Mặc dù mới ở giai đoạn đầu của quá trình
phát triển, song Việt Nam
đã và đang phải đối đầu với các vấn
đề môi trường nghiêm trọng - nhiều nghiên cứu gần đây đều chung
nhận định trên. Theo ước tính của Ngân hàng Thế
giới, tổn thất do ô nhiễm môi trường ở Việt Nam đã lên tới 5,5%
GDP hằng năm.
Tài nguyên suy kiệt
TS Lê Hà Thanh, Trường ĐH Kinh tế quốc
dân cho
biết,
năm 2010, Việt Nam chỉ còn khoảng
hơn nửa triệu hécta rừng nguyên sinh phân bố
rất rải rác với khả
năng phục hồi thấp. Theo ước
tính của Cục Kiểm lâm (Bộ NN&PTNT), cuối năm 2010, diện tích rừng toàn quốc đạt khoảng 13.390.000ha với
độ che phủ ước đạt 39,5%, thấp hơn nhiều so với mục tiêu đặt ra trong chiến
lược bảo vệ và phát
triển rừng.
|
Quá trình
phát
triển kinh tế đang xâm lấn sự đa dạng sinh học, môi trường tự nhiên. Ảnh: HNM
|
Quá trình phát
triển
kinh tế thực sự đang đe dọa sự tồn tại và phát triển
của rừng. Những
năm qua, diện tích rừng mất "một cách hợp lý" do khai thác chiếm 34% và diện tích
đất rừng bị chuyển đổi mục đích sử dụng lên tới hơn 42%. Việc chuyển đổi mục đích sử dụng chủ yếu nhằm phát triển các loại cây công nghiệp có giá trị
như cao su, cà phê
và đặc biệt là phục
vụ ngành thủy điện.
Điều đáng
lo ngại là tốc độ phát triển thủy điện ngày một gia tăng, số nhà máy
thủy điện vừa và nhỏ
ngày một nhiều. Nếu như năm 2006, cả nước mới có 12 nhà máy thủy
điện vừa và nhỏ thì
đến năm
2008, cả nước
có thêm 24 nhà máy, số
nhà máy
được
tăng thêm vào năm 2010 là 19.
Sự tăng nhanh về dân số và
việc khai thác quá mức
tài nguyên nước cũng như tài nguyên
đất và rừng đã làm suy kiệt
nguồn nước.
Theo tính toán,
lượng nước
mặt bình quân đầu người hiện nay trong tổng nguồn nước các con sông
của
Việt Nam chỉ
khoảng 3.840 m3/người/năm.
Nếu căn cứ theo chỉ
tiêu đánh giá của Hội
Tài nguyên nước quốc tế, quốc gia nào có
lượng nước
bình quân đầu người dưới 4.000 m3/người/năm là quốc gia
thiếu nước
thì Việt Nam đang thiếu nước trầm trọng. Với tốc độ phát triển dân số như
hiện nay, theo dự tính, đến năm 2025, lượng nước mặt bình quân đầu người của các con sông
Việt
Nam chỉ còn khoảng 2.830 m3/người/năm.
Rừng thu hẹp, nước cạn kiệt, nên tốc độ
suy giảm đa dạng sinh học đang gia tăng
nhanh chóng dẫu Việt Nam từng được Trung tâm Giám
sát bảo tồn thế giới đánh giá là một
trong 16 quốc gia có mức
đa dạng sinh học cao nhất thế giới. 70% dân số Việt
Nam có sinh kế phụ thuộc vào tài nguyên đa
dạng sinh học và trên
thực tế, hoạt động khai thác gỗ
và lâm
sản
ngoài gỗ trái phép diễn
ra ngày
càng
mạnh mẽ và không thể
kiểm soát đối với tất cả loại rừng. Tại vùng ven biển,
nông dân đua nhau phá
rừng ngập mặn, quai đê lấn biển để nuôi trồng thủy sản. Thống kê cho thấy,
trong hai thập kỷ qua, có tới 200.000ha rừng ngập mặn bị chặt phá để nuôi tôm. Bởi thế, không
lạ là gần nghìn loại động, thực vật hoang dã trong
thiên nhiên của nước ta đang bị
đe dọa và nhiều loài sinh vật
quý hiếm khác đã, đang
ngày một hiếm.
Môi trường ô nhiễm
Theo kết quả điều tra của Bộ Công thương, trong số 154 khu công nghiệp
đang hoạt động trên toàn quốc, chỉ có 39 khu công nghiệp
có hệ thống xử lý nước thải tập trung (chiếm 25,3%). Điều đó có nghĩa là
khoảng 70% trong số hơn một triệu mét khối nước thải/ngày không qua xử lý từ các
khu công nghiệp được
xả thẳng ra các nguồn
tiếp nhận và gây ô nhiễm
nghiêm trọng môi trường nước mặt.
Hầu hết đô thị nước ta đều bị ô nhiễm bụi. Nồng độ bụi trong không khí
ở các thành phố lớn như Hà Nội,
TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng lớn hơn trị số tiêu chuẩn
cho phép từ 2 đến 3 lần. Ở các
nút giao thông thuộc các đô thị
này, nồng độ bụi lớn hơn tiêu chuẩn cho phép đến
5 lần. Tại các
khu đô thị mới nơi nhà cửa,
đường sá đang trong quá trình xây
dựng thì nồng độ bụi vượt tiêu chuẩn tới 20 lần.
Cái giá
phải
trả do ô nhiễm môi trường là rất đắt.
Điển hình như ô nhiễm nước tại sông Thị Vải do Công ty VEDAN gây ra
ước tính thiệt hại lên đến 567 tỷ đồng/năm.
Cũng vì lý do nước bị ô nhiễm, trong vòng 4
năm
qua, có 6 triệu người Việt Nam bị mắc bệnh và số
tiền chữa trị lên đến
400 tỷ đồng.
Với mô hình phát
triển như hiện nay, khi tốc độ tăng trưởng GDP càng cao thì
mức độ gia tăng chất
thải sẽ càng lớn, tổn thất phúc lợi xã hội sẽ
ngày càng nhiều. Chính vì vậy, phát
triển kinh tế theo
hướng bền vững là rất
cần thiết. Theo TS
Hà Huy Thành, Viện Nghiên cứu môi trường và phát triển
bền vững, để đạt được điều
này, chúng ta cần đổi
mới tư duy phát triển,
chuyển từ tư duy lấy
tăng trưởng,
phát triển kinh tế làm
trọng tâm sang phát triển hiện đại, an toàn, lâu dài
và bền vững. Nhà nước cần thiết lập chính sách
chuyển
đổi cơ cấu kinh tế theo
hướng hình thành và phát
triển kinh tế xanh đồng
thời ban hành các chính sách
thúc đẩy việc sử dụng công nghệ tiết kiệm năng lượng, thân thiện với môi trường. Và tất nhiên, để công cuộc phát triển kinh tế bền vững thành công, sự nỗ lực của các cấp
chính quyền và mọi người
dân là
không
thể thiếu.
Theo HNM
Nguồn: VietNamNet