(Pháp Thoại
Thầy Thái Hòa Giảng Ngày 17/4/Tân Mão – 19/5/2011), Cho Hương Linh Nguyễn Thị Vỹ,
Pháp danh Nguyên Khai, Tại Làng An Bằng, Vinh An, Phú Vang, TT Huế)
.
Tiếp Xúc
Trong Thiền tập:
Xin tất cả
quý vị trong tang quyến, cũng như toàn thể quý vị có mặt để hộ niệm cho buổi lễ
này, xin tất cả quý vị đưa hai bàn tay của mình chạm vào trái tim, tập trung tâm ý theo dõi hơi
thở, khi nghe tôi thỉnh tiếng chuông.
“Lắng
lòng nghe, lắng lòng nghe
Tiếng
chuông huyền diệu đưa về nhất tâm”.(C)
Thở vào,
thở ra, tôi ý thức rất rõ là tôi đang thở vào và thở ra .
Thở vào và thở ra tôi ý thức rất rõ trong trái tim tôi giờ này, đang có mặt của
tổ tiên, ông bà nội ngoại của chúng tôi, đang có mặt của cha mẹ chúng tôi, đang
có mặt của anh em chúng tôi và của tất cả mọi người và mọi loài. Trái
tim đang hiện hữu nơi tôi là thành quả của quá khứ và tác nhân của thế hệ
con cháu ở trong tương lai của chúng tôi.
Dù cha mẹ
của chúng tôi đã qua đời hay còn tại thế, thì vẫn luôn luôn có mặt ở trong trái
tim
chúng tôi trong từng hơi thở vào và ra.
Chúng tôi thực tập hơi thở có ý thức đối với tổ tiên, ông bà nội
ngoại thì tức khắc, ông bà tổ tiên, ông bà nội ngoại sẽ có mặt ngay trong giờ
phút này.
Thực tập
với hơi thở có ý thức đối với cha mẹ chúng tôi thì tức khắc dù cha mẹ đã qua đời
hay còn tại thế vẫn có mặt trong giờ phút này ở trong trái tim
tôi.
Và chúng
tôi thở với ý thức tỉnh giác thì anh chị em của chúng tôi dù đang có mặt hay
đang hiện hữu ở phương trời nào, thì cũng đều đang có mặt ở trong trái
tim tôi trong giờ phút này.
Thở và ý
thức tỉnh giác tôi biết trong trái tim
tôi sẽ mở ra những hoa trái giác ngộ cho mỗi chúng tôi, cho tổ tiên của chúng
tôi trong quá khứ và cho những thế hệ con cháu của chúng tôi trong tương lai.
Xin tất cả
quý vị bỏ tay xuống ,
ngồi trong tư thế thoải mái hướng về Tam Bảo, hướng về thân linh của mình để
nghe pháp thoại.
Hai Hạt
Minh Châu Cho Người Sống:
Cùng tất cả
quý vị thân mến .
Sống chưa
hẳn là hạnh phúc hay may mắn, thì chết chưa phải là rủi ro hay bất hạnh.
Nếu ta sống
mà trong đời sống của mỗi chúng ta, thiếu đi chất liệu của Hiếu và Kính, thì
chúng ta sẽ trở thành con người bất hạnh ở trong gia đình, chúng ta sẽ trở thành
người con, người cháu bất hạnh ở trong dòng họ của chúng ta và chúng ta sẽ trở
thành con người vĩnh viễn bất hạnh ở thế giới loài người.
Cho nên ở
nơi gia đình nào, ở nơi xã hội nào mà con người sống thiếu hai chất liệu Hiếu và
Kính thì ở nơi gia đình đó, ở nơi xã hội đó có sự bất hạnh, có sự khổ đau và có
sự đi xuống nơi cảnh giới thấp kém.
Thiếu chất
liệu Hiếu và Kính là sống rủi ro, là sống bất hạnh, càng sống thì càng rủi ro,
càng sống thì càng bất hạnh, càng sống thì càng đau khổ, càng sống thì càng thất
vọng và một ngày đi qua đời ta là một ngày đẩy ta đi tới với thế giới địa ngục,
ngạ quỷ và súc sinh.
Thế giới
địa ngục là thế giới dành cho con người thiếu chất liệu Hiếu và Kính, ở thế giới
đó người ta muốn gọi tiếng Cha ơi cũng không được, muốn gọi lên tiếng Mẹ ơi cũng
không được. Sống mà mất hết chất liệu Hiếu và Kính, thì sẽ sa vào cảnh giới của ngạ quỷ.
Cảnh giới
đó là cảnh giới đói nghèo và trong cảnh giới đói nghèo đó là đói nghèo về tình
cảm, đói nghèo về đức tin, đói nghèo tình cảm quý báu nhất đó là tình cảm Cha và
Mẹ. Cho nên ai mà trong đời sống của họ thiếu đi chất liệu Hiếu và Kính, người
đó sẽ vĩnh viễn đói nghèo, đói nghèo tình cảm và đói nghèo đời sống tinh thần.
Tuy thân họ sống trong cung điện, nhưng đó là trá hình của loài ngạ quỷ đói
nghèo.
Ở trong
đời, ai mà sống thiếu chất liệu Hiếu và Kính, thì trước sau gì, họ cũng rơi vào
thế giới của loài súc sinh, đó là cảnh giới mà không biết cha mình ở đâu, mẹ
mình ở đâu, không biết quê hương xứ sở của mình ở đâu. Dù ở bên mẹ mà vẫn dày xéo mẹ, làm cho mẹ mình khổ đau, thì đó là
cảnh giới của loài súc sinh.
Cho nên, ở
trên đời, cái rủi ro lớn nhất của con người, cái bất hạnh lớn nhất của con người
là rơi đi hai hạt minh châu Hiếu và Kính ở trong tâm hồn của mình, ở trong đời
sống của mình, sống mà mất đi
hai hạt minh châu Hiếu và Kính thì đó là một đời sống rủi ro và bất hạnh. Chết
mà trong tâm hồn khô kiệt hai chất liệu Hiếu và Kính đó là một cái chết rủi ro,
một cái chết bất hạnh, vì cái chết đó là cái chết lầm lũi đi vào cảnh giới của
địa ngục, thế giới của nga quỷ, thế giới của súc sinh và chịu muôn vàn khổ đau,
nên chết như vậy là chết khổ đau và bất hạnh.
Ở trong đời
người nào có đủ hai chất liệu Hiếu và Kính, người đó là người may mắn, người đó
là người hạnh phúc, người đó là người có đầy đủ phước đức.
Bởi vì Hiếu và Kính là hai hạt minh châu quý báu tạo ra phước đức
cho chúng ta đời này và đời sau.
Hiếu và
Kính là hai chất liệu quý báu, là hạt minh châu tạo ra phước báu cho ta trong
cõi người, khiến ta sinh ra trong cõi người, ta sẽ có người cha thông minh đức
hạnh, ta sẽ có bà mẹ hiền dịu, dễ thương đã hy sinh toàn bộ cho con. Nếu ta sinh
lên cõi trời, thì cũng từ hạt minh châu đó mà phước báu chư thiên của chúng ta
được sung mãn và nếu chúng ta bước vào cõi Thánh, cõi
Phật cũng được thiết lập trên nền tảng của Hiếu và Kính. Không
có vị Thánh nào bất hiếu mà trở thành Thánh cả.
Không có vị Phật nào bất hiếu mà thành bậc Toàn giác bao giờ.
Cho nên
sống mà có hai chất liệu Hiếu và Kính trong đời sống của mình, trong mỗi trái
tim
của mình, trong mỗi cử chỉ, trong mỗi hành động của mình, đó là đời sống cao đẹp,
đời sống hạnh phúc, đời sống có ý nghĩa. Vì sao?
Vì đó là có cơ hội tiếp tục thăng hoa của mình từ một điểm đến toàn thể, từ một
điểm đến chỗ cao quý tột cùng.
Và nếu ta chết là hình hài này rã đi, các yếu tố vật chất
không còn đủ để cho ta hành hoạt. Nhưng nếu trong tâm thức ta có đầy đủ
hai chất liệu Hiếu và Kính, thì tuy hình hài ta hư rã, nhưng ta vẫn hạnh phúc và
may mắn, bởi vì ta có viên minh châu Hiếu và Kính trong tâm ta, trong nghiệp
thức của ta, thì dù hình hài này có rã đi nữa, thì ta sẽ tiếp tục có một hình
hài khác đẹp hơn, quý báu hơn, đầy đủ tướng tốt hơn. Vì sao
như vậy? vì trong ta có hạt minh châu Hiếu và
Kính.
Nếu ta có
chết đi và bỏ ngôi nhà này đi nữa, thì ta sẽ đi đến ngôi nhà rộng lớn hơn, ta có
bỏ quê hương này đi nữa, ta cũng sẽ đi đến một quê hương rộng lớn mênh mông hơn
cao đẹp hơn, nơi đó có đấng Từ Phụ chăm sóc ta không những về đời sống vật chất,
mà còn chăm sóc ta đời sống tinh thần; không những tạo điều cho ta đầy đủ phước
báu một đời, mà còn có khả năng tạo cho ta phước báu nhiều đời. Phước báu ấy
giúp ta có thể thăng hoa và phát triển đến chỗ viên mãn, đến chỗ y báo, chánh
báo trang nghiêm như chư
Phật.
Vì vậy chết mà trong tâm thức ta có hai hạt minh châu Hiếu và Kính,
thì đó là cái chết vinh quang, cái chết đó là cao quý, chứ không phải chết là
một sự rủi ro.
Vậy giờ đây
tất cả quý vị trong tang quyến cũng như đại chúng có nhận ra được rằng, thế nào
là sự sống rủi ro và cái chết rủi ro của con người chúng ta?
Thế nào là
sự sống may mắn và hạnh phúc cũng như cái chết may mắn và hạnh phúc của con
người chúng ta?
Khi nhận ra được cái rủi ro trong đời sống con người của chúng ta,
thì chúng ta dứt khoát loại bỏ nó ra khỏi tâm thức ta, loại bỏ nó ra khỏi lời
nói của chúng ta hàng ngày. Và khi ta ý thức được rằng,
hạt minh châu làm đẹp đời ta, làm vinh quang đời ta, thì ta hãy ôm ấp nó, chăm
sóc nó, phát triển nó, từ nơi một điểm của tâm hồn trở thành toàn thể của tâm
hồn ta. Và từ nơi tâm hồn ta mà biểu hiện ra trong lời nói của chúng ta
mỗi ngày, cho nên lời nói của chúng ta khi nào cũng hiển bày chất liệu của sự
thương yêu, của sự quý trọng, của sự chân thật và nó sẽ chuyển tải ra trong hành
động của mỗi chúng ta, để mỗi khi ta hành động là ta luôn nghĩ đến lợi mình, lợi
người, lợi đời này và lợi đời sau, lợi cho ta ở thế giới này, mà còn lợi cho
những người thân yêu của ta ở thế giới khác, chúng ta phải thực tập như vậy, sau
khi chúng ta ý thức được thế nào là một đời sống có ý nghĩa, thế nào là một sống
vô nghĩa, thế nào là một cái chết có ý nghĩa, thế nào là một cái chết vô nghĩa,
cái chết rủi ro bất hạnh.
Cũng vì tất
cả quý vị trong tang quyến ý thức được rằng, chết có chất liệu Hiếu và Kính là
thăng hoa cuộc sống và làm đẹp cho cuộc đời hiện tại và tương lai, cho nên quý
vị đã dâng hoa lên cúng dường mẹ mình, chị mình, em mình, cô mình, dì mình, bác
mình, thím mình, mợ mình… và những người thân yêu của mình bằng tất cả chất liệu
Hiếu và Kính và quý vị cũng đã nói lên được tất cả những gì trân quý nhất, đẹp
nhất đối với mẹ mình, đối với người thân yêu của mình đã qua đời và quan trọng
hơn hết là có những đau buồn khi người thân qua đời quý vị đã nén được và biết
chuyển hóa niềm đau của mình thành ra niềm hạnh phúc, biết chuyển hóa cái nhìn
tầm thường của mình trở thành ra cái nhìn cao quý xuyên suốt mọi không gian,
xuyên suốt mọi thời đại, cho nên việc thể hiện sự Hiếu Kính của quý vị là sự thể
hiện Hiếu Kính một cách có ý nghĩa đối với chánh pháp, biết nén sự đau thương,
biết nén sự sinh ly tử biệt, thành ra bồ đề tâm, trở thành ra đại nguyện, trở
thành ra sự cầu nguyện cao khiết, đó là một việc làm có ý nghĩa.
Buông Bỏ
Và Lên Đường:
Giờ đây xin
quý vị trong tang quyến hướng về Tam Bảo hướng về thân linh của mình, để tôi có
vài lời khai thị đối với thân linh.
Hỡi hương
linh chị Nguyễn Thị Vỹ,
Pháp danh
Nguyên Khai, mặc nhiên lắng nghe!
Hương linh của chị nghe Thầy hỏi, trước khi chết chị có sợ chết
không? Khi mang thân người chị có sợ chết không?
Khi mang thân người, làm mẹ cũng khổ, làm vợ cũng khổ, làm người cũng khổ, nhưng
có khi nào chị không sợ chết không?
Ở thế gian
này ai cũng sợ chết cả, dù họ sống rất đau khổ, dù sống đang bị đày đọa, nhưng
người ta vẫn ham sống và dù ham sống đến cỡ nào, thì những cái chết vẫn đến với
tất cả mọi người.
Cái chết
không phải từ trên trời rơi xuống, không phải từ dưới đất vọt lên, không phải từ
phía phải, từ phía trái đi tới với mình, mà nó tới với mình ngay nơi sự sống của
mình mới sinh ra. Mình sinh ra ở đâu là cái chết có mặt ở đó;
mình sinh ra lúc nào, thì cái chết có với ta từ lúc ấy. Cho nên, sợ chết là một điều vô lý nhất của con người.
Những bậc Thánh trí trên đời, không ai sợ chết cả, chỉ có những kẻ
phàm phu vô trí mới sợ chết mà thôi. Bậc Thánh trí chỉ
sợ mình sống không có ý nghĩa, sống mà không nhận ra được chân lý của sự sống,
để rồi tạo nghiệp sinh tử luân hồi – đó là cái sợ của bậc Thánh trí. Cho
nên, các bậc Thánh trí biết rằng, chết không phải là hết, mà chết là tiếp tục
sống với một đời sống khác, tùy theo nghiệp thiện ác
của mình đã tạo.
Nếu trong
đời hiện tại tạo nghiệp ác, thì sau khi kết thúc sinh mệnh sẽ sinh vào thế giới
thấp kém và nếu trong đời hiện tại mình biết tin Tam Bảo, biết ăn chay niệm
Phật, biết tin nhân quả tội phước, biết Hiếu Kính đối với Tổ tiên, ông bà, cha
mẹ; có niềm tin chân thật đối với con cháu; có nếp sống chân tình với mọi người
xung quanh, thì một lần chết là một lần thăng hoa của sự sống, một lần chết là
một lần bông hoa nở ra thơm và đẹp, các bậc anh tú thấy rõ như vậy, cho nên mới
tuyên dương chánh pháp để cho chúng sanh nhận thấy con đường sống và chết thế
nào, để tự mình chọn lựa mà lên đường một cách dứt khoát và khuyến khích mọi
người lên đường một cách dứt khoát và có ý nghĩa.
Chính bây giờ chị cũng đã lên đường, đang lên đường và sẽ lên đường.
Vậy, khi lên đường Thầy tin chắc rằng, trong tâm thức của chị đã có Phật,
có Pháp, có Tăng, có Năm giới quý báu và chị lên đường Thầy tin tưởng rằng,
trong con người chị, trong tâm hồn chị, đã có đầy đủ hai chất liệu Hiếu và Kính
đối với tổ tiên ông bà cha mẹ. Trong tâm hồn của chị đã có sự chung thủy đối với
người yêu của mình và có sự hy sinh to lớn đối với con cháu của mình; sống có
nhân ái với mọi người, cho nên hôm nay chị xả bỏ thân này, chị sẽ thay đổi thành
thân khác cao đẹp hơn, chị đừng luyến tiếc gì nơi thế giới hư huyễn này nữa, chị
hãy mạnh dạn lên đường!
Tỉnh
Giác Với Những Ánh Sáng Trước Mặt:
Hỡi hương
linh chị Nguyễn Thị Vỹ,
Pháp danh
Nguyên Khai, lắng nghe thầy nói!
Giờ đây,
trước tâm thức của chị bao nhiêu ánh sáng đang chập chờn, chập chờn quyến rũ chị đi theo hướng ấy.
Ánh sáng
màu đen xám đang chập chờn trước tâm thức của chị, cho nên chị phải chánh
niệm tỉnh giác và biết ánh sáng đó chiếu ra từ thế giới địa ngục, nên giờ
phút nầy, chị phải giữ tâm chánh niệm, nghĩ rằng, tôi đã quy y Tam Bảo, đã từng
thọ trì năm giới quý báu, đã tin tưởng vào ánh sáng đỏ rực của đức Phật A di đà,
cho nên ánh sáng này không thích hợp với tâm nguyện của tôi khi sinh tiền. Vì
vậy, chị không đi tới với ánh sáng đen xám, chập chờn trước tâm thức của
chị.
Bây giờ là
một loại ánh sáng khác, ánh sáng màu đỏ đang chập chờn trước tâm thức của
chị. Chị phải giữ chánh niệm tỉnh giác và biết ánh sáng màu đỏ đang chập chờn
đó là ánh sáng của loài ngạ quỷ, đó là ánh sáng của loài đói nghèo. Chị phải
giữ gìn chánh niệm không đi tới với ánh sáng đỏ đó, chị phải khởi lên tâm nguyện
rằng, tôi là Nguyễn Thị Vỹ, pháp danh Nguyên Khai đã từng quy y Phật, đã từng
quy y Pháp, đã từng quy y Tăng, đã từng giữ gìn năm giới quý báu, đã biết ăn
chay niệm Phật và nguyện khi xả bỏ thân này được sanh về thế giới Tịnh độ của
đức Phật A Di Đà ở phương Tây, để tu tập và thoát ly sinh tử, nên ánh sáng màu
đỏ chập chờn trước tâm thức tôi, không phải là ước nguyện của tôi.
Hương linh
của chị giờ phút này đã vượt qua được ánh sáng màu đỏ chập chờn rồi, thì một
loài ánh sáng khác xuất hiện, quyến rũ hấp dẫn chị đi theo, đó là ánh sáng màu xanh. Chị
phải biết rằng, ánh sáng màu xanh là ánh sáng của loài súc sinh, đó là
ánh sáng của sự ngu dốt, của sự cố chấp, của sự sống theo bản năng thú tính, cho
nên trong giờ phút này, chị hãy duy trì năng lượng chánh niệm; phải nhớ rằng,
tôi đã từng quy y Phật, đã từng quy y Pháp, đã từng quy y Tăng, đã từng giữ gìn
năm giới quý báu, đã từng ăn chay, niệm Phật và có tâm nguyện sanh về thế giới
Tịnh độ của đức Phật A Di Đà ở Phương Tây. Cho nên, ánh sáng này không phải là
ánh sáng của tôi hướng tới, tôi ước vọng. Chị phải chánh niệm tỉnh giác như thế,
mới không bị cuốn hút bởi ánh sáng màu xanh đang chập chờn trước tâm thức của
chị.
Vượt qua
ánh sáng màu xanh, thì giờ đây, trước tâm thức của chị đang đối diện với một
loại ánh sáng khác màu xanh lục, màu xanh của loài Atula, đó là
loại ánh sáng từ nơi tâm thức kiêu ngạo, từ nơi tâm thức giận hờn, ưa tranh hơn
thua mà sinh khởi, nên thế giới atula là thế giới chiến tranh và cực kì khổ đau;
cực kỳ thất vọng và sân hận cực kì. Cho nên, trong giờ phút này, ánh sáng màu
xanh lục đó, đang chập chờn chập chờn trước tâm thức của chị, chị phải duy trì
năng lượng tỉnh giác và biết rằng, mình đã quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng.
Đã quy y Phật, thì không còn đọa vào địa ngục; Đã quy y Pháp, thì không còn đọa
vào ngạ quỷ; Đã quy y Tăng, thì không còn bị đọa vào súc sinh và phát tâm giữ
năm giới, thì thành tựu phước báu trời người, để thoát ly sanh tử. Cho nên ánh
sáng màu xanh lục của loài atula không phải là nơi đến của chị, không phải là
cõi đi về của chị, chị hãy nhớ và dứt khoát không đi theo
ánh sáng ấy.
Này hương
linh chị Nguyễn Thị Vỹ, pháp danh Nguyên Khai, mặc nhiên lắng nghe!
Tâm thức
của chị giờ này, đã vượt qua 4 loại ánh sáng rồi, giờ này tâm thức chị đang tiếp
xúc với ánh sáng màu vàng nhạt, chập chờn, chập chờn
trước
mắt chị, đó là ánh sáng của nhân loại. Đây là ánh sáng của phước báu làm
người.
Hơn ai hết,
hơn 59 năm có mặt giữa cuộc đời, chị cũng nếm thấm những hạnh phúc, những đau
khổ do thế giới con người đem lại. Ở trong thế giới con người, dù được làm vua,
quan, làm tổng thống, thủ tướng, bộ trưởng, là nhà giàu có, tỷ phú, nhưng chỉ
cần sa cơ thất thế, thì bao nhiêu sự nghiệp trở thành mây khói tan tành.
Nên, phước báu loài người tuy có đó, nhưng rất mong manh, sự có mặt của phước
báu loài người như sương mai, như nắng chiều, như ánh chớp hoàng hôn.
Vì vậy,
những bậc Thánh trí trong đời, khi được phước báu làm người rồi, thì liền quy y
Tam Bảo để trau dồi phước đức đó và tu tập để thành tựu phước báo cao hơn, đó là
phước báo của các bậc thánh, bồ tát và Phật.
Cho nên,
trong giờ phút này ánh sáng màu vàng nhạt đang chập chờn, chập chờn trước tâm
thức của chị, chị hãy duy trì năng lượng chánh niệm, chị phải nghĩ rằng, chị đã
từng quy y Phật, đã từng quy y pháp, đã từng quy y Tăng, giữ gìn năm giới quý
báu là để thoát ly sinh tử luân hồi, chứ không phải tu tập là để nhận lấy cái
phước báo mong manh của cõi người mà mạng người chỉ trong hơi thở.
Chỉ một hơi thở ra, không thở vào là mọi điều trong thế giới con người đều trở
thành vô nghĩa.
Vượt qua
được ánh sáng màu vàng nhạt của thế giới loài người rồi, thì loại ánh sáng khác
liền xuất hiện trước tâm thức của chị, đó là ánh sáng màu trắng của
chư
thiên. Ánh sáng này do tu tập thập thiện nghiệp đạo mà thành. Nhưng dù sanh
vào thế giới của chư thiên; được làm trời Đế Thích; được làm Chúa trời ở Dục
giới; được làm Phạm Thiên ở Sắc giới; hoặc được làm chư thiên Vô sắc giới, cũng
còn ở trong sinh tử luân hồi mà thôi.
Bởi vì cõi
trời Dục giới, vẫn còn bị ái dục làm khổ đau; cõi trời Vô sắc giới, thì vẫn còn
sắc kiến và sắc ái làm cho khổ đau; cõi trời Vô sắc giới, thì vẫn còn tưởng ái
và vô tưởng ái làm cho khổ đau. Còn khổ đau là còn trôi lăn
trong sinh tử luân hồi. Vì vậy mà khi sinh tiền chị đã phát tâm quy y Tam Bảo.
Quay Về
Nương Tựa:
Quy y Phật
thì thề trọn đời không quy y trời thần quỷ vật hay đời đời kiếp kiếp không quy y
trời thần quỷ vật. Đã quy y Pháp thì thề trọn đời không quy y ngoại đạo tà giáo
hay nguyện đời đời kiếp kiếp không quy y ngoại đạo tà giáo. Đã quy y Tăng, thì
thề trọn đời không quy y bè bạn xấu ác hay đời đời kiếp kiếp không quy y bè bạn
xấu ác.
Vì sao không quy y trời thần quỷ vật?
Vì trời thần quỷ vật vẫn còn trong sinh tử luân hồi, thì vẫn
còn khổ đau, nên ta không quy y.
Vì sao quy y Pháp là không quy y ngoại đạo tà giáo? Vì tất cả
những học thuyết, giáo thuyết của các tôn giáo, chỉ diễn tả những cái nằm trong
sinh tử luân hồi, mà chưa có phương pháp đoạn diệt ái dục của Dục giới, đoạn
diệt ái kiến của Sắc giới và đoạn diệt vô tưởng ái của Vô sắc giới để thoát ly
sanh tử luân hồi. Chỉ có giáo pháp của Phật mới đầy đủ năng lực giúp cho người
thực hành đoạn từ được ái dục của Dục giới; đoạn từ sắc ái của Sắc giới và đoạn
từ vô tưởng ái của Vô sắc giới để thóat ly sinh tử luân hồi. Bởi vì vậy mà người đệ tử Phật không quy y với ngoại đạo tà giáo.
Vì sao người đệ tử Phật, quy y Tăng mà không quy y tà sư ác hữu?
Vì Tăng là một đoàn thể đẹp đã chọn lựa đức Phật là thầy, đã chọn Pháp là phương
pháp thực hành; là con đường đi đến Niết bàn và Tăng là một đoàn thể sống đời
sống hòa hợp và thanh tịnh. Tăng là một đoàn thể xuất gia đệ tử của Phật, lấy
thanh tịnh làm bản chất, lấy hòa hợp làm sự sống, lấy lợi tha làm nghĩa vụ. Tăng
là đoàn thể đẹp như vậy, cho nên chị đã từng phát nguyện quy y Tăng không quy y
bất cứ một đoàn thể nào khác, không nương tựa vào bất cứ một bạn bè nào khác là
bởi vì muốn cùng nương tựa Tăng để đi trên con đường thoát ly sinh tử luân hồi.
Tăng là
đoàn thể giúp ta nương tựa tu học để thoát ly sinh tử luân hồi, mà khi sinh tiền
chị đã phát tâm như thế, đã phát nguyện như thế, vậy trong giờ phút này, trước
tâm thức của chị, ánh sáng màu trắng nhạt, đang chập chờn, chập chờn, đó
là ánh sáng của các loài chư thiên, đang đối diện trước tâm thức của chị.
Vậy, chị phải giữ gìn hạnh nguyện và phát huy tố chất của ngươì Phật tử và chị
nói rằng: ánh sáng của cõi trời Dục giới, ánh sáng của cõi trời Sắc giới và Vô
sắc giới, không phải là điểm đến của người Phật tử. Người Phật tử chúng tôi là
quy y Tam Bảo và giữ gìn năm giới, phát bồ đề tâm, hành bồ tát đạo, thiết lập
tịnh độ của tự tâm để tu tập và hướng tới tha phương Tịnh độ để học hỏi.
Hướng
Đến Tịnh Độ Tự Tâm Và Tịnh Độ Phương Tây:
Cho nên, mô
thức Tịnh độ thiết thực nhất, mà nhiều Phật tử tu tập thường hướng tới là Tịnh
độ của Phật A
Di Đà. Vậy, trong giờ phút này, chị hãy đánh thức hạt giống Tịnh độ trong tâm
của chị dậy, khiến cho ánh sáng Tịnh độ trong tâm thức chị phát ra, để có thể
tương ứng với Tịnh độ của chư
Phật mười phương. Và trong Tịnh độ của chư Phật mười
phương, thì Tịnh độ của Phật A di đà là Tịnh độ mà hằng ngày chị hằng mơ ước.
Bây giờ chị hãy khởi tâm hướng về Tịnh độ của Phật A di đà.
Khi chị khởi tâm hướng về Tịnh độ của Phật A di đà, thì ánh sáng vô lượng từ nơi
Tịnh độ của Phật A di đà sẽ chạm vào tâm thức của chị. Chị nên biết rằng, thế
giới Tịnh độ của Phật A Di Đà là ánh ánh vô lượng, ánh sáng đó được xây dựng trên
Đại nguyện của đức Phật A di đà, khi Ngài còn hành Bồ tát đạo, cho nên ánh
sáng của Phật A Di Đà là ánh sáng đỏ rực. Ánh sáng đó thường trực chiếu khắp
cả mười phương thế giới, nhưng chúng sinh nào, chư thiên nào, nhân loại
nào có tín tâm đối với cõi Tịnh độ của Phật A di đà và muốn sanh về thế giới của
Ngài, mà chí thành, chí thiết, niệm từ một niệm cho đến mười niệm,
mà tâm không điên đảo, vọng tưởng, thì ánh sáng đó xuyên qua tâm thức của chư
thiên đó, của nhân loại đó, của chúng sanh đó, và khi ánh sáng đó đã xuyên qua
được tâm thức của người đó, thì hạt giống tịnh độ nơi tâm thức người đó trổi dậy
và tương ưng với ánh sáng đó và chỉ trong khoảnh khắc là được nhập vào ánh sáng
ấy để về Tịnh độ của Phật A Di Đà.
Vậy, trong giờ phút này chị hãy quay vào trong tâm thức của chị làm
cho hạt giống Tịnh độ trong chị phát khởi một cách mãnh liệt “bằng Tín;
bằng Hạnh; bằng Nguyện.
Tín có nghĩa là tin. Tin rằng,ngoài
ánh sáng của thế giới Tịnh độ Phật A di đà, chị không đi theo bất cứ ánh sáng
nào nữa cả, không rơi vào cảnh giới nào nữa cả, chỉ có Tịnh độ của Phật A di đà
và chị chỉ nguyện sanh về đó mà thôi.
Chỉ có một Hạnh nguyện duy nhất là giữ tâm chánh niệm thực sâu lắng,
thực vững chắc để được sanh về Tịnh độ của Phật A di đà mà thôi.
Khi chị đã
phát nguyện như vậy rồi thì ánh sáng đỏ rực của đức Phật A Di Đà
đã xuyên qua tâm thức của chị và khi chị tiếp xúc được với ánh sáng đỏ rực của
đức Phật A Di đà, chị đừng lo lắng, đừng sợ hãi, đừng khiếp đảm mà chỉ nói:
“Kính bạch
đức Phật A Di Đà ở Phương Tây Thế giới.
Kính bạch
Đức Bồ tát Quán Thế Âm là vị kế thừa ở phương Tây thế giới của Phật
A Di đà.
Kính bạch
đức Đại Thế Chí Bồ tát cũng là vị Bồ tát sẽ kế thừa thế giới Tịnh độ của đức
Phật A
Di đà trong tương lai.
Xin các
ngài thương con, dùng ánh sáng vô lượng của các Ngài mà rọi vào tâm tư con, để
cho bao nhiêu hạt giống chấp ngã, vô minh, phiền não, tham lam, tật đố nơi tâm
con được tiêu trừ; để cho tâm con giờ phút này sáng choang lên, cảnh giới của
đức Phật A di đà đã hiện tiền trong tâm con và
tâm con đã có cảnh giới Tịnh độ của các Ngài”.
Chị hãy
phát khởi rằng: “Xin các Ngài đem thuyền thọ mạng mà chuyên chở hình hài con, để
hình hài con có cơ hội nhập vào thuyền thọ mạng vô lượng của các Ngài mà đạt tới
chỗ vô sinh, bất diệt và xin các Ngài đem công đức vô lượng của các Ngài trùm
lên hình hài con, trùm lên tâm thức con; để hình hài con có đủ 32 tướng tốt, 80
vẻ đẹp như các Ngài; để tâm thức của con cũng có đầy đủ bồ đề tâm, đầy đủ bồ đề
hạnh, đầy đủ bồ đề nguyện, như các Ngài; để trong tương lai các con tu tập và
thiết lập Tịnh độ như các Ngài; để cho những ai có cơ duyên với chúng con đều về
nơi Tịnh độ cùng chúng con tu học”.
Khi tiếp
xúc với ánh sáng đỏ rực của đức Phật A Di Đà, chị hãy
giữ tâm chánh niệm và luôn luôn nhớ những điều mà Thầy vừa nhắc nhở cho chị.
Vậy, bây
giờ chị đã thấy ánh sáng đỏ rực của đức Phật A di đà xuyên qua tâm thức của chị
chưa?
Những hạt
giống tốt đẹp ở nơi tâm thức chị đã sáng lên chưa? Đã hiện
khởi chưa? Nếu chưa, thì chứng tỏ rằng, nghiệp chướng của chị còn dày,
báo chướng còn trở ngại, thì giờ này đây, chị hãy duyên nơi tâm Thầy, hãy duyên
nơi trí của Thầy, hãy duyên nơi hạnh nguyện của Thầy và hãy duyên nơi tâm Hiếu
Kính của con cháu, bà con thân thuộc của chị có mặt hôm nay, như là một năng lực
trợ niệm, khiến cho tất cả những hạt giống tốt
đẹp trong tâm thức chị phát sinh.
Bây giờ muốn phát sinh tâm thức đó, thì giờ này chị hãy phát tâm sám
hối để cho bao nhiêu nghiệp chướng được tiêu trừ.
Giờ đây chị
hãy duyên vào tâm của Thầy, trí của Thầy, tâm Hiếu Kính của con cháu… và con
cháu đại diện cho chị mà nói theo Thầy:
“Bao nhiêu
lầm lỗi cũng do tâm
Tâm tịnh
còn đâu dầu lỗi lầm
Sám hối
xong rồi lòng nhẹ nhỏm
Ngàn xưa mây bạc vẫn thong dong”.
Hỡi hương
linh chị Nguyễn Thị Vỹ, pháp danh Nguyên Khai!
Như vậy,
giờ phút này tâm thức của chị đã hoàn toàn lắng yên rồi, cội nguồn tâm linh của
chị đã mở ra rồi, cho nên chị hãy ôm lấy chất liệu Nguyên khai của mình, mà đi
về Tịnh độ, nguyên là cội nguồn tâm linh, khai là mở ra. Từ nơi cội nguồn tâm linh mà được khai mở.
Từ nơi cội
nguồn tâm linh của Phật pháp; từ nơi cội nguồn tâm linh Tịnh độ đã mở ra cho tâm
linh của chị đi vào, bây giờ tâm linh của chị hãy đi về đó, hoa sen chín phẩm
đang nở ra để đón chờ tâm linh của chị. Đức Phật A Di
Đà và Thánh chúng ở phương Tây đang mỉm cười, đang phóng quang và đưa tay vàng
tiếp độ tâm linh của chị. Vậy, tâm linh của chị hãy:
“Nhẹ gót
lên đường về cõi Phật
xa lìa phiền não chốn trần ai.
Chín phẩm
hoa sen là cha mẹ
vui đăng tiêu dao dưới Phật đài”.
Nam Mô Đăng Vân Lộ Bồ Tát Ma Ha Tát.
Phật tử Tâm
Lý và Nguyên Phán Biên Chép