Thích Thái Hòa
Ý nghĩa của Tứ tất đàn
Tứ Tất Đàn, tiếng Phạn là catvari siddhanta; catvari có nghĩa là tứ và
siddhanta phiên âm là tất đàn, có khi còn được phiên âm là “ Tất Đàm”, và dịch
là “Tác Thành Tựu”, có nghĩa là làm cho công việc thuyết pháp của Đức Phật được
thành tựu. Chữ siddhanta, Hán dịch là "thành tựu",
nghĩa là nhờ dựa vào bốn phương pháp này, mà Đức Phật thuyết pháp
và thành tựu được sự nghiệp hoằng hóa, giáo hóa chúng sinh, đưa chúng sinh từ mê
lầm đến giác ngộ, từ sinh tử đến Niết Bàn, từ phàm lên Thánh, từ mê lầm đến sự
hiểu biết cao thượng.
âm nhạc phật giáo
Nội dung của Tứ tất
đàn
1. Thế giới tất đàn
Thế giới tất đàn có nghĩa là thành tựu đối với thế gian. Đức Phật có cái nhìn
thành tựu về thế gian và cái nhìn chính xác về các pháp thế gian, nên Ngài có
thể chuyển hóa, đưa
các chúng sinh đang sống trong thế gian đi về với Phật đạo, đi về với sự giác
ngộ.
Đức Phật ứng dụng
Pháp này vào trong thế gian, tức là tùy thuận theo các
pháp của thế gian để giảng dạy giáo pháp do tự thân Ngài chứng ngộ. Chẳng hạn,
thế gian là vô thường thì Ngài nói là vô thường, và Ngài đã sử dụng những ngôn
ngữ của thế gian để diễn tả những tính chất vô thường ấy của các pháp thuộc về
thế gian như là năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới, như là khổ đế, tập đế v.v.
Chính những pháp này gọi là pháp thế gian.
Đức Phật đã thành tựu khi diễn giảng giáo pháp này đến cho những người
trong thế gian hiểu, để từ đó họ chuyển cái tâm mê lầm của họ thành tâm giác ngộ,
tâm phàm phu thành tâm bậc Thánh, tâm chúng sinh thành ra tâm Phật. Chuyển hóa
được như vậy là nhờ đức Phật đã sử dụng Thế giới tất đàn.
Và
sau khi chuyển hóa như vậy, tùy thuận để thuyết pháp như vậy, Đức Phật đã đưa họ
về với Đệ nhất nghĩa đế tức là chân lý rốt ráo.
Ở đây, Thầy nói rõ
thêm rằng: "thế gian là vô thường", vậy thì cái gì trong thế gian là vô thường?
Sắc uẩn thuộc về thế gian, nên Sắc uẩn là vô thường; Thọ uẩn thuộc về thế gian,
nên Thọ uẩn là vô thường; Tưởng uẩn thuộc về thế gian, nên Tưởng uẩn là vô
thường; Hành uẩn thuộc về thế gian, nên Hành uẩn là vô thường; Thức uẩn thuộc về
thế gian, nên Thức uẩn là vô thường. Nói một cách khác, thân năm uẩn của mỗi chúng sinh đều là vô thường.
Vì vậy, pháp thuộc về thế gian dù là pháp hữu tình
hay vô tình đều là vô thường. Và tại sao nó vô thường?
Bởi vì nó duyên khởi, quan hệ hỗ tương với nhau. Do sự quan hệ hỗ tương
duyên khởi, cho nên gọi là vô thường.
Như vậy, Đức Phật nói thế gian vô thường là Ngài thuận
theo các chân lý thế gian mà nói. Và Ngài đã sử dụng
ngôn ngữ của thế gian để nói, để trình bày pháp vô thường đó cho thế gian.
Đức Phật nói mười hai xứ hay mười tám giới là pháp thuộc về thế gian. Mười hai xứ là gì? Đó là sáu căn và sáu trần. Sáu căn gồm:
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Các căn này không tự
thân hiện hữu mà hiện hữu do quan hệ nhân duyên. Cái gì do quan hệ nhân duyên mà
có, cái đó là vô thường.
Như vậy, Đức Phật đã dùng con mắt thế gian để nhìn thế gian và nói
chuyện thế gian cho thế gian; Đức Phật đã sử dụng lỗ tai của thế gian để nghe và
nói sự thật của thế gian cho thế gian; Đức Phật đã dùng lỗ mũi của thế gian để
ngửi và nói lên sự thật cho thế gian; Đức Phật đã dùng ngôn ngữ, thiệt căn để
tiếp xúc với thế gian và nói rõ sự thật của thế gian cho thế gian; Đức Phật đã
dùng cái thân hình năm uẩn này để tiếp xúc với thế gian và nói rõ sự thật cho
thế gian; Đức Phật đã dùng ý căn thuộc về thế gian để tiếp xúc các pháp của thế
gian và nói rõ sự thật của thế gian cho thế gian. Vì vậy mà
gọi là Thế gian tất đàn, tức là thành tựu về mặt thế gian.
Đức Phật đã nhìn sáu trần, tức là sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp,
Ngài thấy từ bản chất cho đến hiện tượng của chúng một cách như thực và Ngài nói
sự thực đó cho chúng sanh trong thế gian và chúng sanh trong thế gian lãnh hội
được những gì do Ngài trình bày, nên gọi là Thế gian tất đàn.
Ở trong Pháp Tứ diệu đế, Đức Phật nói: đây là Khổ thánh đế; đây là Tập
thánh đế. Đây là Khổ thánh đế; đây là Tập
thánh đế ,
đó là pháp thế gian. Đức Phật nói "đây là Khổ thánh đế" mà thế
gian nhận ra được; "đây là Tập thánh đế" mà thế gian nhận ra được và đoạn trừ
được tập đế để xa lìa khổ đế. Với cách thuyết pháp như
vậy, đức Phật đã thành tựu về Thế giới tất đàn.
Và chính nơi những pháp thế gian này, Đức Phật lại chỉ rõ nhân duyên
sinh khởi và bản thể không sinh diệt của mỗi pháp, khiến cho những người trong
thế gian khi nghe Phật pháp liền sanh được chánh kiến, liền sanh khởi được chánh
trí và sinh ra hỷ lạc, sinh ra niềm vui lớn và khởi tâm tu tập, đoạn trừ các
phiền não; sinh ra đời sống giải thoát ngay ở trong thế gian này, ngay trong thế
giới này.
Như vậy, các anh/chị/em thấy rằng, bằng phương pháp Thế giới tất đàn,
Đức Phật đã thuyết Pháp không phải chỉ đúng cơ, đúng thời mà còn đúng lý.
Thuyết pháp đúng cơ mà không đúng thời, thuyết pháp như vậy là thất bại.
Thuyết pháp đúng thời mà không đúng cơ, thuyết pháp như vậy cũng không thành
tựu. Thuyết pháp đúng lý mà không đúng cơ, không đúng
thời, thuyết pháp như vậy cũng không đạt được thành công trong sự nghiệp hoằng
pháp.
Vì vậy, thuyết pháp phải đúng cơ, đúng thời, đúng lý.
Đúng cơ, là đúng với căn cơ trình độ. Đúng thời là
đúng thời điểm, đúng vào từng thời đại. Đúng lý là đúng với chân lý tất yếu.
Thuyết pháp vừa đúng cơ, đúng thời, đúng lý là sự
thuyết pháp được thành tựu. Mà việc thuyết pháp
này được thành tựu là nhờ sử dụng pháp Thế giới tất đàn.
Và do thuyết pháp bằng Thế giới tất đàn như vậy, do hoằng pháp bằng
Thế giới tất đàn như vậy, nên đem lại niềm vui chính đáng và sự hướng thượng cho
chúng sinh ở trong thế gian, hay nói cách khác là cho xã hội con người.
Vì vậy, Thế giới tất đàn còn gọi là Lạc dục tất đàn. Thuyết pháp mà đem
lại ưa muốn và niềm vui cao thượng cho thế gian, làm thay đổi những niềm vui
thấp kém của thế gian thành niềm vui cao thượng, biến niềm vui tầm thường của
thế gian thành niềm vui cao cả, niềm vui giải thoát, thuyết pháp như vậy gọi là
thành tựu về mặt Thế giới tất đàn.
2. Vị nhân tất đàn
Vị nhân tất đàn nghĩa là sự thuyết pháp, hoằng pháp,
làm việc đạo thành tựu đối với từng người, đối với từng đối tượng. Việc thuyết pháp đó là vì con người mà nói, vì con người mà diễn
giảng chánh pháp, vì con người mà làm việc đạo.
Muốn vì con người mà làm việc đạo để giúp cho họ được thành công thì
phải hiểu tâm lý của họ, phải hiểu rõ hoàn cảnh của họ, phải hiểu rõ nghiệp báo,
nhân duyên, nhân quả của họ để chuyển vận bánh xe chánh pháp giúp họ, giúp họ
tiến bộ, xả bỏ được khổ đau trong đời sống để đi tới với đời sống hạnh phúc;
giúp họ giải thoát khỏi những trói buộc để đi đến với đời sống tự do đích thực;
giúp họ thoát khỏi sự chậm tiến, đi tới với đời sống tiến bộ, văn minh.
Do đó, Vị nhân tất đàn nghĩa là khi mình thuyết pháp cho ai, thì phải
hiểu được người đó, hiểu được tâm lý, trình độ của họ, phải hiểu được nhân duyên
hoàn cảnh họ đang sống, thì mình mới giúp họ thoát khỏi được tình trạng của họ.
Các anh/chị/em hướng dẫn gia đình Phật tử, thì ngay
tại đơn vị của mình, nếu mình muốn giúp một em đoàn sinh nào đó, thì mình phải
hiểu tâm lý của em đó. Mà muốn hiểu được tâm lý của em, mình phải hiểu được nhân duyên của
em, tại sao chiều nay em không đi sinh hoạt, vì lý do gì?
Bản thân em đó nhác; hay em đó siêng năng, nhưng không khắc phục được hoàn cảnh
của mình, hay vì cha mẹ em gây nhau khiến việc đi sinh hoạt của em bị trở
ngại…Mình phải hiểu rõ điều đó thì mới có thể giúp được cho đoàn sinh của mình
và đưa em đó trở lại sinh hoạt với gia đình. Còn nếu mình không hiểu được tâm
lý, hoàn cảnh, những vướng mắc của đoàn sinh đó mà chỉ sử dụng kỷ luật, nội quy
của gia đình một cách cứng nhắc, máy móc thì mình sẽ thất bại trên con đường
chuyển hóa em đó.
Do đó, Vị nhân tất đàn rất quan trọng. Muốn thành
tựu được Pháp này, chúng ta phải nghiên cứu, phải hiểu được tâm lý đối tượng,
hoàn cảnh của đối tượng, nghiệp báo của đối tượng, nhân quả của đối tượng.
Lúc đó, chúng ta mới có thể chuyển vận Pháp luân thành công, mới thành tựu
được việc giáo hóa.
Vị nhân tất đàn còn được gọi là Các các vị nhân tất đàn.
Ngày xưa, Đức Phật thuyết pháp, giáo hóa thành tựu là do Ngài trình
bày Pháp một cách thực tiễn và phù hợp với từng căn cơ, hoàn cảnh
của từng người. Đối với người có căn cơ thấp, Ngài dạy giáo lý vừa
phải cho họ để họ có thể thực tập được giáo pháp của Ngài ngay
trong điều kiện của mình. Đối với người có căn cơ cao thì Ngài cũng
trình bày giáo lý theo
căn cơ của họ và phù hợp với điều kiện thực tập của họ. Có những
người căn cơ cao, nhưng điều kiện thực tập không có, hoàn cảnh không
thuận lợi, Ngài cũng biết rõ để giúp, để chỉ cho họ cách hành trì
Pháp hiệu quả. Như vậy gọi là Vị nhân tất đàn.
Ngày xưa, Đức Phật đã từng giáo hóa những nhà ngoại đạo,
giúp họ trở về với Phật. Thậm chí, các giáo chủ tôn giáo khác cũng
được Đức Phật giáo hóa, chẳng hạn như ba anh em ngài Ca Diếp, đều là
giáo chủ của đạo thờ Thần Lửa, đều có đông đảo quần chúng. Khi đã giáo hóa được Ngài Đại Ca Diếp, nhưng còn hai
người em của Ngài vẫn đang còn đi theo tà kiến, nên Đức Phật biết rất
rõ những khó khăn mà Ngài Đại Ca Diếp sẽ gặp phải khi đi theo mình.
Biết được như vậy, nên Đức Phật đã có cách hỗ trợ, giúp đỡ, giáo
hóa thích hợp khiến cho Ngài Đại Ca Diếp quay về được với Phật Pháp
mà không bị một trở ngại nào. Sự giáo hóa thành công của Đức Phật
đối với ba anh em Đại Ca Diếp là do Đức Phật đã sử dụng pháp Vị nhân tất
đàn.
Do đó ngày nay, các anh/chị/em học pháp Vị nhân tất đàn này
cũng vậy. Khi muốn giáo hóa một người ngoại đạo, thì mình phải hiểu
tôn giáo của
người ta, chẳng hạn, mình phải biết chủ trương của tôn giáo đó
đúng ngang đâu, sai ngang đâu; chỗ nào rốt ráo, chỗ nào chưa rốt ráo.
Sau đó, mình phải tìm cách trình bày giáo lý của mình thật khéo léo,
mình đừng tấn công họ, đừng đã kích họ mà chỉ đưa ra những ví dụ,
những ẩn dụ, làm sao thông qua các ví dụ, ẩn dụ đó, chân nghĩa hiện
ra, rồi người ta tự nhận thấy và chuyển hóa hoàn cảnh, tri thức và
niềm tin của họ.
Như vậy, trong suốt cuộc đời hoằng pháp của
Đức Phật, Ngài không xem bất cứ một đối tượng nào là đối lập hay
đối kháng của Ngài cả. Do đó mà Ngài
thành tựu được trên con đường hoằng pháp.
Trong kinh, Đức Phật đã nói: "Như Lai không tranh cãi với đời,
chỉ có đời tranh cãi với Như Lai". Bởi vì đời còn hơn
thua, thị phi, đúng sai. Còn Phật đã vượt hẳn ra khỏi tầm đúng sai nhị nguyên đối
đãi của thế gian rồi. Cho nên, những cái đúng sai của thế gian không
chao động tới được cái tâm của Ngài.
Và trong cuộc đời hoằng pháp của Đức Phật, đối với căn cơ
của người nghe như thế nào, Ngài trình bày Pháp đúng như thế ấy, để
cho người nghe có thể phát khởi niềm tin đối với chánh Pháp và thực
hành theo Pháp mà khởi sanh được chánh kiến, chánh trí và dẫn sinh
được niềm vui trong sự tu học.
Các anh/chị/em trại sinh Vạn Hạnh I, Hoa Kỳ sau khi học Tứ tất
đàn này rồi cũng vậy, quý vị phải tùy theo hoàn cảnh, trình độ của
từng đoàn sinh trong gia đình mình; tùy theo hoàn cảnh, trình độ của
từng đơn vị, từng nền văn hóa, từng xã hội của mình mà ứng dụng.
Mà muốn được như vậy, chúng ta phải thực tập Thế gian tất đàn, tức
là đi đến đâu, chúng ta phải học hỏi văn hóa, phong tục, tập quán,
tín ngưỡng ở nơi vùng đó.
Ngày trước, khi học tại Quảng Hương Già Lam- Sài Gòn, quý Ôn,
quý Thầy dạy Thầy đi về miền Tây để tiếp xúc với Tăng Ni Phật tử ở
đó. Khi đi nghiên cứu và tiếp xúc với Phật giáo vùng nầy, Thầy ứng dụng các
Pháp tất đàn. Về đó, có những vấn đề Phật Pháp, họ nói không phù
hợp với cái mình đã học, nhưng mình vẫn nghiên cứu những điều của họ
trình bày, nhưng không chống đối họ, để mình có thể xâm nhập được vào
trong họ và cuối cùng mình có thể trình bày giáo lý một cách khoa
học hơn, có tính cách thực nghiệm hơn cho họ, và từ từ họ sẽ chấp
nhận và đi theo mình. Còn nếu đi tới đâu, mình chỉ biết nói theo cái hiểu
của mình, mà không biết nghe và hiểu theo cái hiểu của người ta, thì mình sẽ
không giúp được họ mà trở thành đối lập với họ, như vậy là mình sẽ thất
bại. Dù cho mình có tài giỏi đến mấy cũng sẽ thất bại. Đó là điều
mà các anh/chị/em phải lưu ý để ứng dụng Tứ tất đàn vào việc hoằng
pháp và trong sự nghiệp tu tập của mình.
Như vậy, hoằng pháp bằng phương pháp Vị nhân tất đàn, Đức
Phật thuyết Pháp không chỉ đúng cơ, đúng thời mà còn phải đúng lý,
có khả năng phát khởi thiện căn nơi người nghe và khiến cho người nghe
có thể tu tập và tiến tới thành tựu được các pháp tối hậu. Vì
vậy, Vị nhân tất đàn còn gọi là Thiện sanh tất đàn.
Khi thuyết pháp, mình phải làm thế nào để người nghe phát
sinh được thiện tâm, phát khởi được niềm tin Phật Pháp Tăng, có được
niềm tin nhân quả nghiệp báo, có được niềm tin yêu mến điều thiện. Khi
một người đã có được sự yêu mến điều thiện rồi, thì từ từ mình sẽ
dìu dắt họ đi từ một điều thiện chưa hoàn chỉnh tới một điều thiện
hoàn chỉnh, xuất phát từ một điều thiện thấp dẫn sinh ra điều thiện
cao. Đó là công việc mà các anh/chị/em sau khi học Vạn Hạnh I rồi,
phải biết ứng dụng phương pháp Vị nhân tất đàn để có thể chuyển hóa
xã hội, góp phần vào xây dựng xã hội theo tinh thần Phật giáo. Đối
tượng cho các anh/chị/em hướng tới là đồng niên, thanh thiếu niên, như
nội quy, quy chế gia đình phật tử đã quy định: “mục đích của gia đình
phật tử là đào tạo, huấn luyện những thanh thiếu đồng niên trở thành
những Phật tử chân chính, góp phần xây dựng xã hội theo tinh thần
Phật giáo”. Vậy, mình đào tạo và huấn luyện thanh
thiếu đồng niên bằng phương pháp nào?
Bằng phương pháp của Tứ tất đàn này. Khi mình hướng
dẫn bằng phương pháp Tứ tất đàn này, thì mình mới có thể thành tựu
được các mục đích của mình.
3. Đối trị tất
đàn
Đối trị có nghĩa là trị liệu, chuyển hóa. Đối trị tất đàn có nghĩa là chuyển hóa
thành tựu hay đối trị thành tựu. Pháp Đức Phật dạy nhắm tới
chuyển hóa những phiền não nơi tâm chúng sinh. Mọi phương pháp mà Đức
Phật dạy, Ngài nói bằng cách này hay bằng cách khác, Ngài nói cao, nói thấp;
Ngài nói rộng, nói hẹp; Ngài nói một cách tha thiết hay nói một cách khắc khổ
hay nói một cách sâu sắc, tất cả là nhằm mục đích làm cho người nghe, nghe hiểu,
thực hành được và chuyển hóa những phiền não ở nơi tâm họ.
Ví dụ, đối với những chúng sinh nặng về tham dục, thì
Ngài nói về những nguy hiểm của các dục đem lại. Nhưng, muốn nói
được sự nguy hiểm do các dục đem lại, thì trước hết, Đức Phật vẫn nói về vị ngọt
hấp dẫn của thế gian. Nếu nói rằng "danh không có sự hấp dẫn",
thế gian sẽ không tin.
Cho nên, Đức Phật nói các danh tướng của thế gian vẫn có vị ngọt, vẫn có sự hấp
dẫn của nó, nhưng người đời chỉ thấy được sự hấp dẫn, thấy được vị ngọt mà không
thấy được nguy hiểm của nó. Do đó, đằng sau vị ngọt của các dục thế gian là cả
một sự đắng cay, nguy hiểm. Cũng giống như con cá chỉ thấy được miếng mồi mà
không thấy được lưỡi câu ở trong miếng mồi. Mình nói với cá rằng "cá ơi, đừng ăn miếng mồi mà mắc lưỡi câu" thì chắc chắn cá sẽ không nghe,
vì nó chỉ thấy được miếng mồi là vị ngọt. Nhưng, người có trí sẽ thấy được đằng sau miếng mồi là lưỡi câu.
Cũng vậy, các dục thế gian có sự hấp dẫn, có sự lôi kéo, có sự cuốn hút vì nó có
vị ngọt. Nhưng thế gian không hiểu rõ, sau vị ngọt đó là lưỡi câu, là sự
nguy hiểm, là hạnh phúc tan nát, nên Đức Phật nói các dục thế gian có vị ngọt,
nhưng Ngài còn nói, sau vị ngọt đó là sự nguy hiểm. Nguy hiểm
đó là gì?
Đó là các dục thế gian đều dẫn tới sanh, già, bệnh, chết và
bất như ý, cho nên các dục thế gian không bao giờ đáp ứng được nhu cầu của con
người, tham dục của con người. Cho nên, Đức Phật nói
tham dục là nguy hiểm, ly dục là để đối trị và chuyển hóa tính tham dục ở trong
con người.
Chắc chắn, các anh/chị/em đã đọc kinh Thủ Lăng
Nghiêm, đã biết câu chuyện giữa nàng Ma Đăng Già và Ngài A Nan. Nàng Ma Đăng Già rất mê ngài A Nan. Nàng mê cái gì? Không phải mê sự tu học, cái đức độ của ngài A Nan mà
mê cái sắc của Ngài, vì ngài A Nan khi trẻ rất đẹp, xuất thân hoàng gia và lại
rất thông minh. Vì vậy, suýt nữa ngài A Nan bị nạn, được Đức
Phật cứu, đưa về. Nàng Ma Đăng Già đi theo, đến gặp Phật, đòi cho nàng được sống cùng ngài A Nan.
Đức Phật cười, nói với Ma Đăng Già rằng "cũng được, nhưng trước tiên hãy nghe
Như Lai hỏi đôi điều". Đức Phật hỏi Ma Đăng Già rằng "con yêu cái gì ở
ngài A Nan?".
Ma Đăng Già trả lời "con yêu đôi mắt đẹp của Ngài". Đức Phật nói đôi
mắt ngài A Nan đâu có đẹp, trong con mắt đẹp đó, cả ghèn trong, chứ có gì đẹp
đâu!
Ma Đăng Già : "Con yêu lỗ tai của Ngài A
Nan"- Phật nói "lỗ tai A Nan đầy cứt ráy, chứ có gì mà đẹp!"
Ma Đăng Già : "Con yêu cái miệng của Ngài A
Nan"- Phật nói "miệng A Nan ngủ dậy mà không súc, không đánh răng thì hôi lắm, chứ
có gì mà đẹp!". Ma Đăng Già : "Con yêu cái mũi của Ngài
A Nan"- Phật nói "mũi đó cũng đầy chất dơ bẩn, chứ có gì mà đẹp!".
Ma Đăng Già : "Con yêu cả thân thể của Ngài A
Nan"- Phật nói "thân thể A Nan nếu hai ngày mà không tắm thì chẳng có ai chịu
nổi, chứ có gì mà đẹp, có gì đâu mà đáng yêu!".
Từ đó, Ma Đăng Già nhận ra được thân thể này không có gì gọi là trong
sạch, không có gì đẹp đẽ như mình tưởng tượng, nên nàng nhàm chán tham dục, phát
tâm xuất gia, được Đức Phật hướng dẫn, đã tu tập rất giỏi và thành công.
Như vậy, các anh/chị/em thấy rằng, Đối trị tất đàn là tùy
theo
căn cơ, tùy theo tham dục của từng người mà Đức Phật thuyết pháp để giáo hóa cho
họ, chuyển hóa tâm thấp kém nơi họ. Người tham sắc, thì Ngài nói sự nguy hiểm của sắc dục.
Người tham tài, thì Ngài nói về nguy hiểm của tài dục.
Người tham danh, thì Ngài nói sự nguy hiểm của danh dục.
Người tham ăn uống, thì Đức Phật nói về nguy hiểm và lợi ích do sự
ăn uống đem lại. Có người ham ngủ, thì Đức Phật nói về nguy hiểm và lợi
ích do ngủ đem lại. Tuy, đối trị như vậy, nhưng không dồn người khác vào chỗ bế
tắc, mà đưa họ đến chỗ nhận ra được chân lý và cuối cùng, Ngài hướng dẫn cho họ
thực tập theo pháp Trung đạo, tức là không thái quá,
không bất cập, biết vừa phải. Sống cuộc đời biết vừa phải, sống trung đạo như vậy, thì xa lìa được
hai cực đoan là ép xác khổ hạnh và buông lung trong các dục.
Cho nên, Đối trị tất đàn không có nghĩa là dồn người khác vào chỗ bế tắc, mà chỉ
rõ cái chân nghĩa cho họ, để họ thực tập và từ đó có sự an lạc, hạnh phúc.
Đối trị tất đàn là phương pháp trị liệu, là dược liệu
trị bệnh chúng sinh. Do Pháp này mà thế gian nhìn Đức Phật như là một vị Y
Vương, là vị vua trong ngành y học, biết tùy bệnh cho thuốc. Pháp của Phật trình
bày giống như lương dược, là diệu dược mà tùy theo
bệnh trạng, thực hành Pháp đó sẽ được chuyển hóa, đưa lại sự an lạc của thân và
tâm.
Đối với những chúng sinh đầy sân hận, Đức Phật dạy
cho họ pháp từ bi, thực hành tâm từ bi, thương người như thể thương thân. Mình thương người khác chính là mình đang thương thân thể mình.
Mình thương cuộc đời cũng chính là đang thương mình.
Mình giận người khác, là mình đang gây thiệt hại cho chính mình.
Khi mình làm cho ai khổ đau, thì bản thân mình khổ đau trước người đó.
Đọc trong các kinh, chúng ta sẽ thấy Đức Phật nói rất nhiều ví dụ về điểm này.
Chẳng hạn, mình có tâm sân hận muốn hại người khác, thì trong kinh Tứ Thập Nhị
chương, Đức Phật nói "nghịch phong dương
trần, trần bất chí bỉ, hoàn phấn kỷ thân. Ngưỡng diện thóa thiên, thóa bất chí thiên
hoàn tùng kỷ đọa", nghĩa là người ác mà hại người lành, thì giống như người
đi ngược gió dê bụi, bụi không tới người kia
mà lại vướng vào nơi mình. Kẻ ác mà hại người hiền thiện,
người đạo đức, cũng như người giận trời, ngửa mặt nhổ nước miếng lên trời, nước
miếng không thấu trời mà rơi lại nơi mặt mình. Do đó, người ác mà hại
người lành; người kém đạo đức ganh tị với người đạo đức; người không có tài năng
ganh tị với người có tài năng, thì chỉ gây thiệt hại cho chính mình mà thôi.
Người nghe hiểu được như vậy, họ sẽ bỏ tâm ganh tị đi, bỏ tâm giận hờn đi, bỏ
tâm trách móc vì ganh tị. Giận hờn, trách móc đều gây
thiệt hại cho tâm mình, cho đời sống của mình nhiều hơn cho đối tượng mà mình
ganh tị. Nhờ vậy, người đó thành tựu được tâm an lạc,
tâm giải thoát, tâm cao quý. Đó gọi là pháp Đối trị tất
đàn.
Đối với những người ngu si, vô trí, tà kiến, cho rằng thế giới này do
thần linh tạo nên, do một thần minh tạo nên, do một thượng đế tạo nên, thì Đức
Phật không bác bỏ trực tiếp cái đó, mà Ngài nói về giáo lý duyên khởi.
Nghĩa là mọi sự hiện hữu giữa thế gian này, không có cái gì hiện hữu đơn thuần
mà có thể tồn tại, mà mọi thứ chỉ có thể tồn tại trong quan hệ nhân duyên.
Nếu mình quán chiếu nhân duyên này thật sâu sắc, thì niềm tin đối với một thượng
đế, một thần linh, một nhất thần giáo sẽ tự động rơi rụng đi, chứ Ngài không hề
tấn công bất cứ một thượng đế hay thần linh nào cả. Ngài chỉ
bật ngọn đèn cho người khác thấy. Khi họ đã thấy, họ
sẽ tự thay đổi tâm của chính họ, thay đổi cái nhìn của chính họ, thay đổi niềm
tin của họ. Họ tự thay đổi và tự hoàn thiện niềm tin
của họ, đó mới là điều quan trọng.
Họ tự thay đổi, tự hoàn chỉnh nhận thức, hiểu biết của họ, đó
mới là điều quan trọng. Khi một người nhận ra được và tự hoàn chỉnh niềm tin của mình, thì
ngay nơi sự hoàn chỉnh đó, họ có hạnh phúc, an lạc.
Khi một người có được ánh sáng soi rọi vào và tự hoàn chỉnh hiểu biết của mình,
thì ngay nơi sự hoàn chỉnh đó, họ có an lạc hạnh phúc, có cơ sở vững chãi để
tiến lên những mức độ cao hơn, hiểu biết cao hơn, đời sống cao hơn.
Đó chính là tác dụng của Đối trị tất đàn.
Nói một cách khác, chúng sinh có bao nhiêu
phiền não, thì Phật có bấy nhiêu pháp môn, bấy nhiêu phương tiện để
chuyển hóa phiền não cho chúng sinh. Cho nên chúng sinh có vô lượng phiền não, thì Phật
Pháp có vô biên pháp môn tu tập để chuyển hóa. Khi nhận ra được điều
này rồi, thì người Phật tử chúng ta không còn tu tập một cách cực
đoan và cục bộ, không còn bị mắc kẹt bởi trường phái này hay trường
phái kia, mà thấy được rằng, trường phái nào cũng là những khía cạnh
của Phật pháp. Chúng ta đến với đạo Phật, chứ chúng ta không đến với
trường phái này hay trường phái nọ, với pháp môn này hay pháp môn kia.
Nếu chúng ta đến với bất kỳ một trường phái nào, là chúng ta đánh
mất đạo Phật toàn thể. Đến với đạo Phật mà bị kẹt vào một khía cạnh,
một trường phái, một pháp môn,
thì đó là một sự mất mát thiệt hại cho ta.
Đặc biệt trong thời đại của chúng ta, các anh/chị/em phải lưu ý điểm
này.
Đôi khi mình tu học Thiền tông, nên mình tấn công Tịnh độ;
mình tu học Tịnh độ thì mình tấn công Thiền; mình tu học Mật tông
thì lại tấn công Thiền, tấn công Tịnh độ; tu học theo Hiển giáo lại
tấn công Mật giáo hay mình tu theo phương pháp theo dõi hơi thở, thì
mình tấn công người niệm Phật. Như vậy rõ ràng là mình đã không hiểu
về giáo pháp của Đức Phật, không hiểu về phương pháp Đối trị tất
đàn.
Các anh/chị/em đã từng nghe câu chuyện người
mù rờ voi. Có mấy người mù rờ voi, người rờ được cái đuôi
thì họ nói con voi giống cái chổi; người rờ được cái chân thì nói con
voi giống cái chày; người rờ được lỗ tai, thì nói con voi giống cái
quạt. Người rờ cái đuôi và nói rằng, con voi giống cái chổi, người
ấy nói không sai, nhưng lại không phải đúng hoàn toàn. Người ấy chấp
một bộ phận con voi thành toàn thể. Chỉ có người mắt
sáng mới biết tất cả những gì người mù ấy nói không sai, nhưng cũng
không đúng, vì người mù đã chấp một bộ phận của con voi là toàn thể
con voi.
Sai là sai ở chỗ đó.
Mặc dù người mù có xúc chạm con voi, bằng chính bản thân họ, nhưng
vì xúc chạm bằng đôi mắt mù lòa, nên vẫn không thấy được thực tại
của voi là gì.
Phật tử chúng ta cũng vậy. Nếu chúng ta tu học mà không có
tuệ giác, chúng ta kẹt vào từng pháp môn, từng đối tượng, từng
trường phái của mình là mình chưa có sự toàn giác, chưa đi đúng
hướng của Phật pháp. Vì vậy mà trong Phật giáo chia bè, chia nhóm.
Nhóm này nói xấu nhóm kia, nhóm kia tấn công nhóm này. Cuối cùng là
thân thể của Phật Pháp, thân thể đạo Phật bị phanh, bị xẻ, mà không
ai khác hơn, chính là "sư tử trùng trung, thực sư tử nhục". Đó là
điều mà các anh/chị/em khi học pháp Đối trị tất đàn này phải nhận
ra cho rõ, để mình có được con đường vững chãi mà tu học, phụng sự
chánh pháp, phụng sự dân tộc và nhân loại đúng như trong lời mở đầu
của hiến
chương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất đã nêu.
Vì vậy, Đối trị tất đàn còn gọi là Đoạn ác tất đàn,
nghĩa là Đối trị tất đàn giúp cho chúng sinh đoạn trừ tất cả những
ác kiến, những nhận thức sai lầm dẫn tới những việc làm ác; giúp
cho chúng sinh đoạn trừ những phiền não chấm dứt khổ đau. Nói một cách
đúng với Phật học chuyên môn, Đối trị tất đàn giúp cho người thực
tập đoạn trừ phiền não chướng, là những chướng ngại thuộc về phiền
não ở nơi tâm, để có tâm giải thoát, tâm an vui; đoạn trừ sở tri
chướng, là những chướng ngại đối với sở tri, đối với sự giác ngộ
để có tuệ giác toàn bộ.
Chốt lại, Đối trị tất đàn có tác dụng đoạn trừ hai mặt,
mặt phiền não chướng ở nơi tâm và sở tri chướng là những chướng ngại
đối với trí tuệ, để có được tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Một
người có tâm giải thoát, có tuệ giải thoát, thì ở bất cứ đâu, làm
bất cứ việc gì cho bất cứ ai, cũng đều thành tựu.
Đó là Đối trị tất đàn.
4. Đệ nhất
nghĩa tất đàn
Đệ nhất nghĩa tất đàn tức là sự thành tựu
tối thượng. Đó là sự thành tựu tuyệt đối. Đó
là mục đích hoằng Pháp của Đức Phật. Nên, Đức Phật thuyết pháp bằng
Thế giới tất đàn, bằng Vị nhân tất đàn, bằng Đối trị tất đàn, với
mục tiêu cuối cùng là để hiển thị Đệ nhất nghĩa tất đàn. Nghĩa là
Đức Phật thuận theo thế gian để làm gì, thuận theo từng người để
thuyết pháp, nhằm mục đích gì, đối trị với từng căn bệnh phiền não,
sở tri của từng người để làm gì? Để đưa họ đi về
với Đệ nhất nghĩa tất đàn, tức là cuối cùng sẽ hiển thị cho họ
thấy được chân lý tuyệt đối.
Chân lý tuyệt đối mà Đức Phật giảng cho mọi
người, nói cho mọi chúng sinh là gì? Đó là "tất cả chúng sinh đều có Phật tính, đều có khả
năng thành Phật". Muốn thành Phật thì phải
chứng nhập Phật tính. Muốn chứng nhập Phật tính thì phải từ
nơi tâm bồ đề hay từ nơi bản giác mà phát khởi đại nguyện lợi hành,
giáo hóa hết thảy chúng sinh bằng phương pháp này hay phương pháp
khác. Giáo hóa nhưng không mắc kẹt vào nơi phương pháp giáo hóa, nơi
hình thức giáo hóa, khiến cho chúng sinh được giáo hóa đi tới được
với chân lý tuyệt đối, với hạnh phúc an lạc. Đó là Đệ nhất nghĩa
đế tất đàn.
Do đó, trong Luận đại trí độ, ngài Long Thọ nói "trong Tứ
tất đàn thâu nhiếp hết thảy mười hai thể loại kinh và tám vạn bốn
ngàn pháp tạng" đều là thực mà không có gì mâu thuẫn nhau. Trong Phật
Pháp hết thảy đều là thực, có pháp thực, vì theo nghĩa của Thế
giới tất đàn; có pháp thực vì theo nghĩa của Các các vị nhân tất
đàn; có pháp thực vì theo nghĩa của Đối trị tất đàn và có pháp
thực, vì theo nghĩa của Đệ nhất nghĩa đế tất đàn.
Như vậy, các anh/chị/em thấy rằng, mỗi thời Đức Phật thuyết
pháp, thì ngay trong pháp được thuyết bởi Ngài, đều chuyển tải đầy
đủ cả Tứ tất đàn; ba tất đàn trước thuộc về phương tiện, tất đàn
sau, tức là Đệ nhất nghĩa tất đàn, là cứu cánh. Cứu cánh, nhưng
không rời phương tiện. Cứu cánh có mặt ngay nơi những phương tiện mà
Đức Phật sử dụng để thuyết pháp. Nghĩa là trong khi Đức Phật thuyết
pháp, Ngài sử dụng những phương tiện của thế gian như ngôn thuyết,
những tư duy… để chỉ bày chân nghĩa cho người nghe, chân lý cho người
thấy. Nên, những phương tiện Đức Phật đã sử dụng đó, không còn là
những phương tiện đơn thuần, mà là những phương tiện có nội dung, có
tác dụng hiển thị chân lý, tức là hiển thị Đệ nhất nghĩa đế tất
đàn.
Bởi vậy, nếu nghiên cứu kỹ, chúng ta sẽ thấy ngay trong Thế
giới tất đàn có Đệ nhất nghĩa tất đàn, ngay trong Vị nhân tất đàn
có Đệ nhất nghĩa tất đàn, ngay trong Đối trị tất đàn có Đệ nhất
nghĩa tất đàn. Đây là điều các anh/chị/em cần lưu ý khi trình bày và
thực hành giáo lý Tứ tất đàn, nghĩa là mục đích không rời phương
tiện; phương tiện phải được bảo chứng để đi tới mục đích. Tức là
chúng ta tùy duyên mà bất biến; bất biến ngay nơi cái tùy duyên của
mình, chứ tùy duyên và bất biến không phải là hai cái tách rời nhau.
Tùy duyên phải bảo chứng được cho nội dung bất biến; bất biến phải
bảo chứng để tùy duyên đi tới. Bất biến phải là lực hút để hút tùy
duyên đi tới mà không bị chệch hướng và tùy duyên phải hàm chứa nội
dung bất biến. Khi học Tứ tất đàn rồi, chúng ta mới có thể ứng dụng
được giáo lý của Phật vào trong đời sống xã hội. Do đó, chúng ta
sang phần IV, tính chất tùy duyên và bất biến của Tứ tất đàn.
Tính chất tùy
duyên
và bất biến
của Tứ tất đàn
Trong Tứ tất đàn, thì Thế giới tất đàn hay Thế gian tất
đàn, Vị nhân tất đàn, Đối trị tất đàn thuộc về tùy duyên ở trong
đạo Phật, tùy duyên hành đạo, tùy duyên hoằng Pháp ở trong đạo Phật;
còn Đệ nhất nghĩa tất đàn là cứu cánh, là mục đích của đạo Phật.
Tùy duyên là để đạt mục đích, chứ tùy duyên mà không đạt
được mục đích của mình thì tùy duyên sẽ trở thành tùy tiện, như vậy
sẽ đi chệch hướng của đạo Phật, đi chệch hướng với lý tưởng của
mình.
Do đó, chúng ta phải nắm cho được cái tùy duyên bất biến và
bất biến tùy duyên ở trong đạo Phật.
Ngày nay, người ta lạm dụng cái tùy duyên bất biến này hơi
nhiều. Một người đã thực sự lên đến đỉnh núi rồi, đã thực sự ngồi
trên đỉnh núi tuệ giác rồi, người ấy quán chiếu thấy được căn cơ của
chúng sinh như thế nào rồi, mới bắt đầu xuống núi để tùy duyên giáo
hóa. Còn chúng ta, phần nhiều là những người đang còn leo núi, chưa
lên đến đỉnh mà chúng ta tùy duyên, thì nghe người này nói leo đường
này thì mình cũng leo đường này; nghe người kia nói đi đường kia mới
tới, mình liền chạy qua đường đó; rồi lại có người nói có con đường
khác nhanh hơn nữa, mình liền bỏ đường cũ, leo theo con đường người đó
nói. Cuối cùng, vì tùy duyên nên mình đi loanh quanh.
Loanh quanh hoài, nên chẳng bao giờ đạt tới được mục đích của mình.
Cũng như Trịnh Công Sơn nói "đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt".
Cho nên thế gian là pháp loanh quanh. Chỉ có khi
nào, ta có Phật Pháp, có chánh đạo mới có trực đạo đi thẳng.
Quý vị phải biết rằng, trong Thế gian tất đàn có Đệ nhất
nghĩa tất đàn, nên nói theo thế gian mà không
sai với chính nghĩa; nói thuận theo với thế gian mà không sai với Niết
bàn; ở trong sinh tử mà không sai với Niết bàn giải thoát.
Cũng vậy, trong Vị nhân tất đàn có Đệ nhất
nghĩa tất đàn, trong Đối trị tất đàn có Đệ nhất nghĩa tất đàn.
Chúng ta phải tùy căn cơ, tùy từng hoàn cảnh của con người,
từng hoàn cảnh xã hội mà giáo hóa, chúng ta tùy thuận mà không tùy
thuộc. Vì sao? Vì trong Đối trị tất đàn, trong Vị nhân tất đàn, trong
Thế gian tất đàn, mỗi cái đều có Đệ nhất nghĩa tất đàn. Cho nên,
trong cái tùy duyên có tính chất bất biến bên trong.
Đây là điều mà các anh/chị/em cần phải học
tập, chiêm nghiệm để có thể hành đạo được ở bất cứ nơi đâu, bất cứ
lúc nào.