Tác giả:
Kim Yến
Tốt nghiệp
kỹ sư ngành hoá dầu đại học Bách khoa Hà Nội năm 1999, tốt nghiệp thạc sĩ ngành
công nghệ hoá học đại học quốc gia Chonbuk (Hàn Quốc) năm 2002, tốt nghiệp tiến
sĩ ngành vật lý kỹ thuật đại học Công nghệ Vienna (Áo) 2006, từng làm việc tại
đại học Liverpool (Anh) và nay là đại học Quốc gia Singapore (NUS)... nhưng TS
Giáp Văn Dương vẫn không xem mình là một trí thức thành đạt, mà chỉ như một cây
lúa đến kỳ thì trổ đòng.
Theo anh, vì sao hiện tượng đạo
văn, giả dối và gian lận đang hoành hành khắp các lĩnh vực? Làm thế nào để có
thể xây dựng một môi trường lành mạnh trong truyền thông khoa học, văn hoá khoa
học, và công bố khoa học?
Người xưa nói "thượng bất chính,
hạ tắc loạn". Ngay cả nơi được coi là nghiêm chính nhất như môi trường khoa học,
hiện tượng này phổ biến đến mức người ngoài giới cũng nhận ra để kêu ca. Do đó,
ắt hẳn phải có một nguyên nhân chung. Đó có thể là gì khác ngoài sự chính trực,
ngay thẳng, minh bạch trong môi trường khoa học đang thiếu hụt và bị chèn ép.
Vậy để xây dựng một môi trường
khoa học lành mạnh, cần đảm bảo trước hết sự minh bạch rõ ràng, theo đúng những
tiêu chuẩn của khoa học. Tức là phải dùng chính những quy tắc của khoa học, như
minh bạch, khách quan, độc lập, có thể kiểm chứng và lặp lại được, để xây dựng
một môi trường khoa học lành mạnh và nghiêm chính.
Vì sao những giá trị phổ quát một
thời từng là chỗ dựa vững chắc cho văn hoá dân tộc nay lại bị thử thách dữ dội
bởi cơn lốc hội nhập? Có một sự đứt gãy nào đó giữa các thế hệ đang kéo xa mỗi
người ra khỏi những ràng buộc của nhân văn, của luân thường đạo lý?
Hội nhập không phải là nguyên nhân,
mà sự thiếu minh bạch trong mọi khâu mọi việc mới là nguyên nhân chính. Bằng
chứng là ở những nơi hội nhập rất sâu thì những giá trị phổ quát này lại được
gìn giữ như bảo bối, còn những nơi bế quan toả cảng thì các nguỵ giá trị lại
được dịp lên ngôi.
Còn đối với cá nhân, từ khi con
người chuyển từ săn bắt hái lượm sang trồng trọt, và sau đó là vào sống trong đô
thị, thì với tư cách là một phần tử của xã hội, đã mất đi rất nhiều khả năng tự
quyết và tầm mức ảnh hưởng của mình trong các vận động xã hội lớn, như hội nhập
hay toàn cầu hoá chẳng hạn. Cả xã hội như một hệ thống rùng rùng vận động, còn
mỗi cá nhân chỉ là một phần tử nhỏ, bị làm nhoà đi. Trong trường hợp này, sức
mạnh của một hệ thống và khả năng hội nhập của nó sẽ phụ thuộc phần nhiều vào
chính cơ chế vận hành chứ không phải các phần tử riêng rẽ. Do đó, tôi nghĩ lực
cản chính đến từ sự lạc hậu hoặc không tương thích của cơ chế vận hành xã hội
trước hội nhập, mà mỗi cá nhân chỉ là một phần tử yếu ớt trong hệ thống này. Khi
đưa một cá nhân riêng rẽ từ môi trường này sang môi trường khác, dù khác biệt
nhiều đến bao nhiêu đi chăng nữa, thì thực tế cho thấy họ vẫn hội nhập được sau
một thời gian. Lý do là dù ở đâu thì khả năng sinh học và nhu cầu cơ bản của con
người cũng tương đối giống nhau. Còn với xã hội thì khác, để hội nhập cần rất
nhiều thời gian, và không phải lúc nào cũng thành công. Do đó, đổ lỗi cho cá
nhân là lực cản hội nhập mà không nói đến sức cản từ cơ chế vận hành của xã hội
là một sự đánh tráo.
Không có sự đứt gãy giữa các thế
hệ, mà chỉ có sự đứt gãy giữa các thang giá trị. Vì nhiều lý do, các thế hệ đã
được nuôi dưỡng trong các thang giá trị khác nhau, và sự thiếu minh bạch, thiếu
tự do thảo luận đã làm cho các thang giá trị bị nhầm lẫn, gây ra cảm giác có một
sự đứt gãy giữa các thế hệ.
|
Chân
dung hội họa: Hoàng Tường
|
Bàng bạc trong các
bài viết của anh là sự băn khoăn, day dứt về vai trò của người trí thức. Vì sao
trí thức thời nay còn yếm thế, chưa trở thành một lực lượng có thể làm thay đổi
xã hội? Những ưu tư của anh về "trí thức cận thần", "đất nước cận thần"?
So với thời săn bắt hái lượm và
buổi đầu của văn minh nông nghiệp, con người trong xã hội hiện đại hoàn toàn bị
tập thể chèn ép, đôi khi đến chết ngạt bởi sự áp đặt của hệ thống lên mỗi cá
nhân. Trong số đó, trí thức bị chèn ép nhiều nhất, vì là người có khả năng nhất
trong việc nhìn ra những yếu kém của hệ thống. Rất may là trong cuộc đối đầu
không cân sức này, mỗi cá nhân, và hẹp hơn là người trí thức, có những vũ khí mà
hệ thống không thể tước đoạt được, đó là tự do nội tại và những giá trị phổ quát
như chân - thiện - mỹ.
Xã hội càng loạn lạc thì sự tự do
và những giá trị phổ quát này càng cần được bảo vệ, vì chính là chúng chứ không
gì khác, sẽ đưa xã hội trở lại trạng thái ổn định, lành mạnh mà các cá nhân đều
mong đợi.
Theo cách hiểu đó, vai trò của trí
thức chính là nuôi dưỡng và bảo vệ tự do và những giá trị phổ quát này, và sau
đó là sử dụng chúng như những trung giới của quá trình đấu tranh biện chứng nhằm
thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Sức mạnh cá nhân đã bị giảm thiểu
rất nhiều trong xã hội hiện đại, người trí thức cũng không ngoại lệ. Và còn một
lý do khác, ngoài tự do nội tại và những giá trị phổ quát thì người trí thức
không còn gì khác. Trong cuộc đối đầu với các lực lượng vật chất, người trí thức
trắng tay. Tình thế càng trở nên cam go khi người trí thức bỏ quên, thậm chí dè
bỉu, vũ khí duy nhất của mình là tự do nội tại và những giá trị phổ quát, để hùa
với những giá trị ảo mà hệ thống đang nuôi dưỡng, tất nhiên cũng mang danh những
giá trị phổ quát như một sự đối chọi. Đó chính là lý do vì sao trí thức chưa trở
thành lực lượng làm thay đổi xã hội.
"Trí thức cận thần", có thể nói
ngắn gọn là trí thức đã buông vũ khí, tức là buông tự do và buông những giá trị
phổ quát, tức là buông bỏ đặc trưng của mình để hùa theo cường quyền vì lợi ích
cá nhân. Ở mức độ cao hơn, "đất nước cận thần" cũng có thể được hiểu tương tự,
là khi người lãnh đạo đất nước buông bỏ tự do, buông bỏ những giá trị phổ quát
đã được thế giới công nhận và buông bỏ bản sắc dân tộc để hùa theo những lực
lượng bên ngoài nhằm trục lợi cá nhân, tất nhiên là sau khi đã hợp pháp hoá về
mặt hình thức.
Nghiên cứu kỹ về văn hoá đại
dương, anh có thể cho biết chúng ta phải thay đổi gốc rễ từ ý thức hệ lạc hậu
như thế nào, để vượt qua những giới hạn do chính mình đặt ra? Theo anh, vì sao
chúng ta có quá ít những nhà nghiên cứu văn hoá đại dương?
Chúng ta có quá ít các nhà nghiên
cứu về đại dương, trước hết là vì văn hoá của chúng ta quay lưng lại với đại
dương. Sau đó là việc nghiên cứu về đại dương chưa được sự hỗ trợ của Nhà nước
một cách đúng mức, và trong nhiều trường hợp còn bị hạn chế vì "nhạy cảm".
Do ảnh hưởng của văn hoá lục địa
Trung Quốc, và do những hạn chế về tiềm lực kinh tế - kỹ nghệ, nên dù ở cạnh
biển, chúng ta không vươn ra để chinh phục biển lớn. Được đặt ở thế đối diện với
biển, nhưng chúng ta lại tìm cách bám chặt đất và quay lưng ra biển. Điều này
còn biểu hiện ở những lát cắt khác như là việc bám chặt một ý thức hệ cũ và từ
chối hội nhập trong suốt một khoảng thời gian dài.
Làm thế nào để vươn ra biển lớn,
để trở thành cường quốc biển? Trước hết phải vươn ra biển lớn ngay trong suy
nghĩ, đầu óc của mình. Nếu đầu óc mình, tư duy mình cứ khư khư ôm lấy những giá
trị lỗi thời, thì đôi chân làm sao sải dài, vươn xa được. Vì thế phải biết buông
bỏ những rào cản để hội nhập, để có cơ hội trở thành cường quốc, chứ không ôm
lấy rào cản dù có cảm giác an toàn.
Sau khi trở thành cường quốc biển
ở trong đầu óc của mình rồi, thì việc vươn ra biển lớn, trở thành cường quốc
biển chỉ là hệ quả tất yếu.
Điều thú vị có thể nhìn thấy là
chính quá trình buông bỏ để vươn lên này giúp định hình bản sắc dân tộc, vì khi
đó trường ảnh hưởng của văn hoá phương Bắc trong suốt hàng ngàn năm sẽ suy yếu
và bị thay thế bởi những giá trị mới do chính bàn tay, khối óc của mình nhào nặn
nên.
Tự nhận mình "như một cây lúa",
bước ngoặt nào giúp anh hoà nhập một cách tự tin vào môi trường khoa học thế
giới?
Tôi từng ví mình như cây lúa, theo
nghĩa đến kỳ thì làm đòng, trổ bông chứ không được lên kế hoạch trước là phải
trở thành người như thế nào trong tương lai.
"Bước nhảy lớn nhất" mà tôi trải
qua có lẽ là buông bỏ rất nhiều ràng buộc và định kiến để bước vào tự do nội tại
của cá nhân, ý thức được sự hiện hữu của những giá trị phổ quát như là biểu hiện
của sự tự do này ra thế giới bên ngoài. Mọi việc sau đó xảy đến rất tự nhiên.
Cũng lại như cây lúa, đến kỳ thì làm đòng, trổ bông, chứ không có gì cưỡng ép
hết.
Sự hoà nhập của một cá nhân bình
thường vào những môi trường mới không phải là điều khó khăn, nếu cá nhân đó biết
tôn trọng mình và tôn trọng người khác.
Sự gặp gỡ giữa toán học, vật lý,
triết học mang lại cho anh cảm quan như thế nào về con đường trước mặt? Có bao
giờ anh gặp phải những thất bại trong sự nghiệp, cuộc sống?
Tôi nhận thấy có một sự thống nhất
lạ kỳ giữa toán học, vật lý và triết học. Điều này cũng giống như tôi tin vào sự
thống nhất về bản chất của bộ ba chân - thiện - mỹ, rằng chúng chỉ là những hiện
hữu khác nhau của một tồn tại duy nhất.
Điều này tác động mạnh đến tôi với
việc cảm nhận về con đường phía trước, rằng đó là con đường có ý nghĩa.
Thất bại trong cuộc sống thì bao
giờ cũng có, ai cũng gặp qua, không ở dạng này thì dạng khác. Nhưng thực ra thất
bại không kinh khủng như người ta nghĩ. Ngay cả cái chết, chưa hẳn đã là một
thất bại. Khi đã biết được điều đó thì không còn lo sợ nữa. Và vượt qua hay
không, khi đó chỉ còn là tương đối.
Vấn đề lớn nhất mà một trí thức
trẻ thành đạt như anh phải đối diện và vẫn chưa tìm ra lời giải?
Tôi không dám nhận là một trí thức
thành đạt. Tôi thích là một người bình thường, sống với tự do của mình, hướng
đến những giá trị mình trân trọng. Vấn đề lớn nhất mà một người phải đối diện,
không hẳn chỉ với mình tôi, đó là giữ được tự do và phẩm giá của mình trước sự
chèn ép đến nghẹt thở của xã hội hiện đại.
Điều gì khiến anh buồn nhất khi
nghĩ về giới trí thức trẻ hôm nay?
Tôi không buồn. Tôi tin ở họ, dù
đang có những chao đảo về giá trị, nhưng tôi vẫn tin họ như tin bản thân tôi vậy.
Theo Sài Gòn tiếp thị