Nguyễn Quang Trường *
Trịnh Khánh Sơn
Đạo đức và tôn giáo là những hình thái
ý thức xã hội ra đời từ rất sớm, có bề dày lịch sử trong nền văn hóa nhân loại.
Sự hiện diện của đạo đức và tôn giáo là minh chứng cho sự cầu cầu vọng của con
người về một thế giới tốt đẹp.
Những luận giải triết học về đạo đức
chỉ ra rằng: “Đạo đức… bao gồm những
nguyên lý (đạo lý), quy tắc, chuẩn mực điều tiết hành vi của con người trong
quan hệ với người khác và với cộng đồng. Căn cứ vào những quy tắc ấy người ta
đánh giá hành vi, phẩm giá của mỗi người bằng các quan niệm về thiện và ác,
chính nghĩa và phi nghĩa, nghĩa vụ, danh dự”.[1]
Sự biểu hiện của đạo đức trong đời
sống thường nhật được cụ thể hóa bằng những quy tắc xử sự của con người trên hai
phương diện: Thứ nhất là những ứng xử của con người với tự nhiên (còn gọi là đạo
đức sinh thái), vì trong quan hệ với môi trường thiên nhiên, con người được xem
là một sinh vật hữu tình, sinh tồn trong thế giới vô cùng rộng lớn và nhiều bí
ẩn, là “đứa con của mẹ thiên nhiên”, được thiên nhiên đùm bọc, che chở. Theo đó,
con người là một tiểu vũ trụ, là một bộ phận của giới tự nhiên, sự tồn tại và
phát triển là phụ thuộc vào giới tự nhiên. Vì vậy, mỗi hành vi thái quá của con
người khi tác động vào tự nhiên sẽ làm mất trạng thái thăng bằng của nó, và như
thế là trái với quy luật, là phi đạo đức sinh thái, đúng như lời nhận định của
giới học giả rằng: “hủy hoại tự nhiên cũng là hủy hoại chính bản thân mình”.
Sinh viên hướng về Phật pháp, ảnh chùa Hoằng Pháp
Thứ hai là
những quy tắc ứng xử của con người với nhau trong vô số những quan hệ trong cộng
đồng. Những quan hệ này có tính hai mặt, một mặt nó là điều kiện, là môi trường
để con người thể hiện hành vi đạo đức của mình, mặt khác thông qua những quan hệ
này mà các chuẩn tắc đạo đức cũng được kiến tạo, bồi đắp và hoàn thiện.
Pháp luật cũng là một hình thái ý thức
xã hội, nhưng trong so sánh nó không giống với đạo đức. Bởi vì, nếu pháp luật
điều chỉnh hành vi, thái độ ứng xử của con người trong cộng đồng bằng các quy
phạm, các văn bản có tính pháp quy, mệnh lệnh, bắt buộc, thì đạo đức điều chỉnh
hành vi của con người bằng nguyên tắc tự nguyện, tự giác, do sự thôi thúc của
lương tâm và chịu sự chi phối của dư luận xã hội. Những chuẩn tắc đạo đức của
con người mang tính bền vững, được lưu truyền lưu truyền qua nhiều thế hệ.
Phạm trù đạo đức luôn mang tính lịch
sử cụ thể vì mỗi thời đại đều xây dựng cho mình thể chế đạo đức khác nhau. Đạo
đức cũng không phải là cái gì cao siêu, trừu tượng, khó hiểu, mà nó ra đời, tồn
tại và phát triển do nhu cầu của xã hội, bởi lẽ, là một hình thái ý thức xã hội,
đạo đức luôn chịu sự chi phối của tồn tại xã hội. Khi tồn tại xã hội thay đổi
thì đạo đức cũng thay đổi theo cho phù hợp. Mọi quy tắc đạo đức chỉ có thể được
thực hiện trong xã hội, do các quan hệ xã hội quy định, điều đó có nghĩa là các
quan hệ xã hội là những yếu tố không thể thiếu cho sự hình thành và phát triển
các quy tắc đạo đức.
Mỗi một xã hội trong sự tồn tại của nó
là rất đa dạng và phong phú, với nhiều mối quan hệ khác nhau, và mỗi quan hệ đều
có chuẩn mực đạo đức riêng. Vì thế, cho đến nay đã có nhiều lý thuyết đạo đức ra
đời nhằm điều chỉnh hành vi ứng xử cho phù hợp, nhằm hướng đến hoàn thiện bản
chất con người.
Phật giáo là một tôn giáo với mục tiêu
hướng thiện, ra đời vào thế kỷ VI TCN, do Siddharta (Tất Đạt Đa – 563-483 TCN)
sáng lập. Là một trong 3 tôn giáo lớn trên thế giới (cùng với đạo Thiên chúa và
đạo Hồi), Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ rất sớm (từ những năm đầu công
nguyên) bằng đường bộ và đường thủy mà các thương gia gọi đó là “con đường gió mùa” hay “con đường tơ lụa”.
Kể từ khi du nhập vào Việt
Nam
đến nay, Phật giáo đã sống và phát triển cùng với sự phát triển của lịch sử dân
tộc (có lúc trở thành tư tưởng chủ đạo trong việc phát triển văn hóa tinh thần
của đất nước). Bản thân Phật giáo với mục đích chống phân biệt đẳng cấp và đòi
bình đẳng xã hội, ngay từ đầu đã thể hiện các nguyên tắc đạo đức của một tôn
giáo (chủ thuyết).
Đạo đức và các nguyên tắc đạo đức của
Phật giáo được thể hiện chủ yếu qua nhân sinh quan:
Xuất phát từ thế giới quan cho rằng, thế giới này
không phải do đấng tối cao (Brahman) sáng tạo. Vũ trụ là vô cùng vô tận với vô
số thế giới và được chia thành 3 cấp độ: Tiểu thiên, trung thiên và đại thiên
thế giới.
Thế giới do danh và sắc tạo thành (tức
vật chất và tinh thần). Bản thân con người do 5 yếu tố tạo nên (gọi là ngũ uẩn:
sắc – thụ - tưởng – hành - thức). Thế giới quan (quan niệm về sự vật-hiện tượng)
Phật giáo dựa trên cơ sở nhân – quả
(duyên khởi).
Phật giáo cho rằng, mọi sự vật, hiện
tượng đều có nguyên nhân – nhân kết
hợp với duyên thì sinh ra
quả (nhân – duyên – quả), quả lại kết
hợp với duyên biến thành nhân và sinh ra quả khác….. cứ thế, sự vật, hiện tượng
vận động không ngừng, bất tận…
Thế giới là vô thường, vô ngã, bởi lẽ
không có gì bất định, vĩnh viễn, mọi sự vật đều biến đổi, đều trôi đi như dòng
sông đang chảy, kể cả tâm thức con người cũng không thể bất biến. Mọi cái chỉ
thoảng qua, là tạm bợ.
Từ quan niệm về thế giới như vậy, Phật
giáo đi đến giải quyết vấn đề nhân sinh
quan. Đây là cơ sở để Phật giáo xây dựng và thực hiện các nguyên tắc đạo
đức:
“Đời người là bể khổ”: Sự hiện hữu của con người trên thế
giới này là khổ. Cái kiếp khổ của con người được Phật giáo thể hiện trong “Tứ
diệu đế” gồm:
- Khổ đế (Duḥkha-satya), gồm: Sinh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly, oán
tăng hội, sở cầu bất đắc, ngũ uẩn thạnh.
- Tập đế (Samudaya -satya), gồm các nguyên nhân gây khổ, căn bản là
dục ái, hữu ái và vô hữu ái. Các tác nhân này lại do vô minh mà sinh khởi, từ đó
hình thành chuỗi nhân duyên nối nhau không dứt với hành, thức, danh sắc, lục
căn, xúc, thụ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử, gọi chung là Thập nhị nhân duyên.
- Diệt đế (Nirodha-satya): Cái khổ có thể diệt được bằng cách dứt trừ
mọi nguyên nhân gây khổ, cụ thể là ham muốn dục vọng.
- Đạo đế (Mārga-satya): con đường tu tập để diệt trừ đau khổ, cụ thể
là Bát chính đạo (8 phương pháp để diệt khổ), bao gồm:
1. Chính kiến (Saṃyak-dṛṣti): Thấy, xem xét sự vật một cách đúng đắn, hiểu biết một
cách đúng đắn.
2. Chính tư duy (Saṃyak-saṃkalpa): suy nghĩ đúng đắn
3. Chính ngữ (Saṃyak-vāc): Lời nói đúng đắn
4. Chính nghiệp (Saṃyak-karmānta): Hành vi đúng đắn
5. Chính mệnh (Saṃyak-ājiva): Mưu sinh đúng đắn
6. Chính tinh tiến (Saṃyak-vyāyāma): Cố gắng, nổ lực phấn đấu một cách đúng đắn
7. Chính niệm (Saṃyak-smṛti): Ghi nhớ, tâm niệm đúng đắn
8. Chính định (Saṃyak-samādhi): Tập trung tư tưởng một cách đúng đắn.
Tám phương pháp diệt khổ này được thực
hiện đúng đắn nhờ có 3 khía cạnh tu tập đồng thời là
giới, định, tuệ, cũng gọi là Tam vô lậu học. Thực hiện tám phương pháp này giúp con người giải
thoát khỏi bể khổ, nhưng nó đòi hỏi mỗi người phải vượt qua chính mình bằng niềm
tin và hành vi đạo đức.
Phật giáo cho rằng, nguyên nhân gây
khổ là do con người không hiểu biết (vô minh) về sự vô thường, vô ngã. Vì vô
minh nên “chấp ngã”; vì không hiểu được bản chất của sự vật, hiện tượng nên
“vọng tưởng” và bị “dục” dẫn đường một cách mù quáng trong vòng nhân-quả, không
ngừng tạo nghiệp, nên không thể thoát được
khổ đau
trong vòng luân hồi.
Nguyên tắc thực hiện đạo đức Phật giáo
yêu cầu: Giới, định và tuệ phải đồng thời tu tập, đó là điều kiện tiên quyết để
diệt dục, dứt vọng tưởng, dứt ngã chấp, đoạn tuyệt vô minh và đạt giác ngộ.
Giải thoát chính là con đường tu đưỡng
đạo đức, giữ giới nhiều thì giải thoát nhiều, giữ giới ít thì giải thoát ít
(Giới ở đây có thể được hiểu như: luân lý, đạo đức, cách cư xử, tư cách đạo đức,
làm lành, lánh ác…)
Quy tắc đạo đức Phật giáo được thể
hiện trong giới luật, quy định nguyên tắc ứng xử của các tu sĩ xuất gia và cư sĩ
tại gia (giới luật cho hàng xuất gia gồm 227 giới cho nam – (tăng)
và 348 giới cho nữ - (ni) về cuộc sống
tăng đoàn). Đây là những quy phạm đạo đức giúp cho tu sĩ xuất gia vượt qua những
giá trị đạo đức thông thường trong xã hội để đạt đến sự lìa bỏ
ngã chấp. Giới luật chung cho cả tu sĩ xuất gia và cư sĩ tại gia cũng bao
hàm cả đạo đức nhân gian, như từ, bi, hỉ, xả… là những thiện tâm hướng đến cuộc
sống hòa vui, tránh tạo nghiệp ác, tích lũy nghiệp thiện, và do đó cũng bao gồm
hết thảy mọi chuẩn mực đạo đức tốt đẹp của thế gian.
Đối với các tín đồ là cư sĩ tại gia,
quy tắc đạo đức mà Phật giáo đưa ra gồm:
-
Ngũ giới: Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không
uống rượu.
-
Thập thiện: gồm ba nghiệp thiện của thân: không sát sinh, không trộm cắp,
không tà dâm; bốn nghiệp của khẩu: không nói dối, không nói hai lưỡi, không nói
lời độc ác, không nói thêu dệt; ba nghiệp thiện của ý: không tham dục, không
ghen ghét thù hận, không si mê tà kiến.
Ngoài ra, đạo Phật còn có những chuẩn
mực ứng xử có thể giúp mang lại sự hòa hợp trong cộng đồng, được gọi là
Lục hòa hay Lục hòa kính, bao gồm:
thân hòa cộng trú, khẩu hòa vô tranh, ý hòa đồng sự, giới hòa đồng tu, kiến hòa
đồng giải và lợi hòa đồng quân. Chư tăng khi sống trong Tăng đoàn được khuyến
khích vận dụng 6 nguyên tắc này để luôn có sự hòa hợp, an ổn.
Phật giáo Đại thừa còn khuyến khích 6
pháp tu để mang lại lợi ích cho chính mình và mọi người chung quanh, dành cho cả
tu sĩ xuất gia cũng như cư sĩ tại gia, gọi là
Lục ba-la-mật hay Lục độ, bao gồm:
+
Bố thí: Đem phúc lợi ban tặng cho người khác.
+
Trì giới: Thực hiện đúng đắn giới luật, làm chủ hành vi thân, ngữ, ý.
+
Nhẫn nhục: Đức nhẫn nại, chấp nhận mọi hoàn cảnh.
+
Tinh tiến: Chuyên cần, không ngừng nỗ lực tu tập.
+
Thiền định: Tu tập sự an định nội tâm.
+
Trí tuệ: Tu tập phát triển trí tuệ để nhận thức đúng thật về tự tâm và ngoại
cảnh.
Đối với người thế tục, Phật giáo đưa
ra nhiều lời khuyên răn về đạo đức rất giá trị: “Tạp
A-hàm
(quyển 4, kinh 91) có ghi lời dạy về “Tứ pháp” của đức Phật đối với Uất-xà-ca
trong việc mưu sinh:
“Một là phương tiện đầy đủ, tức là có nghề nghiệp chính đáng; hai là bảo vệ, giữ gìn đầy đủ, tức không để mất mát, thất thoát
thành quả sức lao động; ba là thiện tri thức, tức là có hiểu biết đúng đắn về các việc thiện
và tránh các việc bất thiện trong làm ăn; bốn là chính mệnh đầy đủ, tức là biết làm
chủ cuộc sống, không lãng phí, không bủn xỉn, biết làm phúc và cúng dường, biết
chăm nom cuộc sống cho quyến thuộc, biết tích lũy cho đời nay và chuẩn bị cho
đời sau.”[2]…
Hoặc trong kinh “Lục phương lễ bái” có bài luân lý mà đức
Phật dạy cho Thiện Sinh: “Phương đông là cha mẹ, phương nam là anh em, phương
tây là vợ con, phương bắc là bạn hữu, phía dưới là nô bộc, phía trên là vị thầy
tôn giáo. Các quan hệ phải có hai chiều cân đối, cùng tôn trọng nhau, vừa có
nghĩa vụ, vừa có quyền lợi, không thể thiên lệch phiến diện.”[3] Đây có thể
xem là phép tắc đối xử giữa người với người, trong đó lấy bản thân mình làm
trung tâm.
Có thể nói rằng, đạo đức Phật giáo là
một hệ đạo đức xuất thế, giá trị đạo
đức Phật giáo thiên về nội tâm, phản tỉnh hơn là xử lý các quan hệ bề ngoài, cho
nên Phật giáo phát huy tối đa tính tự chủ cá nhân trong việc thực hành các quy
tắc đạo đức. Sự phán xét của đạo đức là nghiệp báo, hay nghiệp quả, nó điều
chỉnh đạo đức của mỗi người theo quy luật nhân - quả tự vận hành. Điều đặc biệt
hơn, Phật giáo là tôn giáo có khuynh hướng vô thần, không thừa nhận sự sáng tạo
của một đấng siêu nhiên nào, mọi giá trị luân lý, đạo đức đều diễn ra trong thế
giới nhân sinh chứ không phải do một thế lực nào chi phối. Đây là điểm ưu trội
của Phật giáo so với các tôn giáo khác.
Phật giáo với các chuẩn tắc đạo đức
nhân văn cao cả về đời sống con người có vai trò không nhỏ trong đời sống xã hội,
với vô số những quan hệ ngang bằng và trên dưới. Đặc biệt trong xã hội ngày nay,
khi nền kinh tế thị trường phát triển với những đặc tính của nó, đã làm cho
không ít người bị cuốn theo vòng xoáy của đồng tiền mà lãng quên đi các quy tắc
xử sự đạo đức, thì Phật giáo với những khung chuẩn giá trị đạo đức của mình có
thể được xem như một chiếc gương trong sáng về giá trị nhân sinh, để mỗi người
soi mình vào đó và nhận chân được giá trị đích thực trong quảng đời vô cùng ngắn
ngủi của mình trong thế giới này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Hữu Vui (2004): Lịch sử triết học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Doãn Chính – Vũ Quang Hà – Châu Văn Minh – Nguyễn Anh
Thường (2003): Kinh văn của các trường
phái triết học Ấn Độ, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
3. Tulku Thondup (2009):
Hành trình giác ngộ, Nxb Tôn Giáo.
4. Nguyễn Duy Cẩn (2000): Nhập môn triết học Đông phương, Nxb Thanh Niên.
* Sinh viên
Đại học Bách Khoa Hà Nội và Đại học Kiến trúc Đà Nẵng