Tác giả:
Trần Thị Trường
Phải chăng ngày nay tình trạng thiếu vắng người
tài, hay người tài chưa xuất hiện, còn bị che khuất là một trong những lý do
khiến cho rất nhiều "thảm họa" xảy ra, từ lai căng, nhái nhép, copy sống sượng
đến bát nháo, lộn xộn trên nhiều lĩnh vực của văn hóa đang lũng đoạn cuộc sống
hàng ngày?
Chưa khi nào như từ ngày đất nước một lần nữa đổi
mới và mở cửa ra thế giới hiện đại, chủ điểm bản sắc văn hóa của dân tộc lại
không ngừng ám ảnh các tâm trí ưu dân ái quốc, bức thiết không kém gì những vấn
đề phát triển kinh tế và bảo tồn môi sinh Việt Nam đặc thù.
Bản sắc văn hoá của một
dân tộc được hình thành từ vận động nội tại của chính dân tộc ấy và tiếp biến,
dung hội, giao thoa với các nền văn hoá khác. Một quá trình học hỏi cái khác biệt, sáng tạo cái mới và khẳng định cái đã có.
Vừa tiếp nối cái đã định
hình, vừa phát triển thích ứng với các giá trị đương thời. Đó là những vận động lịch sử
bắt buộc, không thể cưỡng lại được của bất cứ dân tộc nào. "Văn hoá là
sức sống giao hòa, được lặp đi lặp lại trong ứng xử, giống như một vùng lau lách
được người ta đi mãi thì thành đường mòn, viết mãi thì thành thi
thư".
Để thấy bản sắc văn hóa một dân tộc, người ta
thường nhìn nhận ở các lĩnh vực ( thể
hiện ra trong vật thể và phi vật thể): Ngôn ngữ, kiến trúc, nghệ thuật, trang
phục, âm nhạc, ẩm thực, tín ngưỡng, tôn giáo, phong tục tập quán, cách giao tiếp
...
Hiện đại mà không lai căng, hổ lốn?
Sẽ rất ngạc nhiên và buồn cười nếu có ai đó đòi
chúng ta hôm nay nói- viết như tổ tiên chúng ta cách đây ngàn năm (từ tiếng Việt
thuộc dòng Môn-Khmer- ngữ hệ Đông Nam Á, sau chuyển biến thành tiếng Việt-Mường
rồi Hán- Nôm, Nôm và chữ quốc ngữ), hoặc thường ngày phục trang khăn đống áo
the...
Vậy, nhu cầu làm mới và
thích ứng với cái mới, cái đương thời luôn là nhu cầu có thật và rất quan trọng. Nếu người Việt cho đến nay có được nét tinh hoa văn hóa thì một
phần là nhờ ở việc vừa giữ gìn tiếng Việt vừa bồi tích thường xuyên từ mới và
ngữ dụng mới vào kho từ ngữ đã có.
Cũng như thế với các loại hình nghệ thuật từ kiến
trúc, đến trang phục, từ âm nhạc đến phong cách ứng xử giao tiếp, từ sinh hoạt
tôn giáo đến cảm nhận tâm linh...cái cốt lõi (đã định hình như nguồn tạo sinh,
xem như là bản sắc), luôn là cái trụ để thu nhận cái tiếp biến giao thoa làm cho
phong phú thêm lên mà vẫn tồn tại, vẫn không mất đi.
Một ví dụ để minh chứng: Không phải chỉ ở Việt
Nam mới có Chùa Một Cột, các nước như Nhật Bản hay Hàn Quốc...cũng có. Kiến trúc
Chùa Một Cột đầu tiên được sinh ra ở quốc gia nào, chưa có câu trả lời chính xác
nhưng chắc chắn ở Việt Nam, Chùa Một Cột khác ở chỗ được xây trên một cái cột
tròn, mọc giữa hồ nước vuông (quan niệm vũ trụ đất vuông- trời tròn).
Chùa thờ Phật bà Quan âm
(tục thờ Mẫu- đặc trưng Việt Nam). Kiến
trúc ở đây không thuần chỉ là tạo hình, mà hình được tạo ra với ý nghĩa dịch lý
và tâm linh ở bên trong. Nó biểu hiện vũ trụ
quan, (qua tượng Linga - Yoni, tức Âm Dương vật thể). Nó là hai nguyên lý mâu
thuẫn khởi thuỷ, phối hợp để sinh sinh hoá hoá ra vạn vật theo
đạo Càn Khôn.
Vật thể mang yếu tố vũ trụ ấy được nghệ thuật hoá
một cách độc đáo tạo thành biểu tượng "Hoa sen" mọc giữa bùn lầy, phù hợp tâm lý
Việt. Dịch lý sâu xa biểu thị cho lòng yêu thương bác ái của
người Mẹ vũ trụ hoá thân vào biểu tượng Hoa sen.
Một biểu tượng của nền
văn minh lúa nước với tục thờ "Mẫu" - Mẹ lúa. Một ý nghĩa uyên thâm, minh
chứng tinh thần Việt độc đáo của người dân Việt có khả năng dung hoà tất cả
khuynh hướng mâu thuẫn thành một hoà điệu của đạo nhất thể Âm Dương tiềm ẩn
trong tâm khảm người Việt.
|
Không phải chỉ ở Việt Nam mới có Chùa Một Cột
|
Vừa mạnh, vừa yếu?
Có người nói bản sắc văn
hóa Việt vừa mạnh vừa yếu. Yếu ở
chỗ không biết (không thích, không chấp nhận) sự cực đoan mãnh liệt.
Song nếu nhìn ở khía cạnh khác, tôi lại thấy văn
hóa Việt rất mạnh, chỉ mạnh mới có thể bao dung, tiếp nhận, nhân ái, dĩ hòa với
những cái khác biệt, để rồi từ đó dung nạp chuyển hóa thành cái của mình, bản
sắc mình.
Có văn hóa mới có bản
lĩnh. Văn hóa làm nên bản lĩnh.
Người Việt có bản lĩnh chống ngoại xâm, chống đến cùng để bảo vệ độc lập tự chủ
nhưng bên cạnh đó lại là một phong cách ứng xử nhân đạo, nhân văn đầy bao dung
với chính kẻ đã gieo tai họa cho mình. Mạnh là như vậy.
Từ trước tới nay, trong các lĩnh vực kiến trúc,
điêu khắc, văn chương, lễ nhạc, y phục, ca vũ, tôn giáo của người Việt có bao
nhiêu phần trăm ảnh hưởng từ Trung Hoa, từ Chăm, sau này từ Pháp, từ các nước La
tinh? Nhưng bao nhiêu ảnh hưởng thì cũng là bấy nhiêu cái bị
thay đổi, bị Việt hóa để trở thành văn hóa Việt.
Ngay như địa hạt tín ngưỡng tôn giáo, đạo Phật
đến Việt Nam từ Trung Hoa và Ấn Độ hay đạo Ki tô đến từ phương Tây, nhưng vào
đến nước Việt, người Việt chỉ chấp nhận cái tinh túy, còn cái hình thức, hay cái
cực đoan đã được thay đổi.
Hoặc gần đây nhất về âm nhạc, mặc dù nghệ thuật
giao hưởng (của phương tây) chiếm lĩnh vị trí số một trong thang giá trị âm nhạc
toàn thế giới nhưng đã và đang được các nghệ sĩ Việt Nam thổi vào đó những hợp
âm chứa đựng tâm hồn Việt, và khá thành công.
Trải suốt chiều dài lịch
sử, Việt nam đã có ba lớp văn hóa chồng lên nhau là lớp văn hóa bản địa, lớp văn
hóa giao lưu với Trung Quốc và khu vực, lớp văn hóa giao lưu với phương Tây. Nhờ gốc văn hóa bản địa vững chắc (thể hiện ra bằng vật thể và cả
phi vật thể) nên đã không bị ảnh hưởng văn hóa ngoại lai đồng hóa, trái lại còn
biết sử dụng và Việt hóa các ảnh hưởng đó làm giầu cho nền văn hóa dân tộc.
Một ví dụ cho thấy: Trên thực tế một phụ nữ Âu mặc áo dài, đội nón lá, nói vài
câu tiếng Việt, không bao giờ trông như một người Việt. Nhưng không ít người
Việt mặc đồ "tây", nói tiếng "tây", phong cách ứng xử như "tây" được không ít
người nhầm là "tây" chính hiệu.
Đó là một loại hiện tượng
không biểu thị nỗi lo sẽ mất chất, mất bản sắc, mà biểu thị suy nghĩ rằng người
Việt có khả năng tiếp biến cao. Chỉ có điều, tiếp biến rồi mất hẳn hay tiếp biến để thích nghi,
còn cái cốt lõi thì chẳng bao giờ mất lại là một vấn nạn luôn luôn được đặt ra,
luôn luôn mới mẻ theo từng thời kỳ khi những đòi hỏi
thích nghi dấy lên từ các bối cảnh biến chuyển.
Người tài là trụ cột...
Đọc lại lịch sử thời Lê, ta thấy Nguyễn Trãi và
Lương Đăng, người thì dâng nhạc mới phỏng theo quy chế của nhà Minh (Trung Hoa), người thì làm mới trên
cơ sở cái cũ mang cốt cách truyền thống dân tộc. Những gì
Nguyễn Trãi đưa ra muôn đời được nhớ, những gì Lương Đăng làm mới nhưng mất gốc
đã bị tẩy chay và lãng quên.
Để giữ được cốt lõi trong tiếp biến phải có
những người có tài, tầm, tâm, đức. Thời đại nào thiếu vắng những người như
vậy thì xảy ra khủng hoảng tâm lý, khủng hoảng niềm tin... Và đó chính là những lúc các câu hỏi về
nguy cơ bị mai một, bị đồng hóa, bị tan biến lại được nêu ra
cấp thiết, từ một "bản năng xã hội-văn hóa" rất đặc trưng của nòi
giống Việt, vốn đã dạn dày một truyền thống bảo tồn cộng đồng cả về
căn bản vật chất và căn bản tâm linh.
|
Vậy, để giữ được cốt lõi
trong tiếp biến phải có những người có tài, tầm, tâm, đức. Thời đại nào thiếu vắng
những người như vậy thì xảy ra khủng hoảng tâm lý, khủng hoảng niềm tin... Và đó
chính là những lúc các câu hỏi về nguy cơ bị mai một, bị đồng hóa, bị tan biến
lại được nêu ra cấp thiết, từ một "bản năng xã hội-văn hóa" rất đặc trưng của
nòi giống Việt, vốn đã dạn dày một truyền thống bảo tồn cộng đồng cả về căn bản
vật chất và căn bản tâm linh.
Phải chăng ngày nay tình trạng thiếu vắng người
tài, hay người tài chưa xuất hiện, còn bị che khuất là một trong những lý do
khiến cho rất nhiều "thảm họa" xảy ra, từ lai căng, nhái nhép, copy sống sượng
đến bát nháo, lộn xộn trên nhiều lĩnh vực của văn hóa đang lũng đoạn cuộc sống
hàng ngày?