Minh Thạnh
ảnh: Hải
Trang- chùa Thiên Mụ-Huế
Vào dịp lễ
Phật đản vừa qua, phát biểu với phóng viên Đài Truyền hình Việt Nam, cũng như
qua những bài viết, bài giảng trước đó, Thượng tọa Thích Bảo Nghiêm, Phó Chủ
tịch Hội đồng Trị sự kiêm Trưởng ban Hoằng pháp Trung ương Giáo hội Phật giáo
Việt Nam, đã nhấn mạnh đến vai trò của Phật giáo trong việc bảo vệ môi trường,
mà cụ thể là việc trồng cây và gìn giữ cây xanh.
Trồng cây,
gìn giữ cây xanh không phải là điều mới, thậm chí là điều bình thường, nhưng lâu
nay trong giới Phật giáo, việc làm này ít được nhắc đến, và thậm chí có chiều
hướng đi ngược lại ở một số nơi. Vì vậy, người viết bài quan tâm đến lời nhắc
nhở, sách tấn của thượng tọa Bảo Nghiêm về một việc tưởng chừng như hết sức bình
thường như thế, trong sự chia sẻ, đồng cảm.
Trong tinh
thần đó, chúng tôi hướng đến việc tìm kiếm những đề tài cụ thể xoay quanh vấn đề
cổ động, khuyến khích việc trồng cây, tạo cảnh quan cây xanh đối với giới Phật
giáo.
Trong
tiếng Việt, có một từ khá đặc biệt, là “cảnh chùa”, người Nam Bộ thường phát âm
là “kiểng chùa”. Bà tôi sinh thời khi nhắc đến chùa chiền nói chung, vẫn dùng từ
“kiểng chùa”, thay vì “ngôi chùa”. Khi tôi hỏi tại sao bà hay nói “kiểng chùa”,
tôi nghĩ rằng bà nói vậy thì người ta không hiểu, nghĩ là cây kiểng (tức cây
cảnh) ở chùa thì sao? Bà tôi chỉ trả lời, “vì ông bà mình nói vậy”. Bà bảo, chùa
luôn phải đi đôi với cây kiểng, nói “kiểng chùa” thì đầy đủ hơn là ngôi chùa.
Tôi còn
nhớ chỉ hiểu lờ mờ là bà nói “kiểng chùa”, tức phải hiểu chùa không chỉ là chính
điện hay nhà tổ…, mà gồm cả phần đất của chùa chung quanh, thường là rất nhiều
cây cối.
Tiếp xúc
với ông bà của các bạn lúc đó, tôi vẫn nghe cách nói tương tự. Hòn non bộ, được
một cụ ông nghệ nhân gắn bó với nghề nghiệp làm sản phẩm mang tính nghệ thuật
này, gọi là “hòn non kiểng”, và những “hòn non kiểng” của ông làm luôn có trên
đó một vài “kiểng chùa”, như cụ vẫn nói.
Lớn lên,
được đi thăm viếng lễ bái ở xa hơn khu dân cư mình ở, tôi mới có dịp hiểu hơn vì
sao bà tôi gọi là “kiểng chùa”, thay vì ngôi chùa. Chùa Pháp Hoa (quận Phú Nhuận,
nơi Hòa thượng Như Niệm trụ trì) lúc bấy giờ, những năm 1970, vẫn là một ngôi
chùa gắn liền với tuổi thơ của tôi. Tôi vẫn nhớ đến cảnh chùa rợp bóng cây xanh,
với tượng Phật A Di Đà trong vườn, nơi tôi vẫn thường hay đến cúi đầu chào bái
ngày trước khi đi dạo quanh chùa, để cảm thụ không gian chùa, hiểu vì sao bà tôi
dùng từ “kiểng chùa” thay vì ngôi chùa.
Chùa Pháp
Hoa ngày nay đã được xây lớn, nhưng vẫn giữ được không gian cây xanh chung quanh,
tức vẫn là một “kiểng chùa”, giữa một vùng dân cư đông đúc. Chùa vẫn còn là hình
mẫu “kiểng chùa” mà ông bà ta hay nói đến.
Nói “kiểng
chùa”, vì ông bà mình nói vậy! Ngày nay, tôi hiểu đó là quan niệm truyền thống
của người Việt Nam xưa về ngôi
chùa. Chùa cũng là một “ngôi”, nhưng cũng là một “kiểng”.
“Kiểng
chùa” hay “cảnh chùa” là một từ, không phải là một cụm từ. Thành tố “kiểng” hay
“cảnh” trong “kiểng chùa” hay “cảnh chùa” chỉ có thể có nét nghĩa như vậy trong
một tổ hợp cố định (tức là đơn vị từ) như thế. Người ta không nói “kiểng đền”,
“kiểng miếu”, hay “kiểng nhà thờ”… Còn khi nói cảnh nhà thờ, một tổ hợp không cố
định, tức cụm từ, thì cách hiểu đã hoàn toàn khác. Đó là cảnh quan một nơi,
không còn nghĩa chỉ một nơi, như trông “kiểng chùa” hay “cảnh chùa”.
Đưa bạn
đọc dông dài qua những kiến thức ngôn ngữ học như vậy, cuối cùng thì cùng về lại
chỗ “ông bà mình nói vậy”. Trong cách nghĩ của người Việt xưa, chùa rất khác với
bây giờ, nhất là kiểu chùa phổ biến ở Sài Gòn nay.
Nói “kiểng
chùa” hay cảnh chùa vì chùa nhất thiết phải là một không gian cây cảnh (không
nên hiểu như từ “cây cảnh” bây giờ, thường chỉ là cây nhỏ để chơi). Cây cảnh
trong chùa xưa là cây cối tạo cảnh trí, cây cao, cây to, cây nhỏ đủ loại, là một
phần không thể tách rời của ngôi chùa.
Chùa Nam hay chùa
Trung, chùa Bắc xưa cũng thế. Kiến trúc có thể rất nhỏ. Chính điện chỉ đủ chỗ
vài mươi người lễ bái cùng lúc, nhưng không gian cây cối bao quanh rộng hơn đến
vài chục lần. Không bao giờ chùa cất trên một bãi đất trống, mà bao giờ chung
quanh đều phải rợp bóng cây xanh.
Chùa Khmer
cũng vậy.
Ngày nay,
đại đa số chùa Khmer vẫn còn giữ được nét văn hóa đó. Chung quanh chánh điện
chùa Khmer là một rừng cây nhỏ. Chủng loại cây thường là loại cây lớn, thuộc vào
loại cao hơn cây thường thấy trong chùa của người Kinh, vốn phổ biến là loại cây
thấp tán, có hoa, có trái, có hương thơm.
Tôi luôn
hình dung chùa trong từ “kiểng chùa” (hay “cảnh chùa”), vì “ông bà mình nói vậy”
là một ngôi chùa với kiến trúc chính điện chỉ thấp thoáng, hiện ra một phần dưới
bóng cây xanh. Như cách cụ ông làm “hòn non kiểng” đặt những ngôi chùa sứ trên
những giả sơn: luôn khuất sau những rặng cây thường là “um tùm” theo cách của
non bộ, không bao giờ phơi trần hoàn toàn ra ngoài. Ông cụ vẫn giải thích “chùa
như vậy mới là chùa”.
Chắc rằng,
“ông bà mình” không quan niệm trước chùa phải trống trải hoàn toàn, để kiến trúc
chùa phô ra như một tòa dinh thự.
Có phải vì
ngày xưa chưa có khả năng để cất những ngôi chùa đồ sộ, hoành tráng, mà chỉ có
kiến trúc là niềm hãnh diện như ngày nay, nên có “kiểng chùa”, với vườn cây sum
sê, vàng rực hoa, đong đưa quả, ngan ngát hương thơm…?
“Kiểng
chùa”, như ông bà mình nói vậy, được hiểu là sự cảm thụ ngôi chùa, không phải
bằng mắt, mà với tất cả các giác quan.
Đến một
ngôi chùa từ bề ngoài rợp bóng cây xanh, người ta không chỉ thấy chùa, mà còn
nghe chùa, qua tiếng mõ tiếng chuông luồn qua âm thanh xào xạc của cây lá trong
gió sớm; “ngửi” chùa qua hương hoa hòa quyện với hương trầm, hay “cảm thấy” chùa
qua không khí mát lạnh trong veo từ cây cối…
“Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Võ, canh gà
Thọ Xương…”
Nếu “Tiếng
chuông Trấn Võ” chỉ có một mình, độc nhất được nhắc đến, thì tiếng chuông Trấn
Võ đâu có mà hay như vậy.
Người ta
cảm nhận cái hay của tiếng chuông trong một cụm từ ngắn ngủi, vì trước đó, đã
qua một câu dài rất đẹp, rất thướt tha hình ảnh cây lá: “Gió
đưa cành trúc la đà”…
Ngôi chùa
cũng vậy. Nếu chỉ có “ngôi” không, thì chưa đủ đẹp! Cần phải có bóng cây che rợp
mái chùa, để bóng chùa thì thấp thoáng sau “Gió đưa cành trúc la đà”, chúng ta
mới cảm nhận đầy đủ vẻ đẹp của ngôi chùa…
Vì thế,
“ông bà mình nói vậy”, “kiểng chùa” (hay “cảnh chùa”) thay vì… ngôi chùa!
Bây giờ,
đã cho nhiều ngôi chùa chỉ còn mặt tiền chính điện tráng lệ, mà thiếu hẳn vườn
cây, và nhiều người trong chúng ta đã quên từ “cảnh chùa”, “kiểng chùa” mà chỉ
nhớ đến từ “ngôi chùa”.
Trong bối
cảnh như vậy, lời khuyên của một vị Thượng tọa lãnh đạo giáo hội về việc nhà
chùa trồng cây, gìn giữ cây xanh không nên chỉ được hiểu như một lời cổ động
theo phong trào thông thường, mà cần được hiểu như là một sự kêu gọi trở về với
nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc.
“Kiểng
chùa”, vì ông bà mình nói vậy…
MT