Trong
Phật giáo, trước hết, Pháp (Dhamma/Dharma) là chỉ cho giáo pháp của đức
Phật (Buddha Dhamma), hay những lời dạy của đức Phật (Buddhavacana).
Thuật ngữ Pháp cũng được kết hợp với thuật ngữ Vinaya (luật), và hình thành nên
cụm từ Pháp-Luật (Dhamma-Vinaya), chỉ cho giáo pháp và những giới luật
được đức Phật thuyết giảng và chế định cho những đệ tử của Ngài thực hành theo.
Nhưng
khái niệm Pháp trong Phật giáo không chỉ giới hạn nơi phạm vi
ấy, mà còn có những hàm nghĩa rộng hơn, ngay ở nơi Phật giáo thời kỳ đầu.
Trong kinh Thánh Cầu (Ariyapariyesanasuttam, Trung Bộ), Pháp được xem như
định luật Duyên khởi.
Một đoạn trong kinh Thánh Cầu viết: “Pháp này do Ta chứng được, thật là sâu
kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, cao thượng, siêu lý luận, vi diệu, chỉ
người trí mới hiểu thấu. Còn quần chúng này thì ưa ái dục, khoái ái dục, ham
thích ái dục. Đối với quần chúng ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục, thật
khó mà thấy được định lý Idapaccāyata Paticcasamuppada (Y Tánh Duyên Khởi Pháp);
sự kiện này thật khó thấy; tức là sự tịnh chỉ tất cả hành, sự trừ bỏ tất cả sanh
y, ái diệt, ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn.” (HT. Minh Châu dịch).
Y cứ
theo đoạn kinh này, việc chứng ngộ của đức Phật là chứng ngộ “định lý Y tánh
duyên khởi pháp”; và Pháp trong ngữ cảnh này là chỉ cho một “định lý”, hay một
luật tự nhiên. Bài kinh này cũng nhắc đến sự kiện Phạm thiên Sahampati thỉnh cầu
đức Phật thuyết Pháp, và sau đó đức Phật đã đến Sarnath để thuyết bài kinh đầu
tiên với tên gọi Chuyển Pháp Luân (Dharmacakrapravartana-sutta) cho năm
anh em tôn giả Kiều Trần Như. Kinh Chuyển Pháp Luân nói về Tứ Diệu Đế. Pháp
trong kinh Chuyển Pháp Luân, ở một gốc độ, được xem như các chân lý (satya),
đó là sự thật về khổ, nguyên nhân của khổ, sự chấm dứt khổ và con đường đưa đến
chấm dứt khổ. Pháp trong bài kinh này cũng là sự hiểu rõ về lý
Duyên khởi, và rộng hơn là bao gồm ý nghĩa Giới-Định-Tuệ.
Trong
Nikaya, ta gặp những đoạn kinh nói rằng, người nào thấy được Pháp, người ấy sẽ
thấy được Phật, và người nào thấy Phật, người ấy sẽ thấy Pháp. Chẳng hạn một đoạn trong kinh Đại Niết Bàn (Trường Bộ) viết:
“Ai thấy pháp người ấy thấy Phật, ai thấy Phật người ấy thấy pháp.” Và ở nơi
khác, trong kinh Vakkali (Tương Ưng), chúng ta cũng gặp một đoạn tương tự:
“Này Vakkali, những ai thấy Pháp, người ấy thấy ta.”
Hẳn nhiên, “thấy pháp” được đặt trong ngữ cảnh của kinh Đại Niết Bàn có nghĩa là
hiểu rõ lời dạy của đức Phật; và ai hiểu rõ và thực hành theo
đúng giáo pháp của đức Phật, là người ấy thấy được Phật.
Tuy
nhiên những đệ tử của đức Phật đã không có cùng cách nghĩ ấy.
Bởi vì Pháp, ngay ở trong các kinh Nikaya, đã được hiểu như một nguyên lý vũ
trụ, luật duyên khởi, và vì vậy những người về sau đã hiểu câu kinh này
theo
những cách khác nhau. Và có thể đây là cơ sở cho học thuyết
Tam thân Phật (trikāya)
hình thành về sau.
Bởi vì
Pháp đã được đồng nhất với Phật, mà Pháp ngay từ ban đầu không chỉ được hiểu là
giáo Pháp của đức Phật, mà còn chỉ cho định luật duyên khởi, và có thể được xem
như là “thực tính” của các pháp, đức Phật đã dần được đồng nhất với Thực tại.
Và rồi Ngài không chỉ có sắc thân (rūpakayā), mà còn có pháp thân
(dharmakayā). Hẳn nhiên học thuyết Tam thân Phật
không chỉ dựa trên câu kinh duy nhất này, mà còn có sự ảnh hưởng bởi những yếu
tố khác. Ví dụ đoạn kinh sau cũng được cho là cơ sở trên đó học thuyết
Tam thân Phật được xây dựng: “Này các Tỷ-kheo, có sự không sanh, không hiện
hữu, không bị làm, không hữu vi, này các Tỷ-kheo, nếu không có cái không sanh,
không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi, thì ở đây không thể trình bày sự
xuất ly khỏi sanh, hiện hữu, bị làm, hữu vi. Vì rằng, này các Tỷ-kheo, có cái
không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi, nên có trình bày sự xuất
ly khỏi sanh, hiện hữu, bị làm, hữu vi.” Tuy nhiên, cũng
có khả năng học thuyết Tam thân Phật phát xuất từ niềm tin rằng đức Phật là đấng
tự sinh (upapāduka) trong Đại chúng bộ (Mahāsāṅghika). Vì bài viết này tập trung vào tìm hiểu khái niệm Pháp, nên tôi không
đi sâu vào trình bày học thuyết Tam thân Phật ở đây.
Ở một
nơi khác, Pháp mang hàm nghĩa bản thể thực tại, được xem là một từ đồng nghĩa
với “Như Lai”.
Nhưng Như Lai ở đây không còn là một danh xưng khác của đức Phật, mà đã “đồng
nghĩa” với “Pháp thân, Phạm thân, Pháp thể, Phạm thể”. Một đoạn trong kinh Khởi
Thế Nhân Bổn (Agganna Sutta - Trường Bộ) viết: “Này Vāsettha, các
ngươi, sanh sai biệt, danh sai biệt, tánh sai biệt, gia hệ sai biệt, đã xuất gia
từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Nếu có ai hỏi: ‘Các vị là ai?’,
các ngươi cần trả lời: ‘Chúng tôi là Sa môn, dưới sự lãnh đạo của Thích ca tử.’
Này Vāsettha, ai có lòng tin Như Lai, lòng tin ấy được an trí, có căn đế, an trú
và chắc chắn, một lòng tin không bị lôi kéo bởi Sa môn, Bà-la-môn, chư Thiên, Ma
vương, Phạm thiên hay một vị nào ở trên đời, vị ấy có thể nói: ‘Ta là con chính
tông của Thế Tôn, sanh ra từ miệng, do Pháp sanh, do Pháp tạo ra, là con cháu
thừa tự của Pháp.’ Vì sao vậy? Này Vāsettha, vì là
những chữ đồng nghĩa với Như Lai là Pháp thân, là Phạm thân, là Pháp thể, là
Phạm thể.” (HT. Minh Châu dịch).
Trong
Nikaya, Pháp cũng chỉ cho các đối tượng của tâm (ý). Nhãn, nhỉ, tỷ, thiệt, thân
và ý là sáu quan năng nhận thức, và sáu đối tượng của chúng là sắc, thân, hương,
vị, xúc và pháp. Pháp ở đây chỉ cho các khái niệm hay quan niệm, tư tưởng…
Pháp trong Nikaya cũng chỉ cho hiện tượng giới. Ví dụ, kinh Pháp Cú ghi:
“Ý dẫn đầu các pháp…” Pháp cũng có nghĩa là những việc làm, lời nói, thái độ,
hành xử, trạng thái tâm.… Ví dụ trong kinh có những thuật ngữ
như kusala dhamma (thiện pháp) và akusala dhamma (bất thiện pháp). Và từ
điển Pali (Margaret Cone) định nghĩa kusala dhamma là hành động hay việc thực
hành đúng đắn, hạnh kiểm tốt, phẩm hạnh, những yếu tố tạo nên hạnh phúc… Và akusala dhamma là những điều ngược lại.
Pháp
cũng còn có nghĩa là sự chính trực hay đúng đắn, mang ý nghĩa đạo đức. Ví dụ, trong Nikaya, ta thấy có thuật ngữ Dhammarājā (pháp vương),
chỉ cho một vị vua anh minh. Dhammarājā là một từ đồng
nghĩa với Cakravartī-rāja, Chuyển luân vương. Một vị Chuyển luân vương là
một người cai
trị đúng pháp, tức cai trị vương quốc có đạo đức và có lý trí, thực hiện đúng
trách nhiệm và bổn phận của mình…
Pháp
trong A-tỳ-đạt-ma (Abhidhamma)
A-tỳ-đạt-ma là tạng thứ ba trong Tam tạng (Tipitaka).
Những người theo phái Đại Tỳ-bà-sa-luận (Vaibhāṣikā) cho
rằng A-tỳ-đạt-ma do chính đức Phật thuyết giảng. Ngài
Buddhaghosa (Phật Âm) trong Maha-atthakatha cũng cho rằng chính đức Phật đã
thuyết A-tỳ-đạt-ma cho thân mẫu của Ngài tại cung trời Đao Lợi. Và nói
chung, hầu hết những người theo Phật giáo Theravāda tin rằng các bộ A-tỳ-đạt-ma
là do chính đức Phật thuyết giảng, ngoại trừ Katthavatthu do Moggaliputta Tissa
biên soạn về sau. Nhưng những người theo Kinh Lượng Bộ (Sautrāntika)
thì không chấp nhận quan điểm này, cho rằng các A-tỳ-đạt-ma không phải do đức
Phật thuyết, mà do những đệ tử của Ngài trước tác về sau.
A-tỳ-đạt-ma thường được dịch nghĩa là “thắng pháp” (abhi = cao hơn; dhamma =
pháp), chỉ cho giáo pháp đưa hành giả đến một trí tuệ cao hơn. A-tỳ-đạt-ma cũng
được dịch là “đối pháp” (abhi = liên quan đến; dhamma = pháp), liên quan đến
giáo pháp; cũng được dịch là “vô tỉ pháp”, pháp không gì có thể so sánh… Hiện ta
có các A-tỳ-đạt-ma của những bộ phái Phật giáo khác nhau, như A-tỳ-đạt-ma của
Thượng Toạ bộ (Theravāda) và A-tỳ-đạt-ma của Nhất Thiết Hữu bộ
(Sarvāstivāda).
A-tỳ-đạt-ma có thể được xem là một sự hệ thống các giáo thuyết đã được trình bày
trong kinh tạng, nỗ lực sử dụng những giáo thuyết trong các bản kinh để tạo nên
một diễn tả có hệ thống về tất cả các hiện tượng. Trong Nikaya, chúng ta thấy con người và thế giới được phân vào
trong năm uẩn (skandha),
12 xứ (āyatana) và 18 giới (dhātu). Năm uẩn là năm yếu tố cấu
thành nên một con người, gồm sắc, thọ, tưởng, hành và thức. 12 xứ gồm mắt, tai
mủi, lưỡi, thân và ý và 6 đối tượng nhận thức của chúng là sắc, thanh, hương,
vị, xúc và những đối tượng tâm thức. Và 18 giới bao gồm 6 giác
quan tiếp xúc với sáu đối tượng nhận thức và sáu thức có được từ sự xúc tiếp
này. Tuy nhiên kinh tạng đã không sắp xếp các phạm trù này một cách có hệ
thống, mà chính A-tỳ-đạt-ma đã thực hiện công việc này qua sự phân pháp.
Pháp (P.
Dhamma, S. Dharma) là thuật ngữ quan trọng nhất trong A-tỳ-đạt-ma. Thuật ngữ này này được dịch như
là “trạng thái”, “hiện tượng” hay “yếu tố cơ bản”…
Sự Phân
Pháp trong A-tỳ-đạt-ma của Theravāda
Học
thuyết Pháp của Theravāda chính yếu được trình bày trong Dhammasaṅgaṇi (Pháp tập luận) và Dhātukathā (Giới thuyết luận). Dhammasaṅgaṇi phân các pháp vào trong các
nhóm thiện (kusala), bất thiện (akusala)
và trung tính (avyākata). Những pháp trung tính lại được phân
thành bốn nhóm: tâm quả (vipākacitta), tâm vô ký (kriyācitta), sắc
(rūpa), và niết-bàn (nirvana).
Sự phân
loại Pháp của Theravāda về sau được trình bày có hệ thống hơn trong
Abhidhammāvatarā (Nhập A-ti-đạt-ma luận) của Buddhadatta. Pháp ở
đây bao gồm 170 yếu tố và được phân làm bốn nhóm: sắc, tâm, tâm sở và niết-bàn.
Buddhaghosa định nghĩa pháp là thứ mà nó có thể duy trì bản chất riêng, trong
khi Buddhadatta thì cho rằng pháp có những đặc tính chung
và riêng. Định nghĩa của Buddhaghosa tương đồng với định nghĩa Pháp là: “nhậm
trì tự tánh, quỉ sanh vật giải.” (bất
cứ thứ gì mà nó có thể giữ được hình dạng và tính chất riêng của nó, để khi nhìn
vào ta phân biệt được với vật khác, thì gọi là pháp).
Sự Phân
Pháp trong A-tỳ-đạt-ma của Nhất Thiết Hữu Bộ
Nhất
Thiết Hữu là bộ phái phân chia pháp một cách có hệ thống. A-tỳ-đạt-ma của Nhất
Thiết Hữu Bộ chia pháp thành 75 yếu tố. Và 75 pháp này được chia thành
năm nhóm: sắc (rūpa) có 11; tâm (citta) có 1; tâm sở (caitta)
có 46; tâm bất tương ưng hành (cittaviprayukta)
có 14; và pháp không có điều kiện (asaṃkṛta) gồm có
3.
Trong
khi một mặt Nhất Thiết Hữu bộ phủ nhận một tự ngã thường hằng, thì mặt khác tông
phái này lại cho rằng các pháp là thật có. 75 pháp
là những yếu tố có thực hiện hữu qua các thời quá khứ, hiện tại và tương lai:
“tam thế thực hữu, pháp thể hằng hữu.”
Sự Phân
Pháp của Duy Thức Tông (Yogācāra)
Duy Thức
Tông chia pháp thành 100 yếu tố, và gộp vào trong năm nhóm:
Tâm pháp
(citta) có 8
Tâm sở
hữu pháp (caita) có 51
Sắc pháp
(rūpa) có 11
Tâm bất
tương ưng hành pháp (citta-viprayukta-saṃskāras) có 24
Vô vi pháp (asaṃskṛta) có 6
Duy thức
tông cho rằng tất cả các pháp là không thật, chỉ là một sự phóng chiếu của thức. Nhưng Duy Thức tông lại thừa nhận thức là thật có.
A-lại-da thức trong Duy Thức tông đã trở thành một thực tính, và các pháp hiện
tượng hiện khởi ở trên thực tính này. Khi năm thức đầu (nhãn, nhĩ, tỉ,
thiệt và thân thức) biến thành Thành sở tác trí, ý thức thành Diệu quan sát trí,
Mạt-na thức thành Bình đẳng tánh trí và A-lại-da thức thành Ðại viên cảnh trí,
hành giả sẽ đạt đến Niết-bàn. A-lại-da thức đã tiến đến gần
với một tự ngã, cho dù Duy Thức tông từ chối một cái ngã thường hằng, bất biến.
Quan
điểm của Trung Quán Tông (Mādhyamika) về Pháp
Trung
Quán xem tất cả các pháp không có thực tính, tức tất cả các pháp đều không tính
ở trong bản chất, bởi vì các pháp đều đều do duyên sanh và tương thuộc:
“Nhân
duyên sở sanh pháp
Ngã
thuyết tức thị không
Diệc
danh vi giả danh
Diệc
danh trung đạo nghĩa.”
(Các
pháp do duyên sanh
Ta nói
tức là không
Cũng gọi
là giả danh
Cũng gọi
nghĩa Trung đạo).
Trung
Quán tông bác bỏ quan điểm của Nhất Thiết Hữu bộ cho rằng tất cả các pháp đều
thực hữu. Trung Quán cũng không chấp nhận quan điểm của
Duy Thức tông - xem thức như là một thực thể tồn tại phía sau thế giới hiện
tượng.
Các pháp
hiện tượng, như kinh Kim Cang nói, đều như mộng huyễn, như sương, như ánh chớp
(Nhất thiết hữu vi
pháp/Như mộng huyễn bào ảnh/ Như Lộ diệc như điển/ Ưng tác như thị quán).
Thích
Nguyên Hiệp