Thích Thái Hòa
Tác
dụng của Bát chánh đạo là giúp cho hành giả thấy rõ, thấy chính xác đối với sắc,
thọ, tưởng, hành và thức, qua hai mặt nhân duyên và nhân quả thế gian, xuất thế
gian.
Đối
với nhân duyên, nhân quả thế gian, Bát chánh đạo giúp cho hành giả thấy rõ, thấy
chính xác, sắc uẩn do tương quan giữa bốn đại chủng gồm đất, nước, gió và lửa
tạo thành, nên chúng luôn luôn bị bức hại và đốt cháy bởi vô thường, chúng rỗng
không, không có ngã tính, không có ngã thể. Và Bát chánh đạo giúp cho hành giả
thấy rõ hỷ lạc, do tham dục đối với sắc uẩn đem lại chính là tập khởi của khổ
đau và gốc rễ của sanh tử luân hồi.
Đối với nhân duyên, nhân quả xuất thế gian, Bát chánh đạo
giúp cho hành giả thấy rõ, thấy chính xác rằng, sắc tịch diệt là do tham dục và
ái hỷ nơi tâm của hành giả đối với sắc uẩn hoàn toàn tịch diệt. Và con đường
diệt tận tham dục và ái hỷ đối với sắc uẩn để thành tựu Niết-bàn là các phẩm trợ
đạo và chánh đạo.
Cũng
vậy, Bát chánh đạo, giúp cho hành giả thấy rõ, thấy chính xác, đối với thọ uẩn,
tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn, đều do tương quan duyên khởi, nên chúng đều bị
bức hại và đốt cháy bởi vô thường, chúng rỗng không, không có ngã tính, không có
ngã thể. Và Bát chánh đạo giúp cho hành giả thấy rõ, thấy chính xác rằng, tham
dục và ái hỷ đối với thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn là tập khởi của
khổ đau và là gốc rễ của sanh tử luân hồi.
Hơn
thế nữa, Bát chánh đạo cũng giúp cho hành giả thấy rõ, thấy chính xác rằng, khổ
đau và gốc rễ của nó có thể diệt tận, khi tham dục và ái hỷ đối với thọ uẩn,
tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn nơi tâm của hành giả bị diệt tận. Và con đường
diệt tận tham dục và ái hỷ đối với thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn để
thành tựu Niết-bàn là các phẩm trợ đạo và chánh đạo.
Vậy, tác dụng của Bát chánh đạo là thấy rõ Khổ Tập Diệt
Đạo ở nơi thân năm uẩn và ngay nơi thân năm uẩn mà vượt qua Khổ, bằng cách đoạn
Tập, chứng Diệt và tu Đạo.
Tu Đạo
là thực hành ba mươi bảy phẩm trợ của Đạo đế. Trong Đạo đế, Bát chánh đạo vừa là
đạo và vừa là trợ đạo, các phẩm còn lại là trợ đạo. Do thực hành Đạo đế mà các
tham dục và ái hỷ đối với sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn hoàn
toàn bị nhiếp phục và diệt tận, tâm vô lậu giải thoát phát sinh, chứng nhập được
Niết-bàn an tịnh.
Tác
dụng của Bát chánh đạo như vậy, nên nếu ta tu tập sẽ dẫn sinh những hiệu quả tốt
đẹp, cao quý cho bản thân và xã hội như sau:
• Đối với bản thân
Do tự
thân nỗ lực thực hành pháp Bát chánh đạo, nên có thể thành tựu các Thánh quả
giải thoát như sau:
• Thánh quả Dự lưu
Thánh quả này, tiếng Phạn (Sanskrit)
là Srotāpannaphala; tiếng Pāli gọi là Sotapannaphala. Hán phiên âm là
Tốt-lộ-đa-a-bán-na hay Tu-đà-hoàn và dịch là Nhập lưu quả, Dự lưu quả hoặc
Nghịch lưu quả.
Nhập lưu, nghĩa là do tu tập Bát chánh
đạo mà hành giả đoạn trừ được các loại phiền não như Thân kiến thủ (Sakkāyadiṭṭhi), tức là đoạn trừ được những chấp thủ
sai lầm về thân; đoạn trừ những nghi ngờ (vicikicchā), đối với Phật pháp; đoạn
trừ giới cấm thủ (Śīlabbataparāmasāsa), tức là đoạn trừ được những tín điều sai
lầm, khiến hành giả đạt đến địa vị Nhập lưu hay Dự lưu.
Nhập lưu hay dự lưu là gia nhập hay dự
phần vào dòng chảy của bậc Thánh. Chính dòng chảy này chuyển lưu hành giả đi vào
biển cả Niết-bàn. Người tu tập dự được vào dòng chảy này thì không còn chảy theo
dòng chảy của sanh tử nữa, nên quả vị này còn gọi là Nghịch lưu quả.
Dự lưu, Luận Câu-xá giải thích rằng:
“Lưu là gọi chung cho những con đường dẫn tới đời sống vô lậu, vì dự vào con
đường này mà đi tới Niết-bàn nên gọi là dự lưu”.
Chứng nhập được quả vị này, hành giả
biết rõ biên cương sinh tử của đời mình chỉ còn bảy đời nữa là chấm dứt, không
còn bị tái sanh trong luân hồi nữa, nên quả vị này cũng còn gọi là Thất lai quả.
Hành giả tu tập đạt được quả vị này,
thì niềm tin của họ đối với Tam bảo không bao giờ bị hủy hoại.
• Thánh quả Nhất lai
Thánh quả này,
tiếng Phạn (Sanskrit) là Sakṛdāgāmiphala; Pāli là Sakadāgāmiphala. Hán phiên âm
là Sa-yết-lợi-đà-già-di-pha-la hay Tư-đà-hàm quả và dịch là Nhất lai quả.
Nhất lai, nghĩa là
vị Thánh tu tập chứng được quả vị này, là do đã đoạn trừ hết Thân kiến thủ,
nghi, giới cấm thủ và đoạn giảm các căn bản phiền não tham và sân, nhưng còn trở
lại Dục giới một lần nữa để tiếp tục thực hành Thánh đạo, để đoạn trừ các lậu
hoặc còn sót lại, nên gọi là Nhất lai.
Chứng nhập được Thánh quả này hành giả
biết rõ, tự thân chỉ còn trở lại Dục giới một lần nữa và sau đó là hoàn toàn
chấm dứt, không còn sanh vào Dục giới nữa.
• Thánh quả Bất lai
Thánh quả này, tiếng Phạn (Sanskrit)
là Anāgāmiphala; Pāli là Anāgāmiphala. Hán phiên âm là A-na già-di, A-na-già-mê,
hay A-na-hàm và dịch là Bất lai quả, Bất hoàn quả.
Bất lai quả là do bậc Thánh tu tập Bát
chánh đạo, đoạn trừ hẳn Thân kiến thủ, nghi, giới cấm thủ, tham dục và sân nhuế
đối với dục giới, nên vĩnh viễn không còn có tái sanh vào dục giới nữa. Vì vậy,
gọi là Thánh quả Bất lai.
Chứng nhập được quả Thánh này, hành
giả hoàn toàn không còn sanh vào Dục giới, nhưng còn sanh vào cõi trời Tịnh cư
thuộc Sắc giới, ấy là Thánh địa của các Thánh giả A-na-hàm. Ở Thánh địa này, các
Thánh giả tiếp tục tu tập định và tuệ vô lậu, đoạn trừ những ái nhiễm đối với
sắc, gọi là sắc ái; tiếp tục đoạn trừ các ái nhiễm đối với vô sắc, gọi là vô sắc
ái; tiếp tục đọan trừ những hạt giống kiêu mạn, chấp ngã, cũng như những trạo cử
và vô minh nơi tâm, để hướng tới đời sống của vị A-la-hán siêu xuất sinh tử luân
hồi trong Ba cõi.
• Thánh quả A-la-hán
Thánh quả A-la-hán là quả vị cao nhất
đối với giáo lý thuộc các văn hệ kinh điển Āgāma và Nikāya, và là một trong mười
phẩm tính giác ngộ của Phật.
A-la-hán, tiếng Phạn (Sanskrit) là
Arhat, Arihant; Pāli là Arahant. Hán phiên âm là A-la-hán, A-ra-ha, A-lê-ha,
Át-ra-hát-đế... và dịch là Ứng cúng, Ứng chơn, Sát tặc, Vô sanh, Vô học chân
nhân... nghĩa là vị Thánh xứng đáng để cho chư thiên, nhân loại đảnh lễ cúng
dường; vị Thánh đã tận diệt hết thảy giặc phiền não; vị Thánh đã đoạn tận hết
thảy các loại phiền não liên hệ đến dục ái, ở các cõi dục; đoạn tận hết thảy
phiền não liên hệ đến sắc ái ở các cõi sắc; và đoạn tận hết thảy phiền não liên
hệ đến vô sắc ái ở các cõi vô sắc, nên không còn bị sanh tử trong Ba cõi chi
phối; đã hoàn tất các địa vị hữu học và đã đến địa vị của bậc vô học chân nhân.
Vị Thánh giả A-la-hán, đối với tám yếu
tố của Thánh đạo đã học tập hoàn tất và minh triệt từ vô học chánh kiến cho đến
vô học chánh định, đối với sự tái sanh đã chấm dứt, đối với những điều đáng làm
đã làm, không còn tái sinh đời sau, nên đối với con đường giải thoát sanh tử
không còn có bất cứ điều gì để học, nên gọi là vô học chân nhân.
Ở trong Đại Trí độ luận, Ngài
Nāgārjuna (Long Thọ) nói rằng, A-la-hán là Phật và chỉ có Phật mới là A-la-hán
đích thực qua bài kệ rằng:
佛以忍為鎧
精進為剛甲
持戒為大馬
禪定為良弓
智慧為好箭
外破魔王軍
內滅煩惱賊
是名阿羅漢。
“Phật dĩ nhẫn vi khải
Tinh tấn vi cương giáp
Trì giới vi đại mã
Thiền định vi lương cung
Trí tuệ vi hảo tiễn
Ngoại phá ma vương chúng
Nội diệt phiền não tặc
Thị danh A-la-hán.”
Tạm dịch:
“Phật dùng nhẫn làm áo
Tinh tấn làm cường bào
Trì giới làm đại mã
Thiền định làm nhuệ cung
Trí tuệ làm tên bắn
Ngoài phá chúng ma vương
Trong diệt giặc phiền não
Nên, gọi A-la-hán.”
Sự giải thích ý
nghĩa A-la-hán tùy theo căn cơ của thính chúng mà các kinh điển có những cách
giải thích sâu cạn, rộng hẹp khác nhau. Nhưng, dù giải thích sâu cạn, rộng hẹp
như thế nào đi nữa, thì các kinh điển cũng đều dựa trên Bát chánh đạo để khai
triển.
Và sự phân chia quả vị A-la-hán của
các kinh luận cũng có nhiều ý nghĩa sâu cạn, rộng hẹp khác nhau, nhưng với ý
nghĩa A-la-hán rốt ráo và hoàn chỉnh, thì A-la-hán là một trong trong những phẩm
tính căn bản, tạo nên đời sống của một bậc giác ngộ.
Tuy nhiên, trong phạm vi của bài này
tôi chỉ trình bày gọn rằng: A-la-hán thuộc về Thanh văn là A-la-hán có quả vị
giải thoát cao nhất đối với các Thánh quả Dự lưu, Nhất lai và Bất lai, và với ý
nghĩa này A-la-hán được nhấn mạnh đơn thuần về ý nghĩa tự giác, chưa có đủ hoàn
toàn các phẩm tính như: Như lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hành túc... của
một vị Phật. Vì thế, A-la-hán trong ý nghĩa Thanh văn không đi kèm theo với
những ý nghĩa như là: A-la-hán là Như lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hành
túc, Thiện Thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư,
Phật Thế Tôn.
A-la-hán mà gọi
là Phật, và Phật mà gọi là A-la-hán, thì A-la-hán trong ý nghĩa này có đi kèm
theo các phẩm tính giác ngộ như: A-la-hán là Như lai, là bậc Ứng cúng, là bậc
Chánh biến tri, Minh hành túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự
trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn.
A-la-hán đi kèm
theo với những ý nghĩa như: Như lai, Chánh biến tri, Minh hành túc... là
A-la-hán của bậc Chánh giác, của bậc Toàn giác, của Phật Thế Tôn.
Do đó, Phật là A-la-hán, nhưng không
phải là A-la-hán đơn thuần mà có đầy đủ các phẩm tính của bậc Toàn giác. Và như
vậy, chỉ có Phật mới là A-la-hán đích thực.
Đối với tự thân, tùy theo mức độ tu
tập Bát chánh đạo mà các Thánh quả giải thoát tương ứng có thể thành tựu ngay
trong hiện thế.
• Đối với xã hội
Đối với xã hội,
Bát chánh đạo là con đường chuyển hóa rất lớn để dựng xây một xã hội lành mạnh,
tiến bộ và văn minh, nâng những sinh hoạt của xã hội phàm tục lên thành những
sinh hoạt của xã hội bậc Thánh.
Trong một xã hội sinh hoạt lành mạnh,
tiến bộ và văn minh không thể thiếu một trong tám yếu tố của Chánh đạo. Vì sao?
Vì sự sinh hoạt xã hội, nếu thiếu Chánh kiến, sẽ tạo nên những xung đột do những
quan điểm cực đoan đem lại. Nếu thiếu chánh kiến, con người xã hội không thể
nhận ra sự quan hệ giữa nhân quả hữu cơ và hữu cơ; giữa nhân quả hữu cơ và vô cơ
và giữa nhân quả vô cơ với vô cơ, để có thể định hướng cho mọi hành vi đạo đức
và một thể chế hiến pháp và luật pháp cho một xã hội loài người tiến bộ và văn
minh hướng tới... Nên, ta không ngạc nhiên gì khi trong bài Hịch kẻ sĩ, Nguyễn
Công Trứ nói: “Cầm chánh đạo để trạch tà cự bí...”
Nếu thiếu chánh tư duy, con người
không nhận ra được sự quan hệ hữu cơ giữa con người và con người, cũng như quan
hệ vô cơ giữa con người và con người, giữa con người và muôn vật, khiến xã hội
người không vạch ra được một định hướng đúng cho mọi hành động của con người cá
nhân và con người cộng đồng. Nên, khiến cho những nỗi khổ đau của con người cá
nhân tác động lên con người xã hội hay ngược lại, làm cho đời sống con người bị
chùn lại và đi về hướng tiêu cực, thấp kém. Con người sống lãnh đạm, thờ ơ với
cuộc đời hay vồn vã, chụp giật và manh động với cuộc đời đều là những kẻ bị rơi
vào cạm bẫy của tà kiến và tà tư duy cả, khiến tất cả họ đang đi về hướng tiêu
cực và hủy hoại cuộc sống.
Vì vậy, chánh kiến
và chánh tư duy trong Bát chánh đạo giúp cho con người xã hội định hình được
tính quan hệ nhân quả hữu cơ tiêu cực và tính quan hệ nhân quả hữu cơ tích cực,
nhằm có thể chuyển hóa những thành phần tiêu cực của xã hội chuyển sang hướng
nhân quả hữu cơ tích cực, để đạt tới sự ổn định xã hội toàn phần một cách thực
tế.
Nếu không có chánh kiến và chánh tư
duy, ta không thể biết rõ, biết một cách chính xác những bất ổn và biến động xã
hội do đâu, và có cách nào để giải quyết những biến động ấy, khiến chúng trở nên
hòa bình, êm đẹp.
Trong những lãnh vực sinh hoạt của xã
hội như: tôn giáo, văn hóa, khoa học, chính trị, giáo dục, kinh tế, ngoại giao,
quân sự, an ninh xã hội... có cần đến Bát chánh đạo hay không, hay Bát chánh đạo
chỉ dành riêng cho lãnh vực tu hành của Phật giáo?
Có thể đã có nhiều người nghĩ rằng,
Bát chánh đạo chỉ nói đến những phương pháp tu tập, dành riêng cho những người
thực hành theo Phật giáo. Cách nghĩ như thế tự nó đã là phi chánh đạo rồi, vì
chánh đạo mà bị hạn chế bởi lãnh vực này hay lãnh vực kia, thì sao gọi là chánh
đạo được? Tại sao? Bởi vì cái gì chánh, cái đó tự nó mang tính phổ quát mà không
phải riêng lẻ. Nó phổ quát đối với thời gian, nên nó không bị thời gian làm cho
mòn diệt; nó phổ quát đối với không gian, nên nó không bị không gian đóng khung
và nó có mặt nơi khắp mọi đối tượng, để thanh lọc mọi tâm ý và hành động tà vạy,
cho hết thảy chúng sanh, nên nó không dành riêng cho một lãnh vực sinh hoạt nào
của xã hội con người, mà nó cần có mặt khắp mọi lãnh vực sinh hoạt của xã hội,
để giúp cho mọi lãnh vực ấy thanh lọc những cách nhìn sai lệch đối với bản thân
mình và những công việc mà mình đang hoạt động, khiến cho hành động càng lúc
càng trở nên chính đáng, có hiệu quả chính xác và tốt đẹp.
Nếu tôn giáo thiếu Chánh kiến và chánh
tư duy, thì tôn giáo ấy hướng dẫn niềm tin tâm linh của con người đi đến đâu và
về đâu? Vì vậy, mọi sinh hoạt tôn giáo không thể thiếu chánh kiến và chánh tư
duy, nếu thiếu một trong những yếu tố của Bát chánh đạo, thì những tôn giáo ấy
sẽ hướng dẫn niềm tin con người đi vào ngõ cụt, đường tà.
Nếu lãnh vực khoa học, văn hóa, chính
trị, kinh tế, ngoại giao, quân sự, an ninh xã hội, báo chí, truyền thanh, truyền
hình, thông tin... thiếu chánh kiến và chánh tư duy, thì những lãnh vực ấy sẽ
hướng dẫn những sinh hoạt con người đi về đâu, đem lại cái thấy, cái biết, cái
tư duy gì cho xã hội con người? Và lại nữa, nếu những lãnh vực sinh hoạt ấy của
xã hội thiếu Chánh ngữ, thì họ nói gì với xã hội con người; nếu thiếu Chánh
nghiệp, thì những hoạt động ấy của họ đem lại gì cho xã hội con người; nếu thiếu
Chánh mạng, thì họ đem lại đời sống như thế nào cho xã hội con người; nếu thiếu
Chánh tinh tấn, thì những lãnh vực ấy đem lại những tiến bộ gì cho con người;
nếu thiếu Chánh niệm, thì họ đem những sự nhớ nghĩ gì cho xã hội con người; và
nếu thiếu Chánh định, thì mọi lãnh vực ấy đem lại ý chí, nghị lực và an bình gì
cho xã hội con người?
Nếu trong các lãnh vực sinh hoạt ấy
của xã hội không có Bát chánh đạo, thì chúng sẽ dẫn sinh tám thứ tà đạo cho mỗi
lãnh vực sinh hoạt ấy của xã hội. Và đương nhiên, xã hội con người càng ngày
càng sinh hoạt theo hướng đảo điên và tăm tối.
Xã hội con người bị dẫn dắt bởi tám
thứ tà đạo gồm: Tà kiến là cái thấy tà vạy, một chiều; Tà tư duy là tư duy theo
cái thấy tà vạy, tư duy theo cái thấy một chiều; Tà ngữ là nói theo cái thấy,
cái tư duy tà vạy, một chiều; Tà nghiệp là hành động theo cái thấy, cái tư duy
tà vạy, một chiều; Tà mạng là sống theo cái thấy, cái tư duy tà vạy, một chiều;
Tà tinh tấn là tiến bộ, siêng năng theo cái thấy, cái tư duy tà vạy, một chiều;
Tà niệm là sự nhớ nghĩ theo cái thấy, cái tư duy tà vạy, một chiều; Tà định là
thiền định theo cái thấy, cái tư duy tà vạy, một chiều.
Nếu mọi lãnh vực xã hội sinh hoạt theo
tám thứ tà đạo ấy, thì những bất công của xã hội càng ngày càng trở nên gay gắt
và tồi tệ, ấy là điều không có gì để cho những bậc có trí trong đời phải ngạc
nhiên, và những bất hạnh, thất vọng và khổ đau của những con người bị cuốn chìm
trong xã hội, sinh hoạt chạy theo tám tà đạo ấy là một sự thật hiển nhiên, như
hai cộng với hai là bốn.
Đi theo đạo tà
thì có cái nhân quả của tà đạo, đó là Khổ đế và Tập đế, khiến người đi bị luân
lưu mãi trong luân hồi sinh tử khổ đau; đi theo đạo chánh thì có nhân quả của
chánh đạo, đó là Diệt đế và Đạo đế. Đạo đế là Chánh đạo. Nếu đi trên con đường
này, thì càng đi là càng xa lìa được khổ đau, chấm dứt sanh tử, tới được với
đích điểm an lạc hay Niết-bàn tối thượng.
Sống đời an lạc, đời sống ấy đâu phải
dành riêng cho ai, cho một thành phần nào, mà cho tất cả. Nên, đức Phật dạy Bát
chánh đạo là để đáp ứng những khát vọng lìa xa đời sống khổ đau và tìm về với
cội nguồn an lạc của tất cả mọi người, mọi thành phần đang sinh hoạt trong mọi
lãnh vực của xã hội con người.
Nguồn: Tập san Hoằng pháp 31