Hạnh Phương
Ý niệm tình thương con người có được nơi trái tim
có lẽ được khơi nguồn từ tình thương của mẹ. Nói đến mẹ là nói
đến tình thương. Con trẻ vừa lọt lòng là được tiếp xúc ngay với nguồn
suối tình thương của mẹ. Vừa rút ruột quằn quại sinh con, nghe tiếng khóc oa oa
đầu đời của con, dù mệt bả người, mẹ cố cúi xuống, nằm ngoái nhìn con, đôi môi
mềm nở nụ cười hạnh phúc, lòng mẹ dạt dào một niềm thương. Con vừa mới cắt cuống
rốn, mới ráo khô nước nhờn nước ối là đã được bầu vú mẹ cho bú những giọt sữa
non ngòn ngọt, tiếp sức cho con mở mắt nhìn đời.Tình thương của mẹ là chất liệu
nuôi dưỡng cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc cứng cáp trưởng thành. Từng ngày
từng đêm, bao năm bao tháng, biết bao nhiêu dịu ngọt, êm đềm tình thương
mẹ
cho con hưởng thụ. Vì thế, khi tình thương của mẹ được thăng hoa
vào thi ca, bởi các nhà thơ, thì nó chuyển hiện thành bao nhiêu đường nét, hình
tượng, âm giai cung bực.Với nhà thơ Phạm Như Vân, khi tình thương của mẹ rót vào
lời ru, thì lời ru ngọt lịm vị phù sa:
Con
đi tìm vị phù sa
Trong
lời ru mẹ chảy qua tâm hồn
Tìm trong nỗi nhớ mỏi mòn
À ơi
tiếng mẹ ru con dịu dàng.
(Phạm
Như Vân – Men vị phù sa)
Có một nhà thơ, “nhất niên tam nguyệt phiêu bồng”, nhà thơ Tâm Nhiên, cứ chín
tháng dạy học ở hải đảo Phú Quốc, đến dịp Tết và Hè, anh lại vào đất liền dong
ruỗi ba miền từ Nam chí Bắc, thăm anh em bạn thơ, thăm và lễ bái các bậc tôn túc, già lam, am viện… Ấy vậy,
hình như Tâm Nhiên đã từng có diễm phúc, mở mắt ra thì đã “ngộ” được tình thương
của mẹ:
Mẹ
như tia sáng mặt trời
Khơi
dòng máu chảy nồng hơi thở nầy
Mẹ là
bóng lặng trăng soi
Xua
tan u tối dặm dài con đi.
Mẹ
sinh ra cõi tự do
Cho
con chạy nhảy tha hồ dạo rong
(Tâm Nhiên – Mẹ ơi !)
Và phải chăng nhà thơ Huệ Thành Mang Viên Long cũng đồng cảm với
Tâm Nhiên khi anh viết:
Trăng là mẹ, những mùa
trăng là mẹ…
Không phút nào con có
thể nguôi quên !
Bởi vì trăng đã sống mãi
trong tim
Vầng trăng mẹ soi đời
con tăm tối.
(Huệ
Thành Mang Viên Long – Trăng là mẹ)
Xin thưa, nói đồng cảm là chỉ nói đến nét phác thảo, khắc họa tương
đồng của hai hình ảnh mẹ được tượng trưng. Nói sâu hơn
thì vầng trăng tượng trưng trong thơ Mang Viên Long đã là vầng trăng linh thoại,
vầng trăng cổ tích, vầng trăng điển tích… Vầng trăng Rằm tháng bảy đã tròn từ
thuở Đức Thích Tôn còn tại thế, vầng trăng đã tròn từ thuở Tôn giả Mục Kiền Liên
thực hành hiếu hạnh:
Từ mùa trăng hai ngàn
năm trăm năm trước….
Đến mùa trăng nầy xa
cách biết bao
Nhưng trăng vẫn sáng.
Vẫn dịu dàng đúng hẹn
Vẫn là mẹ yêu- con mãi
hướng tâm về.
Từ mùa trăng thuở ấy, có
mùa trăng Thắng Hội…
Có trăng Vu Lan cho con nhớ nguyện cầu
Cho ân
nặng được báo đền muôn một
Cho lòng con và trăng
mãi thâm sâu!
(Huệ Thành – Mang Viên
Long)
Vâng, chính từ vầng trăng linh thoại, mùa trăng hiếu hạnh, ánh
trăng tự tứ, trăng Phật hoan hỉ ấy chính là vầng trăng có động lực mầu nhiệm,
khơi gợi cảm xúc, cảm hứng sáng tạo cho người nghệ sĩ; các thi nhân Phật tử được
tắm tưới bởi suối nguồn ánh sáng tình thương và hiếu hạnh; thế nên cứ đến mùa Vu
Lan là các tao nhân cảm xúc dạt dào tuôn chảy những vần thơ niệm ơn cha mẹ, nhớ
nghĩa cù lao chín chữ… Những vần thơ ngọt ngào hương vị chuối
ba hương, xôi nếp một, đường mía lau.
Lạ nhỉ? Nhà thơ Kim Hoa cũng từng
khái quát, khái niệm hình tượng người mẹ, cũng bằng những sắc màu ánh sáng lung
linh, rạng rỡ:
Mẹ
như vạt nắng bình minh
Đem
nguồn nhựa sống vẫn dành cho con
Sáng
soi như mảnh trăng tròn
Hành trình mẹ vẫn… đầu non cuối ghềnh.
(Kim Hoa – Mẹ)
Bà mẹ của Nhà thơ Vũ Đức Tô Châu thì cũng vậy. Đây hình ảnh khu vườn,
căn nhà nơi quê hương; căn nhà ấy, khu vườn ấy không lẫn vào đâu được; nó là của
Việt Nam, của bà mẹ quê hiền từ, giản dị, chất phác:
Nhà
mẹ hàng cau vương mái tranh
Chiều
mây khói bếp quyện xây thành
Dây
trầu vàng lá rơi từng bữa
Gậy
trúc lần theo dáng ngập ngừng
(Vũ Đức Tô Châu – Người mẹ của tôi)
Nơi căn nhà ấy, khung cảnh vườn quê ấy, bao giờ cũng tồn tại một
hình ảnh chân thực, mộc mạc, tự ngàn xưa có thế cho đến cả ngàn sau: một bà mẹ
hiền dõi mắt trông con những buổi chiều lên, đêm xuống mỗi khi con đi
xa :
Người
mẹ của tôi tóc trắng ngần
Lệ mờ
đôi mắt đã bao năm
Rưng
rưng giọt nhớ thời tan vỡ
Thương đứa con đi bởi cuộc trần.
Các
chị có chồng xa xứ hết
May
nhờ chị lớn – cũng ven sông!
Cảnh
tình mẹ khổ con thương quá
Ai hiểu cơ trời quê bão giông.
(Vũ Đức Tô Châu – Người mẹ của tôi)
Tình thương mẹ dành cho con bao la như biển thái bình, mênh mông
như trời với đất, dạt dào như suối như sông, ngân nga đủ cung bực ngũ âm xàng xê
liu cống, ạ ời, ầu ơ… nhập vào giai điệu hát ru lan tỏa khắp cả ba miền non
nước. Thế nên chúng ta không lấy làm lạ khi thấy nhà thơ Từ Xuân Lãnh biểu hiện
cảm xúc, hoài niệm tri ân
hiền mẫu qua bài thơ mang tên “Lời ru”.
Từ
con vừa mới chào đời
Mẹ
ru con tiếng “à ơi”… ngọt ngào
Giọt
tình nhỏ xuống ca dao
Giọt
thương đọng lại lắng vào hồn quê
Một
dòng lục bát đi về
Mênh
mang điệu hát câu thề nước non
Lời
ru rót xuống đời con
Xanh
trang cổ tích ngọt nguồn quê hương
(Từ Xuân Lãnh – Lời ru)
Mẹ đã phổ tình thương con vào cung bực lời ru, nên bao nhiêu giọt tình, giọt thương của mẹ chao theo tao
nôi nhịp võng mà nhuận thấm đời con. Và hơn thế nữa tình
thương ấy lắng đọng lại thành hồn quê hồn nước. “Giọt thương đọng lại lắng lại
hồn quê”. Và cũng chính vì thế, tình thương của mẹ dãi dầu bốn ngàn
năm văn hiến đã sinh thành nên bao triệu triệu người con “trung quân, ái quốc”;
thương nước , thương dân:
Lời
ru rót xuống đời con
Xanh
trang cố tích, ngọt nguồn quê hương.
(Từ Xuân Lãnh)
Cảm thụ sâu lắng thâm trầm lời hát ru của mẹ, nhà thơ Nguyễn Thánh
Ngã thấy trong lời hát ru của mẹ có tầng sâu triết học ngôn ngữ, ngôn ngữ tình
yêu :
Trong đôi mắt bóng in
vầng trăng chảy
Vào tận cùng ngôn ngữ
của bao dung
Mẹ ru con bằng lời ru vô tận
Lời núi non… lời cây cỏ khắp phô.
Ôi ! Bàn
tay
Mẹ, như thảo nguyên hùng vĩ
Ẩm vầng trăng trìu
mến
chạm hoàng hôn
Vì trong mẹ thức dậy
tình hoan hỉ
Dành cho con dù nông nổi
sống mòn…
(Nguyễn Thánh Ngã – Người mẹ dòng sông)
Lời ru của mẹ trầm lắng ngân nga giữa núi
non cỏ cây sông nước. Sức mạnh kỳ vĩ ấy dư năng lực, thừa trữ
lượng để chan rưới mưa móc ân tình cho
cả đất trời đang đại hạn, cho cả khát bỏng đời con. Tình thương mầu nhiệm nhập
vào bàn tay
thì bàn tay thành “thảo nguyên hùng vĩ”
đủ sức mạnh, thừa năng lực để “Ẳm vầng
trăng trìu mến chạm hoàng hôn”. Vì bao giờ cũng vậy, muôn thuở vẫn
như là, như thị:
Vì
trong mẹ thức dậy tình hoan hỉ
Dành
cho con dù nông nỗi sống mòn.
(Nguyễn Thánh Ngã)
Dù con hư đốn đến hoang đàng, dù con khổ đau tuyệt vọng mẹ luôn đem
và lấy tình thương nâng đỡ, uốn nắn, dắt dìu; ít khi mẹ giận hờn trách cứ. Bản thân tình thương mẹ là tất cả cho con:
Ý thức được chân lý hiển nhiên ấy, thế nên dòng cảm xúc thơ Vu
Lan
trong lòng người thi nhân Phật tử luôn dạt dào tuôn chảy, tràn trào nên những
câu thơ, những bài thơ mượt mà, chân thành và lâng lâng cảm xúc ngọt ngào:
Ngày Vu Lan báo hiếu
Con
tặng mẹ gối hoa
Con
của mẹ hiền hòa
Lo
gần xa chu đáo.
Như
là con chim sáo
Đã
vỗ cánh sang sông
Các
con vẫn hướng lòng
Chăm sóc thương yêu mẹ.
Mong mẹ cha mạnh khỏe
Nào
thuốc sữa, bánh trà
Còn
nhớ cả gối hoa
Vỗ về từng giấc ngủ.
Đôi
gối mềm lông vũ
Cả
tấm lòng con đây
Mẹ
ru giấc nồng say
Thấm tình con thơm
thảo
(Bích
Bửu – Nét đẹp tâm hồn Việt Nam)
Đó là con đã biết thương mẹ, hạnh phúc thay cho những bà mẹ, từng
ngày đang ăn đang thở hồn nhiên, an lạc, vui sống, lại được thấy con mình hiếu
thảo, đang thể hiện những việc làm cụ thể thiết thực báo ân, báo hiếu.
Với nhà thơ Liên Thao, dù đã là người thiên cổ, nhưng cứ mỗi Vu
Lan
về, bạn đọc quý thơ anh, nhớ đến anh, tự thấy còn văng vẳng đâu đó những câu hát
anh “Ru mẹ”
Con ru giấc ngủ Tiên Rồng
Lá
vàng ngõ trúc, bụi hồng dặm sương
Tiếng
thơ khắc khoải đoạn trường
Tiếng thương nức nở trùng dương đôi bờ.
(Liên Thao – Con ru mẹ ngủ giấc tròn)
Những câu thơ khúc hát Vu Lan
thấm đẫm tình thương mật ngọt. Dù mẹ còn trẻ, hay mẹ đã già, dù mẹ đang thanh
xuân hay đã đường xa vạn dặm thì mỗi mỗi Vu Lan, mỗi khi con lắng lòng nghĩ tới
liền có mẹ nơi con, liền có con nơi mẹ. Có tình yêu bao la giữa mẹ với con nên
có bầu khí hậu tình thương bao trùm cả vũ trụ đất trời. Hạnh phúc thay Vu
Lan.
Đẹp biết bao hình tượng và tình thương của đấng Mẹ hiền.