức Phật đã nói rồi, ở trong Vi diệu pháp. Trong đó nói ít, nhưng lại đầy đủ,
bao quát hơn nhiều. Nó đặc như mật cô lại, và dường như ông đã pha loãng ra,
nhạt nhẽo, nhạt thếch để làm của mình, nói là do mình sáng tạo, do mình mười năm
suy ngẫm tìm ra, là không gian Minh Triết của riêng mình!
Đi sâu vào lãnh vực này tôi ngại “thuật ngữ kinh điển”, cũng ngại mất thì
giờ của chư vị lắm! Nhưng biết sao hơn, tôi sẽ dùng ngôn ngữ thời nay để nói ra
cái mênh mông vô lượng ấy. Xin chư vị thức giả chịu khó cho.
Đây là 14 yếu tố tâm lý xấu ác; chúng luôn
luôn khởi theo các tâm bất thiện, ai có thì giờ thì xem, nó chuyên môn quá .
Còn ai muốn đi vào nội dung từng trạng thái tâm lý thì xin xem chú thích ở cuối
bài *, nó còn khái quát tất thảy mọi xấu ác trên cuộc đời hơn Duy Tuệ
đưa ra nhiều.
Còn sau
đây là những tâm sở đẹp, cao sáng, tốt, lành, thiện lương, mát mẻ. Chúng chính
là những thiện tâm sở, có mặt đều khắp hoặc rải rác từng nhóm trong những thiện
tâm ở cõi dục giới, sắc giới, vô sắc giới và cả siêu thế giới. Những tâm sở ấy,
đức Phật nói rất cô đặc, ai muốn hiểu rõ thì xem
, còn nếu thấy rõ nội dung từng tâm lý
lành tốt thì hãy xuống chú thích ** ở cuối bài! Ông Duy Tuệ cố
gắng xem thì sẽ thấy. Đã kinh khiếp, rợn ngợp kho tàng Pháp Bảo của Phật chưa mà
lại dám coi khinh, chê bai đức Pháp trong lúc ông chỉ mới đụng tới cái ngoài da!
Nhưng đây chỉ mới là những trạng thái tâm sở tốt lành kia đấy! Là những trạng
thái tâm chưa được gọi là Minh Triết. Nó tốt đẹp thật, cao sáng, cao thượng
thật, ở cánh giới vi diệu thật - nhưng chưa thấy thực tánh, giải thoát đâu. Minh
Triết Phật ở cái cõi mà không bao giờ ông với tới được, đó là thế giới vô vi, vô
lậu, vô niệm, vô tâm, vô cấu, vô dục, vô chấp, vô tác, vô hành, vô đối, vô
không, vô ngã - ngay chính trong đời sống này, sự sống này, hơi thở này, hiện
tiền “đương xứ tức chân” này - chứ không phải ở kiếp sau hay cõi Niết-bàn
ảo tưởng xa xăm vị lai nào đó!
Tất cả 39 yếu tố tâm lý này là có thể khái quát toàn bộ tâm của nhân loại, của
tât thảy mọi chúng sanh, xưa cũng như nay. Những yếu tố cả lành tốt, cả xấu ác -
chúng không có sẵn trong tâm như cái kho để cất giữ, hoặc lấy ra để dùng như ông
Duy Tuệ nói. Dù ông có sử dụng phương tiện ngôn ngữ đi nữa thì điều đó cũng đã
sai lầm, tà kiến từ căn bản - vì ông chưa thấy duyên khởi vô ngã tánh. Tất cả
chỉ là duyên khởi. Minh sát là quán cái vận hành duyên khởi này. Một tâm lành
tốt khởi lên - là duyên cho những tâm sở lành tốt khởi theo. Tâm xấu ác cũng
vậy. Ông Duy Tuệ không hề nhắc đến duyên khởi, không biết gì về duyên khởi - cái
quan trọng, cốt tủy để từ đó đức Phật thiết lập nền tảng giáo pháp, thuyết giảng
45 năm, sau hình thành Tam Tạng. Ông Duy Tuệ chỉ biết làm “rỗng đầu óc”!
Cụm từ này đúng, khá hay - nhưng cách làm của ông sai, do không thấy không biết
duyên khởi, do không có tuệ giác để “tư duy vô ngã tính” nên mọi phương
pháp của ông đều chỉ là những cách đối trị tầm thường, dẫn người ta đi vào ngõ
cụt, đụng đầu bức tường duy vật ấu trĩ và ngốc ngếch! Ông muốn vô hiệu hóa nó;
ông không cũng cấp nguyện liệu cho đầu óc - vậy nên không có suy nghĩ, vì không
có đối tượng, đối tượng bị triệt tiêu, vì suy nghĩ là cái gì suy nghĩ và
suy nghĩ cái gì mới được chứ? Khởi niệm mới duyên khởi, mới thấy các pháp,
mới thấy ngũ uẩn, thập nhị nhân duyên. Còn ông không khởi gì cả, không thấy gì
cả. Tôi xin lặp lại, quả là “tri bất tri, thượng”!
Tặng ông câu thơ cổ điển của vị Thiền sư nào đó:
“- Bách
xích can đầu, trực hạ thùy
Nhất ba
tài động vạn ba tùy
Dạ tĩnh,
thủy hàn ngư bất thực
Mãn
thuyền không tải nguyệt minh quy!”
Câu này, cố hòa thượng Đổng Minh dịch:
“ Đầu
cần trăm thước buông câu
Một làn
sóng gợn, nối nhau muôn lằn
Đêm nước
lạnh, cá không ăn
Con
thuyền trống rỗng chở trăng đi về!”
Tôi thì dịch:
“- Trăm
thước đầu cần thỏng điếu ông
Một làn
sóng dợn, dợn muôn trùng
Giá
băng, đêm lặng, khôn tăm cá
Về chở
đầy thuyền ánh nguyệt không!”
Một niệm khởi là duyên vạn trùng khởi. Đêm lặng, nước giá lạnh, cá không ăn mồi!
Vị Thiền sư thấy duyên khởi căn trần - nên tu Thiền định, đóng bít các căn -
không cho “căn ăn trần” nữa. Từ đó mới tu Thiền tuệ, mới “mãn thuyền
không tải nguyệt minh quy”!
Ông Duy Tuệ chưa thấy thế giới duyên khởi nhưng ông có những cái hộp với những
yếu tố tâm lý có sẵn rồi đem cất trong đó! Cũng hay nhỉ? Ta chờ xem!
(Đón xem hồi thứ bảy)
Chú thích:
* Si: Là mê lầm, là mê mờ, không
thấy rõ thực tánh của các
pháp. Vô thường mà cho là thường, vô ngã mà cho là có ngã, khổ não mà cho là an
lạc... Vì si chi phối, mê mờ, che lấp... nên chúng sanh thường đắm đuối, say mê
trong ngũ dục mà không biết đấy là khổ. Và có kẻ thấy khổ thì bỏ khổ đi tìm lạc
(như trường hợp ông Duy Tuệ). Vô tàm: Là không biết hổ thẹn khi làm các việc xấu, điều ác. Chính
tâm sở này làm cho chúng sanh tạo tác tất cả bất thiện nghiệp; chúng không chùn
tay trước bất cứ một việc làm xấu xa, một hành động bạo tàn nào. Như con heo lăn
mình trong đống phẩn, cảm thấy thích thú; kẻ có tâm lý này cũng tương tự thế, họ
thích thú, hãnh diện bởi sự vô đạo đức, xấu ác của mình
(Có trong ông Duy Tuệ). Vô quý:
Là không ghê sợ, không sợ hãi những hành vi xấu ác. Chính vô quý tâm sở này
khiến cho chúng sanh không sợ dư luận chê cười, xã hội lên án... Vô quý được ví
như ngọn lửa phựt cháy đối với con thiêu thân, nó cứ lăn xả vào để tìm lấy cái
chết. Nó đánh mất lòng tự trọng, sự nể vì của người khác; lao thân vào những
việc xấu ác chẳng e ngại nhân quả, tội tù hoặc bốn đường đau khổ
(Có trong ông Duy Tuệ).
Trạo cử: Là trạng thái tâm dao động,
lay động, phóng dật, xao động bất an; cứ chạy tìm từ đối tượng này sang đối
tượng khác; cứ bồng bềnh, lang thang, trôi nổi dật dờ trong thế giới sắc, thanh,
hương, vị, xúc... Nhưng chúng không dừng lại thật lâu trước một đối tượng nào,
vì nó luôn làm cho tâm bị xao lãng, khả năng chú tâm rất yếu ớt, không thể an
định được một giây khắc nào
(Chắc cũng có luôn, do nói lung tung lang
tang như mê sảng). Tham: Là nắm giữ, ôm ấp, cầm nắm, bám víu, chiếm đoạt, vơ vét...
nghĩa là tất cả những trạng thái tâm có “lực hút”; dính mắc đều gọi là tham.
Dính mắc như ruồi dính mủ mít, như chim bị dính bẫy nhựa... thì gọi là tham (Cái này thì chắc hẳn có rồi). Tà kiến: Diṭṭhi là thấy, là kiến. Micchā
là nghiêng, lệch, xiên, tà, lầm lẫn. Vậy, tà kiến tâm sở là thấy lầm, thấy sai,
thấy nghiêng, thấy lệch, thấy không đúng với sự thật. Đã không thấy đúng với sự
thật mà còn chấp những cái thấy sai, thấy nghiêng, thấy lệch... kia là như chơn,
như chánh nữa thì được gọi là tà kiến (Ông
Duy Tuệ xây dựng lý thuyết của mình từ cơ sở này). Mạn: Là tự cao, tự đại, khoe khoang, tự
đắc, kiêu kỳ, ngạo
mạn... là tính chất của mạn tâm sở.
Mạn về thọ sanh, dòng dõi, huyết thống. Mạn do sang giàu, nhiều của cải.
Mạn do học giỏi, biết nhiều, hiểu rộng. Mạn do sức khỏe, trường thọ, sắc
đẹp... Gốc của mạn tâm sở là ngã ái, ngã chấp. Khi nào còn có bóng dáng của cái
tôi, cái ngã là khi ấy còn sự chi phối của mạn (Ông có cả mạn, ngã mạn, thượng mạn, tăng thượng mạn). Sân: Là không bằng
lòng, không vừa lòng, muốn xua đuổi, muốn quay lưng, chối bỏ, phủ nhận, bực bội...
là trạng thái của sân tâm sở. Tất cả những cảnh trái ý, nghịch lòng, mình
muốn triệt tiêu (lực đẩy) đều là sân tâm sở, nó dễ đưa đến cuồng nộ, cuồng dại, hung
dữ, bạo hành rất nguy hiểm vậy (Dĩ nhiên
là phải có rồi - một tâm lý loại trừ cái gì là đã có xung đột rồi) . Tật: Là ganh ghét, đố
kỵ, tỵ hiềm trước những thành công, hạnh phúc, giàu sang, may mắn... của kẻ
khác. Khi thấy kẻ khác có điều
hay, điều tốt hơn mình thì thường tìm cách dè bĩu, ỉ ôi. Khi thấy người có địa
vị, quyền hành, tài sản, danh vọng, quyến thuộc, sắc đẹp... hơn mình thì đem tâm
ganh ghét, nói xấu họ bằng cách này hay bằng cách khác
(Ông đã tỏ thái độ này với Phật giáo).
Xan: Là hà tiện, bỏn xẻn, keo kiệt, rít róng... là tính chất của xan tâm sở.
Bỏn xẻn về của cải tài sản như “con ma giữ của”, hoặc
“vắt chày ra nước”! Bỏn xẻn về trú xứ. Bỏn xẻn về lợi dưỡng. Bỏn xẻn về kiến thức,
bỏn xẻn về giáo pháp; tức là không muốn trao đổi, chia xẻ kiến thức, giáo pháp
cho ai, vì không muốn ai bằng mình hay hơn mình.
Hối:
Là ăn năn, hối hận, hối tiếc... làm cho nóng nảy, bứt rứt ở trong lòng. Khi đã
làm một việc bất thiện, nếu có ăn năn, hối hận là tốt; nhưng chính tâm sở này cứ
làm cho tâm bị thiêu đốt, bị cắn rứt không yên, rồi vấn đề cũng không giải quyết
được. Phương cách đúng đắn để vượt qua tâm sở này là phải tránh tái diễn, lặp
lại các hành vi bất thiện và quyết tâm lánh xa điều ác, làm các điều lành. Chẳng
bao giờ quá muộn để làm việc lành, để tự cải thiện bản thân còn hơn ăn năn, hối
tiếc suông. Hôn trầm: Là trạng thái dã dượi, lừ đừ,
mệt mỏi... của tâm. Là sự co rút lại như lông gà trước ngọn lửa. Nó
làm cho ta sinh thụ động, tiêu cực; không muốn cất tay, cất chân làm bất
cứ công việc gì.
Thụy miên: Khi bị tâm sở này chi phối thì tâm không muốn hoạt động, không có
khả năng nắm bắt điều gì vì nó rất mờ nhạt và rất yếu đuối. Đây chính là sự trì
trệ, uể oải, lười biếng của tâm thức để đánh mất sự linh hoạt, nhạy bén vốn có;
nó tác động lên thân làm cho thân
mệt mỏi, buồn ngủ. Nghi:
Là trạng thái nghi ngờ, nghi nan, nghi hoặc, phân vân, hoang mang... đủ mọi thứ; không biết đặt để
lòng tin
ở đâu. Nghi không phải là không tin, chính xác là nó ở giữa
tin và không tin. Do vậy, nghi tâm sở còn được hiểu là phân vân, lưỡng
lự, do dự, bất nhất, bất quyết, bất
định... luôn luôn chẳng biết đặt tâm ở đâu cảnh (Ông nói mạnh miệng vậy nhưng
ông như chiếc thuyền không bánh lái, vật vờ, lênh đênh không biết nương tựa vào
đâu; nghi ngờ đủ mọi thứ).
** 1- Tín:
Có niềm tin, có đức tịn, có điểm tựa tinh thần một cách vững chắc, an ổn. Có nó
mọi nghi ngờ tiêu sạch. Nó như một viên ngọc có khả năng lọc bụi bặm phiền não.
2- Niệm: Thường có chú tâm, ghi nhận những
cái gì đang xảy ra với mình, như một người canh cửa thân tâm một cách chăm
chuyên và cần mẫn nhất. Nó không làm trượt đi, rời sang chỗ khác hay trôi phăng
đi mà luôn luôn bắt dính đối tượng. 3- Tàm: Biết hổ thẹn với lương tâm mình khi lỡ làm một việc gì sái quấy
không xứng hợp với đạo làm người. 4- Quý: Biết sợ hãi miệng tiếng, danh giá,
nhân phẩm, dư luận, danh dự bản thân và gia đình khi làm việc gì đó không chính
đáng, xấu quấy. 5- Vô tham: Không
khởi lên tâm thèm muốn, tham lam những vật gì không phải của mình, dù là cây
kim, sợi chỉ - nói rộng ra là cả dục lạc ngũ trần. Tính chất của nó lại rộng
rãi, muốn chia sẻ giúp người, lại còn dễ dàng buông bỏ, không đeo níu, không bám
dính, thí xả. 6- Vô sân: Không khởi tâm nóng nảy, bứt
rứt, bức xúc, giận dữ, sân độc, oán thù, bạo tàn, hận thù. 7- Trung tánh: Luôn giữ trạng thái trung dung, vừa phải, chừng mực, cân
phân, trạm nhiên, không nghiêng bên này, không lệch bên kia như một đòn cân quân
bình tuyệt hảo. 8-9- Tâm sở thư thái, tâm
thư thái:
Các trạng thái phụ tùy của tâm (tâm sở) và tâm đều được làm cho buông
giãn, yên tĩnh, mọi căng thẳng, nóng nảy lắng dịu xuống. 10-11-
Tâm sở khinh an, tâm khinh an: Các trạng thái phụ tùy của tâm (tâm sở)
và tâm đều được nhẹ nhàng, khinh linh như cất được mọi sự nặng trệ xuống. 12-13-
Tâm sở nhu nhuyến, tâm nhu nhuyến: Các trạng thái phụ tùy của tâm (tâm
sở) và tâm không còn khô cứng, thô ráp mà đều được mềm mại, mềm dẻo dễ sử
dụng. 14-15- Tâm sở thích ứng, tâm thích ứng: Các trạng thái phụ tùy của tâm
(tâm sở) và tâm đều dễ dàng thích ứng, thích dụng với mọi hoàn cảnh. 16-17-
Tâm sơ tinh luyện, tâm tinh luyện: Các trạng thái phụ tùy của tâm (tâm
sở) và tâm không còn ươn yếu, biếng nhác mà đã được rèn luyện một cách thiện
xảo, tinh xảo. 18-19- Tâm sở chính trực, tâm chính trực: Các trạng thái phụ tùy của tâm
(tâm sở) và tâm không còn xiêng xẹo, quanh co, khuất khúc, lừa phỉnh, dối
trá, lươn lẹo, gian tà, tà vạy - mà đã ngay thẳng, quang minh chính đại. 20- Chánh ngữ: Là trạng thái tâm sở có tích cách kiêng cử, tiết chế,
điều tiết, ước thúc - tránh nói lời giả dối, đâm thọc, thô lỗ, cộc cằn, vô ích,
nhãm nhí, ác khẩu. 21- Chánh nghiệp:
Là trạng thái tâm sở có tính cách kiêng cử, tiết chế, điều tiết, ước thúc tránh
xa những hành động như sát sanh, trộm cắp và tà dâm. 22- Chánh mạng: Là trạng thái tâm sở có tính
cách kiêng cử, tiết chế, điều tiết, ước thúc tránh xa những nghề nghiệp nuôi
mạng không chơn chánh như buôn bán độc dược, rượu men, rượu nấu, các chất say,
buôn bán nô lệ và nghề giết thịt. 23- Bi: Là trạng thái tâm biết rung động,
biết thương xót, bi mẫn trước những cảnh huống bất hạnh của mọi người xung
quanh, muốn khởi tâm chia sớt, san sẻ, ủi an, cứu vớt bằng tinh thần hay vật
chất. Đây là đóa hoa thanh khiết sắc hương của nhân ái, nhân đức và thiện lương.
24- Hỷ:
Đây là trạng thái tâm mà thiện cảm đi đôi với hoan hỷ, vui vẻ trước sự thành
đạt, thành công, hạnh phúc hay an vui của người khác - nó loại trừ ganh ghét, đố
kỵ và tỵ hiềm. 25- Tuệ:
Nó thấu đạt thực tướng, thấy biết rốt ráo, thông suốt bản chất thật sự của sự
vật. Nó khắc phục, chế ngự đần độn, u mê, tối tăm, ngu si; nó chiếm địa vị ưu
thắng trong sự thấy biết như chân như thật nên tự nó, bởi nó mới có tuệ giác và
tuệ minh.
HỒI THỨ BẢY
(Hộp Minh Triết)
Ông quảng cáo rao hàng:
“ Nhưng
có một hộp rất đặc biệt và vô cùng hoàn hảo, màu (sic) nhiệm, có công năng giải
quyết mọi bế tắc của con người. Nếu chúng ta cho rằng có một Thương Đế quyền
năng, những vị Phật thông hiểu mọi chuyện, có sức mạnh vô hình và huyền bí có
thể sinh ra mọi thứ, nuôi dưỡng mọi thứ thì cái hộp này cũng giống hệt như vậy.
CÁI HỘP TRỐNG KHÔNG TRÀN ĐẦY NĂNG LỰC NHIỆM MÀU, MUỐN GÌ CÓ NẤY! TÔI GỌI HỘP NÀY
THEO NGÔN NGỮ RIÊNG LÀ: HỘP MINH TRIẾT! Thiền Minh Triết là thực hành một số
phương pháp để kích hoạt cái hộp nhiệm màu vô giá này”.
Chư vị Phật tử chơn chính nghe chưa? Cái Minh Triết của ông ta có “công năng
giải quyết mọi bế tắc của con người mà từ xưa đến nay chưa ai làm được; nó có
công năng như Thượng Đế, như Phật, thông hiểu mọi chuyện, có sức mạnh vô hình và
huyền bí có thể sinh ra mọi thứ, nuôi dưỡng mọi thứ!”
Sau khi đại ngôn lớn lối như vậy, ông cũng chưa mở cái hộp xem bên trong chứa
đựng lời vàng, tiếng ngọc, linh thiêng, huyền mật gì - ông lại nói mọi người:
“Cất ý
kiến riêng trong tủ!”
Rồi ông giảng như sau:
“Như quý
vị đều biết, con người khó mà chấp nhận từ bỏ ý kiến riêng hay đánh giá riêng
của mình, ngay cả đối với người mình thương yêu hay kính trọng nhất. Việc này
cũng sẽ ngầm ảnh hưởng đến việc thực hành Thiền hay thực hành thói quen tâm linh
cho mình”.
Chỗ này thì nhà Phật chính
tông chỉ gói ghém trong một từ “kiến thủ (diṭṭhupādāna)”, sau đó sinh ra
những hoạt dụng đồng dạng như “kiến thủ kiến, ngã kiến, kiến ngã kiến, ngã kiến thủ”. Do đức Phật
thấy rõ những kiến thủ nầy có được do từ chấp thủ bản ngã, do từ cái ngã mà sinh
ra - không có phương pháp nào loại trừ nó được - ngoại trừ tu tập minh sát để
thấy rõ sự vận hành vô tự tính, vô ngã tính của chúng.
Ông Duy Tuệ sử dụng
“tư duy ngã tính” nên thấy có người có quan điểm, có ý kiến riêng - nên cất
chúng vào hộp Minh Triết. Lập ngôn này của ông là
“một cái ngã, có ngã kiến, có ngã kiến thủ”; cất chúng vào hộp tức là vào
một “cái ngã”
khác nữa. Minh sát của Phật dạy rằng, thức, nhận thức, ý kiến, tư tưởng đều do
duyên khởi căn trần vô tự tính, vô ngã tính, vô thực tính - bản chất chúng, thực
tánh pháp của chúng là vô thường, vô ngã! Do tư duy ngã tính nên mọi lập thức,
lập tri, lập kiến, lập nghĩa của ông ta không bao giờ thoát ra khỏi sự bủa vây
của bản ngã. Thương xót thay ông “đạo sư” si mê, vô minh - không biết triệu kiếp sau ông ta có thoát
ra khỏi cái bản ngã do tự mình bủa lưới hay không?
Rồi ông tự dựng đứng câu chuyện:
“Ví dụ,
có hai vợ chồng thương yêu nhau nhưng hay cãi nhau nên cũng chẳng thấy gia đình
êm ấm tí nào. Sự việc cứ kéo dài năm này sang năm nọ. Hai vợ chồng cũng muốn tìm
cách chấm dứt cãi nhau nhưng thay vì cả hai bình tĩnh ngồi lại thảo luận tìm
hiểu tại sao mình hay cãi nhau, thì người vợ âm thầm đi coi bói. Người thầy bói
tử tế khuyên hai người nên tu hành để được hạnh phúc. Người vợ nghe vậy rồi
khuyên chồng nên đến chùa hỏi vị thầy bày cách tu hành. Người chồng không tin
các thầy chùa nên không đồng ý và cho rằng việc cãi nhau hằng ngày là do người
vợ hay nói nhiều và có nhiều ý kiến chê bai và chỉ trích người chồng. Người vợ
muốn chồng phải nghe lời mình, theo ý kiến của mình trong cách dạy con, trong
các quan hệ với bạn bè và sinh hoạt của chồng phải theo ý mình. Mặc cho chồng
không đồng ý, người vợ cứ đến chùa và được các vị thầy chỉ cho phương pháp niệm
chú “Ôm-Ma-Ni-Bát-Mê-Hồng”. Sáu chữ này là người tín đồ phật giáo Tây Tạng hay
đọc thầm trong miệng để mong kiếp sống sau tốt đẹp hơn. Các vị sư lại nói chú
này linh ứng lắm, cứ niệm thường xuyên thì người chồng sẽ thay đổi tính tình.
Người vợ nghe theo và cứ nói lẩm nhẩm trong miệng suốt ngày như vậy. Người chồng
càng tức giận và quát tháo người vợ là ngu xuẩn, cứ nói lẩm nhẩm suốt ngày giống
như bị tâm thần! Người vợ buồn quá nhưng tin tưởng mình là đúng, là người bắt
đầu tu hành, theo con đường đạo đức. Cô ta cho rằng, người chồng cự lự (sic) như
vậy tức là ông ấy không chấp nhận đạo đức rồi. Người vợ lại nghe lời ai đó nên
chạy sang tận Tây Tạng tìm gặp các nhà sư phật giáo Tây Tạng để luyện cách tụng
niệm cho linh nghiệm hơn. Cuối cùng, hai vợ chồng phải li dị vì người chồng
không chấp nhận cách ứng xử như vậy của người vợ và cho rằng người vợ nhẹ dạ,
ngu xuẩn, bị mấy ông thầy tu lừa!”
Những đoạn gạch đáy ở trên do ông Duy Tuệ mơ mơ màng màng về Mật tông nên đã vu
oan cho các thầy đó. Dĩ nhiên là có rất nhiều tà sư ác hạnh, bất chánh trên đời
này - có cả ông trong đó - nhưng không đến nổi nào họ lại nói một cách ngây ngô
như vậy. Tôi khuyên ông nên tìm chú Google với mấy từ “Om Maṇi Padme Hum”
(thật ra là Aum)
để hiểu gốc nguồn, hiểu cái dụng của nó kẻo người học thức họ cười chê, cả khinh
bỉ nữa. Những thầy tu kia lừa, còn ông thì đại tổ sư lừa bịp đó!
Chuyện kể thứ hai cũng
tương tự:
“Một ví dụ khác, tại Việt Nam, có một cặp vợ chồng rất nổi tiếng. Người vợ là
một người đẹp nhất một miền và là một nghệ sĩ tài ba, tiếng tăm oanh liệt một
thời. Người vợ theo đạo Phật. Còn người chồng là một nhà trí thức lớn, tốt
nghiệp đại học Harvard Hoa Kì hạng ưu và từng đóng nhiều vai trò quan trọng
trong guồng máy kinh tế Việt Nam qua hai thời kỳ. Người này theo đạo Ki tô giáo
La Mã. Vợ có bàn thờ Phật Thích Ca, còn chồng có nơi thờ Thánh Giá và Đức Jesu.
Người vợ nghĩ rằng chồng mình cực khổ lo lắng nhiều là do không chịu tin thờ
Phật. Còn người chồng thì luôn phàn nàn người vợ cứ rước mấy ông sư về nhà trò
chuyện, thỉnh thoảng lại qua Tây Tạng luyện tập niệm thần chú rồi về nhà lảm
nhảm tối ngày. Một hôm, người chồng than phiền với vợ rằng: “Nhà mình có ai chết
đâu mà em cứ mời sư về hoài vậy? Lại nữa, sao lúc này em hay gầm rú những âm
thanh nghe rùng rợn trong nhà vậy? Nếu em không nghe thì anh sẽ vứt bỏ bàn thờ
Phật của em đi.” Người chồng cho rằng Thiên Chúa là trên hết, người vợ nói Chúa
là không có thật, chỉ có Phật là có thật. Từ đó, vợ chồng luôn bất hòa, hạnh
phúc gia đình trên bờ vực tan vỡ”.
Ông Duy Tuệ lại chơi một
màn dựng đứng câu chuyện nữa. Tình huống có thể xảy ra như vậy chăng? Hai vợ
chồng đều là trí thức mà xử sự, nói năng như thế sao? Họa là thần kinh! Và ông
Duy Tuệ của chúng ta tưởng ai cũng ngu xuẩn tin theo câu chuyện “phịa” mà hư cấu vụng về, quá nhiều kẻ hở, chẳng logic chút nào!
Mệt. Tôi càng đọc càng mệt.
Thế gian sao lại phát sinh những hạng “đạo
sư” si mê như vậy kia chứ! Nói quanh nói quất nói qua nói lại, ví dụ trước,
ví dụ sau chỉ nằm nơi “ngã kiến thủ”
mà thôi.
Đoạn sau cũng vậy.
Đoạn sau cũng vậy nữa.
Thôi hãy nhẫn xả, nhẫn
xả...
Cuối cùng, mỗi người hãy
sắm một cái tủ để cất ý kiến.
“Tên tủ đề là: TỦ CẤT Ý KIẾN. Trong nhà có bao nhiêu người lớn thì có bấy nhiêu
ngăn cất ý kiến. Khi về đến nhà, dù bạn có là Tổng thống hay người ăn mày cũng
đều đưa tay lên cái đầu lấy mọi ý kiến bỏ vào tủ này. Như vậy, các thành viên
trong gia đình sẽ sống trong tình trạng trực giác mà không bị ý kiến chi phối,
làm mất hạnh phúc nữa. Ngoài ra, quý vị cũng nên có cái tủ đựng ý kiến dành cho
khách hay bạn đến nhà chơi để họ có chỗ cất ý kiến của họ.
Tại các Trung tâm Minh Triết mà thầy đang hướng dẫn thực hành Thiền và khai thị
để khai mở Minh Triết cũng nên có một cái tủ đựng ý kiến thật to, đặt giữa Trung
tâm cho mọi người dễ thấy. Tủ cũng có nhiều ngăn, đủ để cho quý vị và khách
dùng”.
Phương pháp của ông ở trên,
khách quan mà nói cũng có những ích dụng nhất định trên cuộc đời này. Ông đã có
cái đúng của ông - do nhờ ông học “lỏm” của Phật một chút xíu, học
“mót”
Krishnamurti thì nhiều hơn. Phật thì ông chỉ sờ ngoài da, bên trong còn thịt,
xương và tủy nữa ông ạ! Còn Krishnamurti, hơn nửa thế kỷ trước, vị đạo sư thầm
lặng ấy, đã từ bỏ hào quang danh vọng, địa vị giáo chủ Thông Thiên Học, lầm lũi,
cô đơn, đi giữa sa mạc tri kiến của cuộc đời, rao giảng tư tưởng “giải trừ kiến thức”, “giải thoát tri kiến”
và đã cứu độ cho biết bao nhiêu tri thức kiêu căng trên vòm trời Tây phương phải
hạ “cái ngã tri kiến” xuống bên chân ông!
Krishnamurti nói toàn diện,
toàn triệt hơn ông nhiều! Ông chưa xứng đáng là học trò xách dép của ông ta đâu!
Còn ngay chính Krishnamurti - thì ông ta nói cái gì trong
“giải trừ kiến thức và giải thoát tri kiến”, và cả trong suốt 50 năm đi
thuyết giảng ông biết không? Ông ta đã sử dụng tất thảy 37 trợ đạo phẩm của đức
Phật, tùy nghi phương tiện để nói bằng ngôn ngữ thời đại, bằng ngôn ngữ khái
niệm của Tây phương cho người Tây phương hiểu. Tôi biết, tôi nói ra mà không sợ
“tụt lưỡi”, là Krishnamurti tu Phật đã đắc quả
“Nhập Lưu”
rồi đó! Ông ta là một “học trò nhỏ”
của Phật. Còn ông là gì vậy? Đã là gì vậy? Mà lại mạo xưng
“đạo sư” Thiền Minh Triết? Thiền, ông không hiểu. Minh Triết, ông chưa hiểu
nghĩa ra làm sao! Học trò xách dép Krihnamurti chưa xứng đáng, trong lúc
Krihnamurti là học trò nhỏ của Phật - mà ông lại phỉ báng Phật, ông hơn cả Phật
vì con đường Minh Triết do ông tự tìm ra, chưa có ai trên đời khám phá ra được,
kể cả nhiều ngàn năm trước. Ông là một đức Chánh Đẳng Giác sao? Nhưng một vị
Chánh Đẳng Giác cũng chỉ “khiêm tốn”
tuyên bố: “Đây là con đường cũ xưa, chư vị Chánh Đẳng Giác đã đi qua - Như Lai
chỉ là người phát bụi lùm gai gốc, tìm lại được mà thôi!”
Tôi muốn chấm dứt ngang
đây. Vì những đoạn tiếp theo, kể về chú chó đáng yêu, trái sầu riêng, hoài nghi
cái đầu, đừng dán những nhãn hiệu (ông không thấy cái nhãn hiệu Thiền Minh
Triết trên trán của ông), đừng nghĩ mình là con người đạo đức (ông không biết dùng cụm từ bản ngã đạo
đức)... thì chỉ như là thừa giấy vẽ voi, để cho đệ tử của ông đọc thôi, trí
thức đọc sẽ cảm thấy nhàm, lãng xẹt!
Đối với một kẻ ngu si mà tôi đã bỏ mất cả tuần
lễ để viết bài này, vậy là đã quá nhiều. Chưa chắc ai đã cứu độ được ai. Giữa
cuộc đời mạt pháp, tâm con người đi lên thì như sừng bò, tâm chúng sanh đi xuống
thì như lông bò. Tôi đã hy vong một cách vô ích. Tôi đã mơ màng những ngu si,
cao ngạo sẽ được cải hóa. Không dễ đâu. Địa vị, danh dự, bản ngã, bạc tiền,
tiếng khen, quyền lực là những vòng hoa nguyệt quế dụ dỗ, cám dỗ con người.
Những vòng hoa ấy, một là tỏa lửa nóng cho những con thiêu thân lao vào. Hai là
nó tỏa hào quang sáng ngời ngời, chóa mắt, loạn mắt, mờ mắt không còn thấy gì
nữa cả. Ba là nó trở thành cái móc sắt, đai sắt kẹp vào cần cổ, kẹp vào sinh
mệnh con người không có đường thoát. Si mê thì không thoát được. Kẻ trí mới
thoát được. Nhưng kẻ trí thì như hạt chu sa giữa sa mạc! Sao ông lại cả gan treo
cao nhãn hiệu nhân danh Trúc Lâm sơ tổ mà lập câu lạc bộ Thiền, hội Thiền Minh
Triết Trần Nhân Tông nhiều nước trên thế giới, trong lúc ông chưa hiểu Thiền là
gì, Minh Triết là gì, cả không hiểu Thiền Trúc Lâm nữa? Không biết ông có nghe
vọng âm thượng thừa của bài kệ “hữu cú, vô
cú” của Hương Vân đầu-đà chăng:
“Câu
có câu không. Dây khô cây ngả. Mấy gã thầy
tăng. Dập đầu trán vỡ... Câu có câu không. Lập chỉ lập tông. Xoi rùa đập ngói.
Leo núi lội sông...”.
Và đó là sự “lầm lẫn mệt mài” của
“đạo sư” Duy Tuệ đó.
Để kết luận, tôi xin nói
lời xin lỗi, xin lỗi Duy Tuệ nhé! Tôi biết ông mến quen tôi, từng tặng phong lan
và cả cây bồ-đề quý cho chùa Huyền Không thuở ông còn là một thiện nam hiền
thiện - mặc dù ông không phải là đệ tử của tôi! Rồi cách đây chừng mươi năm, ông
ghé qua Thái Lan, tâm sự với đệ tử của tôi đang du học tại đó, là ông sẽ xuống
tóc xuất gia gieo duyên tại Bồ Đề Đạo Tràng! Ngờ đâu!... Mà thôi, ông cũng là
người học thức, chỉ vì lợi danh nhất thời mà lầm lỗi đó thôi, hãy “quay đầu là bờ”
đi nhé! Còn kịp đó. Sám hối không bao giờ muộn đâu. Ông chỉ mới trang bị cho
mình một chút ít giáo pháp, chưa đủ để lên đường, chưa đủ để tự bảo vệ mình đâu.
Ông đã dại dột khi tự cho mình hơn cả chư Chánh Đẳng Giác khi ông bảo “Bát chánh đạo” của đức Phật mấy ngàn năm
nay không giải quyết được gì! Ông có biết lời tuyên bố thiếu thận trọng của ông
đã làm cho không biết bao nhiêu Tăng Ni và Phật tử trên khắp thế giới buồn lòng
lắm không?
Thường thì mỗi khi dạy cho
đệ tử tôi mới phân tích tận tình, cặn kẽ từng chi tiết một như trong bài viết
này - nhưng đối với ông, là chỗ quen biết - thì đây cũng là một biệt lệ! Xin ông
hiểu cho như thế.
Bây giờ hãy “can đảm” đọc cái bài thơ luật Đường này
đi, tôi đặc tả chân dung của ai? Là cái
“bản lai diện mục” đang bị lấm lem bụi bặm hiện nay của ông đó:
“ Có tên ma giáo, xót thương ôi!
Minh Triết bán rao, thật nực cười!
Lập thuyết so bằng ngao, hến vậy!
Xiển ngôn sánh tựa ốc, sò thôi!
Nhiệm mầu rỗng hộp, óc tê thuốc!
Linh
diệu bít đầu, não vữa vôi!
‘Duy Tuệ’ thó danh mà ‘Thị Nghiệp!’
Bảng vàng lòe bịp chiếm nguyên khôi!”
Hy vọng mươi năm sau, tôi
lại vịnh chân dung ông nữa, nhưng mà sáng rỡ hơn, mỹ học hơn, thánh thiện hơn!
Cứ
“buông cái ngã” là xong hết, Duy Tuệ
thân mến!
Huyền
Không Sơn Thượng,
Thu
sương trắng, tháng 9/2012
Minh Đức Triều Tâm Ảnh