MỘT NGÀN NĂM THĂNG LONG, nhìn qua lăng kính văn học Phật giáo

Minh Đức Triều Tâm Ảnh

 

Minh Đức Triều Tâm Ảnh

I. Khái quát văn học các thời đại đi trước.

Khi nhận xét về văn học Lý, Trần - Phạm Đình Hổ trong “Vũ trung tùy bút” đã nói rằng: “Ta thường xét về văn hiến nước nhà, văn đời Lý thì cổ áo, xương kính, phảng phất như văn đời Hán; đến thời Trần tuy hơi kém hơn đời Lý nhưng cũng điển nhã hoa thiệm, nghị luận phô bày đều có sở trường cả”.

Nhận xét ấy có thể đúng một phần nhưng không phải là tất cả. Điều đáng lưu ý ở đây là xác định rằng văn học đời Lý đã đạt được đỉnh cao về giá trị uyên áo của nó - nhưng Phạm Đình Hổ đã quên xác định rằng, văn học ấy (Lý, Trần) hầu hết là văn học Phật giáo.

Đỉnh cao về giá trị văn học ấy không phải tự dưng mà có, đột khởi mà có. Nó là sự tiệm tiến, chuyển tiếp. Nó là một dòng chảy liên tục, không gián đoạn từ thời đại Hùng Vương, kinh qua các triều đại, bất chấp các thời kỳ lệ thuộc Trung Hoa.

Từ thuở “bình minh” của văn hiến Việt và văn học Phật giáo, ta đã có:

- Việt Luật (Luật pháp của Lạc Việt, có sai khác với Hán Luật 10 điều - từ thuở Hùng Vương).

- Lịch pháp Việt (sách thiên văn, lịch số... ngày tháng, năm... của Lạc Việt).

- Bài ca Việt (bằng chữ Việt cổ mà Lưu Hướng tìm thấy trong sử liệu Trung Quốc).

- Một số kinh sách dịch của Mâu Tử và Khương Tăng Hội - ảnh hưởng tư tưởng, văn hóa suốt nhiều thế kỷ.

- Các kinh đại thừa xuất hiện, như Pháp Hoa tam-muội và Tịnh Độ Di-Đà...

Rồi sau đó, 6 lá thư trao đổi giữa thứ sử Lý Miễu với hai vị thiền sư Đạo Cao, Pháp Minh, cho ta biết thêm thông tin:

- Lạc Việt, từ thuở Hùng Vương, đã cố tạo cho mình một ngôn ngữ riêng, muốn thoát ly văn hóa Tàu; đến thời này, thiền sư Đạo Cao còn viết một tác phẩm ngôn ngữ học có tên là “Tá âm” (dựa theo âm Hán) - và một quyển tự điển Việt - có tên là “Tá âm tự”.[1]

Tiếp đến,

- Đạo Thiền soạn: Giới quả trang nghiêm, thọ giới tinh hoằng giới thức, chú ưu-bà-tắc giới...

Thế kỷ thứ V - là thời đại mà Nho Mặc tranh với Phật - như lời của Lý Miễu: “Đây là thời đại đã bị khó khăn do bọn Nho, Mặc đang giành nhau nổi lên - thì há dễ cho chánh tín bị lu mờ - làm cho sự hủy báng (Phật) càng thêm tăng hấn.”

Phật giáo thời Lý Miễu đang rơi vào cuộc khủng hoảng, một phần là do Nho Mặc tranh giành ảnh hưởng, một phần, Phật giáo quyền năng và cầu nguyện thần bí đã thiếu sinh lực sau cuộc tự thiêu của Đàm Hoằng. Thế kỷ thứ VI, thiền phái Pháp Vân của Tỳ-ni-đa-Lưu-chi và Pháp Hiền xuất hiện. Tư tưởng của các kinh “Tượng đầu tinh xᔓĐại thừa phương quảng tổng trì” xuất hiện, đã đáp ứng được phần nào cuộc khủng hoảng của thế kỷ thứ V, tạo nên sinh lực mới. Những người Phật tử như Lý Nam Đế, Triệu Quang Phục đã đứng lên giải phóng dân tộc. Các nhà sư và một số tu sĩ trí thức Phật giáo rành thông tiếng các nước đã tìm ra mối bang giao với Chiêm Thành, Java... phối hợp viện binh, hợp đồng tác chiến, lấy lại quyền tự chủ, độc lập [2].

Thời lệ thuộc nhà Đường (603 - 906) dòng thiền Pháp Vân phát triển mạnh, song song với Kiến Sơ, sau cuộc khởi nghĩa khác của Mai Hắc Đế và Bố Cái Đại Vương; thời này, tư tưởng thiền Đông độ đan xen kinh Kim Cương tạo cho văn học một khuôn mặt mới.

Đây là giai đoạn rầm rộ bang giao nền văn học của hai nước Việt - Trung. Thật khó lòng biết rõ là ai ảnh hưởng ai - vì tất thảy mọi tư liệu đều thuộc về thư tịch Trung quốc hoặc suy luận, chắp chỗ này nối chỗ kia; nhiều nguồn lại thiếu kiến văn học thuật lẫn phương pháp khoa học của các nhà nghiên cứu sử đi trước. Có thể các nhà sư Trung Quốc trước khi Tây Du đều tìm xuống Giao Chỉ để học tiếng Phạn, tìm hiểu văn hóa, địa lý “rợ Hồ”. Có thể các nhà sư Giao Chỉ quen biết các nhà sư Trung Quốc, cùng nhau tổ chức những chuyến tàu vượt biển sang các nước Nam Á đến Tích Lan rồi lên Ấn Độ. Ngoài ra, đâu cũng biết rõ triều đình nhà Đường đã mời một số nhà sư hữu danh ở Giao Chỉ thuyết pháp tại kinh đô Lạc Dương và tại triều đình. Một số danh sĩ đương thời như Thẩm Thuyên Kỳ, Dương Cự Nguyên, Giả Đảo... làm thơ ca tụng đức tài của các nhà sư Giao Chỉ. Lại còn có vị sư như Đại Thừa Đăng có công bút thọ 8/10 công trình dịch thuật vĩ đại của Huyền Tráng... Sự tới lui, qua lại nhộn nhịp ấy đã ảnh hưởng lớn lao đến các bậc thức giả Trung Quốc; nên dù lệ thuộc Tàu, ở Giao Chỉ vẫn tồn tại chính quyền “lưỡng đầu”: Thứ sứ Tàu hữu danh vô thực và quyền tự quyết vẫn nằm trong tay Lạc Việt [3].

Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán, đuổi Tàu về nước, đăng quang vương vị; rồi nhà Đinh, nhà Lê xây dựng sự nghiệp, phát triển đất nước.

Khái quát đi qua cả ngàn năm như vậy để biết rằng, sinh lực và hơi thở của văn hóa Việt Nam đi liền với văn hóa Phật. Vậy, sự hình thành văn học thời Lý - phải nói là tập đại thành tinh hoa của hơn mười thế kỷ. Muốn tìm ra diện mạo của văn học đời Lý, chúng ta phải nghiên cứu từ chiều hướng ấy.

II. Diện mạo văn học thời Lý.

Khái niệm về văn học từ thời cổ đại, trung đại cho đến hiện nay có nhiều sự thay đổi, nhiều quan kiến sai khác.

Từ thời cổ và trung đại, các bộ môn như văn, triết sử đều được gọi chung là văn học. Những kinh, sách, những tác phẩm lấy “tư duy khái niệm” làm nền tảng, như sách triết luận, sách dạy về lý luận, sách dạy về đạo đức làm người; toàn bộ văn sách, cảnh sách ấy đều được ghép vào loại hình văn học. Thậm chí, kinh điển được dịch hoặc những tư tưởng được rút ra từ đấy, đem bình luận, phân tích cũng được gọi là văn học. Từ thời cổ đại, chúng chưa có ranh giới - mà vào thời trung đại vẫn chưa có ai phân tích rạch ròi loại nào là “văn học”, loại nào là “phi văn học”.

Người xưa đã đi từ các quan niệm:

- Có văn hóa tất có văn học.

- Có ngôn ngữ, văn tự tất có văn học.

- Tư duy tôn giáo tất là tư duy văn học.

- Có phiên dịch, trước tác, trước thuật tất là có văn học.

Ngày nay, theo quan niệm của khoa lý luận văn học hiện đại, thì tư duy hình tượng là đặc trưng của tư duy văn học; còn tư duy khái niệm có tính logic, biện chứng, luận lý, thuần lý - được gọi là “phi văn học”. Vậy, những gì được sáng tạo thông qua tâm trạng, tình cảm, cảm xúc... mới được gọi là văn học - hoặc là “văn học phi chức năng”. Còn những gì thiên về khái niệm trừu tượng, tư duy trừu tượng, logic, biện chứng - đều được gọi là phi văn học - hoặc là “văn học chức năng”.

Dầu sao, chúng chỉ là quan niệm - tiện cho việc thống kê, phân tích, tỷ giảo của những đầu óc duy lý - chứ thật ra cũng khá gian nan khi phân biệt cho rạch ròi. văn học hay phi văn học, chúng vẫn là văn học.chức năng hay phi chức năng, chúng vẫn là văn học. Nghiên cứu văn học thời nhà Lý, thuở bình minh của trung đại, tiêu chí không biên giới giữa hai loại hình văn học trên - lại càng hợp lý hơn. Như vậy, các thể tài, các loại hình sau đây đều được xem là văn học: bi, minh, chiếu, chế, biểu, hịch, cáo, ngữ lục, luận thuyết, văn sách...

Theo chiều hướng ấy, khi nghiên cứu văn học thời Lý, ta phải bắt đầu nghiên cứu tác giả, nội dung tác phẩm cũng như các thể loại mà chúng đã thể hiện.

1- Tác giả.

Theo tập “Thơ văn Lý, Trần”, người ta đã thống kê cả thảy có 74 tác giả, thuộc thời Lý; trong đó có 60 tác giả có tên và 14 tác giả khuyết danh.

Trong số 60 tác giả có tên thì đa phần đều là thiền sư. Đại lược như: Pháp Thuận, Khuông Việt, Vạn Hạnh, Định Hương, Thiền Lão, Cứu Chỉ, Huệ Sinh, Viên Chiếu, Ngộ Ấn, Mãn Giác, Chân Không, Diệu Nhân, Không Lộ, Minh Không, Đạo Hạnh, Giới Không, Khánh Hỷ, Trí Bảo, Thường Chiếu, Tịnh Giới, Y Sơn, Hiện Quang...

Còn vua chúa, quý tộc chỉ có 4: Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Ỷ Lan, Lý Nhân Tông. Số quan lại, nho sĩ thì có 6: Chu Văn Thường, Lý Thừa Ân, Đoàn Văn Khâm, Nguyễn Công Bật, Dĩnh Đạt, Ngụy Tư Hiền.

Thống kê, điểm danh khái lược như vậy - để biết rằng - đời Lý là thời phát triển cao độ của Phật học, cụ thể là thiền học. Nó đã từ khung cảnh thiền môn, ảnh hưởng đến khí hậu cung đình, sau đó là lan sang quan lại. Sau này, khi nghiên cứu văn học đời Trần, ta lại thấy chúng lan rộng xa hơn, thấm sâu vào xã hội, nhân sinh... rồi dần dần trở thành huyết mạch, sự sống, hơi thở của con người qua phong tục, tập quán, ca dao, thành ngữ, tục ngữ...

 

2. Thể loại văn học.

Gần như toàn bộ văn học thời Lý phải nói là văn học Phật giáo, văn học thiền học - đã được khởi nguyên từ khi Ngô Quyền thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng.

Vào các vua Đinh, Lê và đầu triều Lý, tư tưởng “Tam giáo đồng nguyên”, hoặc “Phật dụng Nho” chỉ mới manh nha, chưa định hình, chưa trở thành sách lược của triều đình - mặc dầu tư tưởng lấy Phật làm chủ đạo đã được tiên tri từ đầu thế kỷ thứ IX, qua câu kệ của thiền sư Định Không:

“- Đất trình pháp khí

Một món đồng ròng

Để Phật pháp được hưng long

Đặt tên làng là Cổ Pháp.”

Tiếp sau Định Không là Pháp Thuận với bài thơ “Nga nga” để tiếp Lý Giác; Khuông Việt với bài từ "Nguyễn Lang quy" tiễn Lý Giác về Tàu. Ấn tượng nhất là bài thơ “Vận nước như dây quấn” của Pháp Thuận, những câu kệ tiên tri của Đa Bảo cùng những tiên tri của Vạn Hạnh - đã đưa triều Lý lên ngôi; đấy hoàn toàn là công đức của các vị thiền sư. Mãi cho đến khi Lý Công Uẩn, sau khi dời đô về Thăng Long - lấy tư tưởng Phật làm tư tưởng chủ đạo, điểm tựa cho dân tộc - mới trở thành sách lược. Cụ thể là Lý Thái Tổ cho xây dựng chùa “Khai Quốc”[4] đầu tiên ở kinh thành, rồi sau đó cho xây dựng liên tiếp rất nhiều ngôi chùa khác nữa[5]. Ai “mở nước”? Rõ ràng là Phật giáo đã mở nước, xây dựng quốc độ thanh bình, lấy tư tưởng Phật làm chủ đạo.

Vào giai đoạn đầu triều Lý - tức là đầu thời kỳ trung đại - các thể loại văn học tương đối đa dạng. Ta có thể khái lược:

- Văn học phụng sự triều đình trong các công tác hành chánh, như: Chiếu, chế, biểu, hịch...

- Văn học phụng sự giáo dục: Văn sách, kinh nghĩa...

- Văn học phụng sự Phật học: Kinh, kệ, thơ thiền, ngữ lục, tụng cổ, niệm tụng, minh, bi ký, luận thuyết, truyền đăng...

Trong các thể loại văn học trên, ngày nay, nếu khu biệt văn học Phật giáo - thì chúng ta chỉ nghiên cứu các loại hình văn học phụng sự Phật học. Vì đây mới chính là sự thể hiện tạo nên diện mạo văn học Phật giáo thời Lý.

2.1. Kệ, thơ.

Kệ, thơ là gọi chung kệ và thơ của các vị thiền sư. Đôi khi kệ cũng chính là thơ, các nhà biên khảo văn học gộp chung lại và gọi là thơ thiền. Tuy nhiên, nếu phân định kỹ, kệ và thơ vốn là hai thể tài khác nhau.

*Kệ: Phát nguyên từ “gathā” tiếng Pāi. Lúc đức Phật thuyết xong một thời pháp, thường tóm tắt ý kinh bằng 1 bài kệ - thuộc thể loại văn vần. Vậy, gātha - kệ - thường có nội dung là giáo lý thuần túy. Các vị thiền sư Trung Hoa, Việt Nam cũng dùng kệ để nói về tinh túy Phật học, tâm yếu Thiền hoặc cô đọng cả một đời chiêm nghiệm, tu học hoặc sở đắc riêng tư của mình để trao gởi cho môn đồ, sau khi giảng pháp hoặc trước lúc thị tịch.

Đời Lý, Trần - các vị thiền sư nói kệ, đôi khi có lẫn tư tưởng Nho, Lão - nhưng bao giờ tư tưởng Phật, thiền học cũng là chủ đạo. Có một số vị cũng nói kệ - nhưng kệ ấy, vài câu là tư duy khái niệm, vài câu là tư duy hình tượng. Bài nào hoàn toàn là tư duy khái niệm thì nó gần với kệ. Bài nào nửa tư duy khái niệm, nửa tư duy hình tượng thì xem như nửa kệ, nửa thơ. Bài nào hầu hết là tư duy hình tượng thì đậm đà chất thơ hơn.

*Thơ: Thoát thai từ kệ ở trên, các vị thiền sư lúc thì làm thơ sấm vĩ, lúc suy lý, lúc tự sự, lúc ngẫu hứng, lúc tức cảnh sinh tình rất là đa dạng.

Do khó phân biệt nên người ta gọi chung là thơ thiền hết.

Thời Lý, các nhà nghiên cứu đã tìm ra 161 bài; trong đó hầu hết là có tính triết lý, 13 bài là sấm vĩ và chừng 10 bài tức cảnh sinh tình.

Chúng ta có thể nêu dẫn một số:

- Kệ của thiền sư Đa Bảo có tư tưởng Phật học:

- Trong cây vốn có lửa

Có lửa, lửa mới hừng

Nếu bảo cây không lửa

Cọ xát, lửa đâu bùng?

Nhận xét: Lửa có từ trong cây là nhân, nhân ấy phải có duyên là sự cọ sát mới thành lửa được. Vậy nhân không thể thành quả, phải có duyên góp vào mới thành quả: Nhân + duyên = quả

- Kệ của Định Hương trưởng lão có tư tưởng thiền:

- Xưa nay không xứ sở

Xứ sở là chơn tông

Chơn tông như là huyễn

Có huyễn tức không không.

Nhận xét: Mở phơi thế giới không tánh, chân diện mục... vốn thoát ly khái niệm, rỗng rang, vô trụ xứ, không chấp trước, dính mắc...

- Kệ của thiền sư Vạn Hạnh có tư tưởng Phật học dẫn đến triết lý hành động:

- Thân như ánh chớp có rồi không

Xuân thắm, thu sang sắc nhạt hồng

Gẫm chuyện thịnh suy không sợ hãi

Thịnh suy, đầu cỏ, hạt sương đông.

Nhận xét: Đây là kệ mà không còn mang tính chất của kệ nữa, vì hai câu đầu tuy là tư tưởng Phật học nhưng đã được thi vị hóa bằng cảm xúc hình tượng. Còn hai câu sau là thái độ cư xử, hành động.

- Kệ của thiền sư Đa Bảo thì lại thuộc sấm vỹ:

- Một bát nước công đức

Tùy duyên hóa thế gian

Sáng choang còn chiếu đuốc

Bóng mất, trời lên non.

Nhận xét: Tiên tri nhà Lý lên ngôi, được tám đời (bát = tám).

- Kệ của thiền sư Vạn Hạnh cũng thuộc sấm vỹ:

- Tật Lê chìm biển Bắc

Hạt Lý mọc trời Nam

Bốn phương gươm giáo lặng

Tám cõi mừng bình an.

Nhận xét: Tiên tri nhà Tiền Lê mất và nhà Lý lên ngôi vua thì thiên hạ thái bình.

- Kệ của thiền sư Đạo Hạnh là thơ có tư tưởng thiền:

- Có thì có cả trần sa

Không thì tất thảy ta bà cũng không

Nhìn xem bóng nguyệt lòng sông

Chấp chi có có, không không đời này.

Nhận xét: Có, không chỉ là ý niệm chứ không phải thực tại. Bóng trăng ở dưới sông, nó đấy nhưng thò tay vớt thì không có. Nhưng bảo không có thì tại sao ta vẫn thấy nó có? Vậy, có cũng trật mà không cũng sai. Thực tại vốn ở ngoài có, không của ý niệm.

- Kệ của thiền sư Mãn Giác là thơ có tư tưởng thiền:

- Xuân đi, đóa đóa hoa rơi

Xuân về, đóa đóa hoa tươi thắm màu

Việc đời trước mắt qua mau

Tuổi già chợt đến trên đầu thế a!

Xuân tàn, chớ bảo không hoa

Một cành mai nở, đêm qua, trước thềm!

Nhận xét: Ngắm nhìn ngoại giới và bản thân mình thay đổi theo định luật tự nhiên của vạn hữu - thiền sư mở phơi một thế giới “Mùa xuân không sinh diệt của tâm linh”.

- Kệ của thiền sư Không Lộ là thơ có tư tưởng thiền:

- Giấu mình, chọn đất dễ ưa

Niềm quê lạc đạo, sớm trưa nhẹ lòng

Có khi chót vót cô phong

Cất dài tiếng hú, hư không lạnh bầu!

Nhận xét: Vui vẻ, bình dị, thanh thản ở hai câu đầu. Nhưng hai câu sau lộ rõ tư tưởng thiền học cao viễn từ cảm xúc tâm linh siêu thoát không thời nào có được.

2.2. Ngữ lục.

Thời Lý ta được nghe nhắc đến Tuyết Đậu ngữ lục của phái Thảo Đường. Thường thường, ngữ lục của vị thiền sư nào thì nói về cuộc đời, hành trạng, yếu chỉ thiền hoặc kinh nghiệm tu chứng trọn đời của vị ấy. Cuộc đối thoại giữa thầy và trò - được gọi là thiền ngữ, thiền thoại... cũng ở trong nội dung của ngữ lục.

“Tham đồ hiển quyết” của thiền sư Viên Chiếu cũng được xem là ngữ lục. Trong Tham đồ hiển quyết có một số câu được xem như công án, một số câu lộ rõ tư tưởng, triết lý Phật, một số câu khác thì nghe “thơ hơn cả thơ”.

*- Dạy tu hành, nghĩa gần:

- Bưng chậu nước đầy không cẩn thận

Một phen vấp ngả hối mà chi.

Nhận xét: Chăm chăm cái tâm như bưng chậu nước đầy. Phải chánh niệm, tỉnh giác trong mỗi mỗi oai nghi, tế hạnh.

*- Dạy tu hành, nghĩa bóng:

- Khuyên anh hãy gắng nông tang nhé

Đợi thỏ, người kia luống uổng công.

Nhận xét: Lo nông vụ mới có gạo ăn, chớ đừng ngu si như người nước Tống kia cứ ôm cây mà đợi thỏ. Hãy tự lo tu tập mới mong giác ngộ, đừng hảo huyền chờ đợi giác ngộ  tìm đến cho mình.

*- Dạy công án:

- Ao khô cá lên cạn

Sống cả vạn năm xuân.

Nhận xét: Gọi là công án - vì chúng ta không thể suy lý, diễn dịch theo cái biết của lý trí nhị nguyên hoặc theo các quan niệm của thế giới hữu vi. Nó chỉ có giá trị tức thời giữa thầy và trò, nhằm đối trị một vướng mắc, một chấp trước nào đó của đệ tử (thiền gọi là đối căn, đối cơ). Nó thuộc phạm trù tâm linh trực giác. Đôi khi, do người đệ tử hoài nghi Niết-bàn là nơi không sinh diệt, cắt đứt chư duyên... là chỗ chẳng còn sự sống - nên thiền sư đã gợi ý rằng - đừng lo, cái ao kia mà khô thì cá lên cạn, nó không chết đâu - nó sống cả vạn năm xuân đấy! (Tạm giải mã - con cá sống vạn năm xuân - ta có thể liên tưởng đến cành mai của Mãn Giác thiền sư).

*- Dạy rất dễ hiểu, mà ngôn ngữ thuộc tư duy hình tượng, đậm đà chất văn học.

- Khi có vị tăng hỏi: Phật và Thánh nghĩa thế nào? Thầy đáp: Ngày thì ác vàng dọi, đêm đến thỏ bạc soi!

Nhận xét: Phật một nhiệm vụ, Thánh một nhiệm vụ. Tùy thuộc thời đại, không thời gian, đại dụng... mà xuất hiện, chẳng thể so sánh được. (Lưu ý: Thánh chính là Chu Công, Khổng Tử - vậy là Nho giáo đã đi vào thiền môn).

Đôi khi thiền sư Viên Chiếu ứng khẩu mà hình tượng thơ, cấu trúc thơ rất gần với hiện đại:

- Theo gió, tiếng còi xuyên trúc đến,

Đội trăng, bóng núi vượt tường sang!

2.3. Minh, bi ký.

Minh là thể văn vần, bi ký là thể văn xuôi. Tuy thế, người ta thường xếp chúng vào chung một loại.

Tất cả minh, bi ký thời Lý đều thuộc về văn học Phật giáo.

Bi ký thuộc loại văn xuôi cổ mà ngày nay gọi là tản văn. Nội dung bi ký thường ghi chép, kể lại việc xây dựng, tôn tạo, trùng tu, công đức, tiểu sử... của người có công hoặc xuất xứ của hiện vật, công trình. Thường là ghi khắc lên chuông hay bia đá, văn biền ngẫu rất công phu.

Cuối phần bi ký thường có một bài minh - nhằm tóm tắt nội dung ở trên hoặc cảm xúc, tán thán của người chấp bút. Minh luôn luôn là thơ, loại 4 chữ hay 5 chữ... tuy nhiên, không nhất định như thế.

Đôi khi trên bia đá, trên chuông người ta còn tìm thấy một bài minh chứ không có ký - như bi minh của thiền sư Pháp Bảo soạn vào năm 1126 - nói về đạo Phật và ca tụng công lao của Lý Thường Kiệt trong việc xây dựng chùa Linh Ứng. Ta chỉ chép mấy câu đầu và mấy câu cuối:

 

“- Tam giới luân hồi. Tứ sinh trì trục. Vọng niệm sở sanh. Sắc tâm điên phú. Thượng tứ tham sân. Khiên triền ái dục.... Tục tận biến hề tích hà cùng. Khắc minh vĩnh trác yên nham trung.”

(Ba cõi tới lui. Bốn loài lăn lóc. Vì vọng niệm sanh. Đảo điên tâm, sắc. Buông tuồng tham sân. Triền miên ái dục... Ân đức lan chừ, đến mọi nẻo. Ghi bia đá chừ, để lại non sông”.

Trong Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn, ông ta thống kê vào thời Lý, có trên 20 bài minh, ký nhưng hiện giờ chỉ còn 7 bài khắc lên chuông đồng, bia đá, mà nội dung, ông khen là: “Văn biền ngẫu bóng bẩy, đẹp đẽ giống thể văn đời Đường.”

 

 

2.4. Luận thuyết.

Đây thuộc thể loại sáng tác, trước tác hay trước thuật của các vị thiền sư. Thể tài văn học này rất phong phú. Về hình thức thường sử dụng tản văn, văn biền ngẫu, đôi khi xen kẽ cả thơ. Nội dung khá rộng rãi. Có bài là thuần túy tư tưởng Phật: Dựa theo kinh, pháp để dạy đồ chúng, pháp môn tu tập, nói về giới luật, kinh điển, Tăng-già; lại còn có những bài thiên về triết luận đạo đức nhân sinh. Có bài liên hệ quốc gia đại sự như khuyên vua, giúp nước.

Về đời Lý, người ta còn tìm được mấy đoạn tư tưởng của Vạn Hạnh khuyên Lý Công Uẩn. Tăng phó Nguyễn Thường khuyên vua Lý Cao Tông không nên mê đắm âm nhạc buồn thảm. Quốc sư Viên Thông bàn việc trị loạn, nguyên tắc dùng người, đạo đức bản thân... để khuyên vua Lý Thần Tông. Có những đoạn văn như sau:

- Yêu người là kính trọng kẻ dưới, sợ hãi tựa như leo bám dây mục (An nhân giả kỉnh kỳ hạ dã, lẫm hồ nhược ngự hủ sách).

- Sửa mình là cẩn thận ở trong lòng, run rẫy như đi trên băng mỏng (Tu kỷ giả thận ư trung dã, lật nhiên như lý bạc băng).

Hoặc: “Được người thì trị, mất người thì loạn”; hay: “Dùng quân tử thì được thịnh, dùng tiểu nhân thì suy vong”.

Vào thời này, lời khuyên dạy của các vị thiền sư là mẫu mực, là thước đo, là chiến lược, là chính sách cho các vua trị nước. Nếu vua nghe theo thì nước nhà an ổn, hưng thịnh; nếu vua vì tửu sắc mà không nghe theo thì triều đại ấy suy tàn.

Thể loại văn học thời này còn nhiều như biểu, tấu, truyện, sử... nhưng chỉ cần khái quát chừng ấy, ta cũng đã hình dung ra sự phong phú của nó.

3. Văn tự, ngôn ngữ.

Ngôn ngữ là yếu tố, là chất liệu, là phương tiện để xây dựng nên hai loại hình văn học là tư duy khái niệm và tư duy hình tượng. Không có ngôn ngữ, văn tự thì không có văn học.

Người ta thường nói Việt Nam có 4 ngàn năm văn hiến; tức là có ngôn ngữ, chữ viết, văn tự đã 4 ngàn năm. Tuy nhiên, chẳng có ai chứng minh được điều đó vì thời đại Hùng Vương về trước vẫn còn được xem là khuyết sử; và ngay thời đại Hùng Vương - 18 đời vua mà tồn tại 2000 năm - thì cũng chẳng có ai có thể tin được! Do sử liệu của ta thường dựa vào sử liệu Trung Quốc - mà Trung Quốc thường ngạo mạn xem các nước khác đều là man di - nên ta không thể tin cậy được. Ngày nay, nhờ khoa khảo cổ học, di truyền học, ngôn ngữ học (nhất là đo sọ người) - có những phát kiến đáng cho chúng quan tâm, là giống dân Việt (Văn minh Đông Sơn - chủng Cổ Mã Lai, Nam Dương, Thái Lan, Miến, Cao Miên, Lào, Gia Rai, Mường, Lạc Việt - tất cả đấy chính là Bách Việt) là một chủng tộc cổ sơ, có ngôn ngữ, chữ viết cổ sơ - có thể gọi là có cả 5000 văn hiến! [6].

Nhà sử học Lê Mạnh Thát nói rằng, ông đã tìm ra bài “Việt ca” trong chính sử nhà Hán nhằm chứng minh chữ Việt cổ đã có mặt từ thời Hùng Vương (Tất đã có tiếng nói và chữ viết). Các nhà khảo cổ tìm thấy những ký hiệu chữ viết trên trống đồng Đông Sơn, họ cũng dự đoán đấy là thứ chữ của người Việt cổ, khoảng thế kỷ thứ IV trước công nguyên.

Một vài sử liệu trong “Lục độ tập kinh, Cựu tạp thí dụ kinh”... GS. Lê Mạnh Thát cũng tìm ra một vài hình thái chữ Việt xen lẫn giữa kinh văn Hán.

Như vậy, từ những cứ liệu ấy, ta có thể giả đoán chữ Việt cổ đã được tìm thấy cách đây trên 2000 năm, nhưng sau đó mất tích do tình trạng Bắc thuộc - nhưng tiếng nói thì còn! Đến thế kỷ thứ V, thiền sư Đạo Cao có viết hai tác phẩm ngôn ngữ học dựa theo âm Hán nhằm truyền bá chữ Việt... nhưng sau đó rồi cũng chìm mất. Thế là cả một ngàn năm, dân tộc Việt phải sử dụng chữ Hán làm văn tự chính thống trong hành chánh, trong dịch thuật, sáng tác, trong học hành, thi cử...

Đến thời nhà Lý, lần đầu tiên, ta tìm thấy các vị thiền sư sử dụng chữ Nôm - tức là thứ chữ sáng tạo đọc theo âm Việt nhưng lại mượn chữ tượng hình, tượng thanh của Hán ngữ. Người ta tìm thấy thiền sư Đạo Hạnh đã viết một bài vè có tên là “giáo trò” có 4 chữ, 8 câu theo điệu dân gian, mộc mạc - bằng chữ Nôm. Đây là bài “giáo đầu” trong các cuộc diễn trò - cụ thể là hát chèo và múa rối - thuộc loại sớm nhất văn học Nôm ở nước ta. Chính nhờ sự khởi xướng này của Đạo Hạnh, đồng thời, do muốn thoát ly ảnh hưởng văn hóa Tàu, muốn khởi động tinh thần tự chủ của dân tộc, mà sau này, vua Trần Nhân Tông đã viết những bài phú bằng chữ Nôm xuất sắc như: Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca và cư trần lạc đạo phú...

Tinh thần dùng chữ Nôm để thay thế chữ Hán trải qua quá trình vận dụng sáng tạo của dân tộc, nhiều nhà nghiên cứu đã cho rằng, công lao ấy được phát tích tại nhà chùa. Cụ thể là khi viết tên tuổi, họ hàng, quê quán trên sớ điệp trong các cuộc lễ cầu an, cầu siêu - chữ Hán thường không đáp ứng đủ hoặc không viết được tên chữ Việt - nên các nhà sư phải chế tác, lâu dần thành chữ Nôm [7].

Các thời đại đi sau, sau Trần Nhân Tông, Huyền Quang, nhiều tác giả sử dụng văn Nôm như là phương tiện để sáng tác văn học... như Nguyễn Thuyên, Nguyễn Sĩ Cố, Chu Văn An, Trần Ngạc, Hồ Quý Ly...

4. Đề tài sáng tác.

Triều Lý được xây dựng do kiến trúc sư Vạn Hạnh với sự hỗ trợ của một số các vị thiền sư khác - nên văn học thời này, toàn bộ là văn học Phật giáo. Có một vài bài thơ xen kẽ tư tưởng Nho hay Lão nhưng chưa đáng kể, vì Phật vẫn là chủ đạo. Do vậy, đề tài sáng tác chủ yếu là sự tu tập, tư tưởng giáo pháp, tâm yếu thiền, kinh nghiệm tâm linh tu chứng. Lan xa hơn chút nữa là răn dạy môn đồ, khuyên vua giữ tâm, giữ đức. Ngoài ra, có những sáng tác có tính tự sự hoặc được ngẫu cảm từ thiên nhiên với ngôn ngữ nghệ thuật đậm đà hình tượng văn học - không thua gì khí hậu Hán-Đường. Tuy có ngẫu cảm về thiên nhiên, nhưng thiên nhiên ấy không phải là chủ đạo; nó chỉ là “duyên sự”,“cái đinh để treo bức tranh thiền”. Thiên nhiên ấy bao giờ cũng được cảm nhận qua tâm thiền để gởi gắm kinh nghiệm tâm linh siêu thoát.

Các đề tài tư tưởng, triết lý cũng vậy - nó không rơi vào loại triết luận duy lý khô khan mà luôn được chế biến bằng cảm xúc nghệ thuật ngôn từ.

Trong khi nghiên cứu thơ thiền, các nhà nghiên cứu còn đưa ra mảng đề tài về con người và cuộc sống trần tục. Đấy là một hiểu lầm thậm thâm nguy hiểm. Đời Lý không có thiền sư nào sáng tác văn học về đề tài con người hay đề tài cuộc sống trần tục. Nếu các ngữ lục, bi ký, truyện có đề cập về tiểu sử, cuộc đời và hành trạng... của một vị thiền sư - thì đấy đâu hẳn là nói về “con người” - mà nó nói về nhân cách, phong thái và cả cuộc đời tu chứng, phụng sự của vị ấy. Họ còn nói rằng, có một bộ phận văn học quan niệm về con người, như con người ngộ đạo, khát khao hòa nhập vào vũ trụ, pháp giới. Điều này có thể đúng, có thể không. Đúng, nếu người ta coi đạo Phật như Bà-la-môn giáo, muốn thể nhập, hòa tan giữa tiểu ngã và đại ngã vũ trụ. Sai, nếu người ta hiểu được tinh thần giác ngộ, giải thoát của đạo Phật là thấy rõ ngã và pháp đều vô tự tính, rỗng không... chẳng cần thõng, cần trụ, cần ly, cần nhập vào đâu cả.

Về cuộc sống trần tục cũng vậy. Những bài thơ “Ngôn hoài” của Không Lộ, bài “Cáo tật thị chúng” của Mãn Giác - đâu phải là tâm sự, nỗi lòng của tác giả đối với cuộc sống, cuộc đời? Bài thứ nhất, siêu thoát triết lý có, không, thoát ly ý niệm, khái niệm để ngắm nhìn thực tại. Bài thứ hai, ngẫu tác từ ngoại cảnh, thấy rõ sự sinh diệt, thay đổi của thế giới sinh vật lý - rồi đưa đến chân trời cao viễn hơn của “mùa xuân tâm linh”.

Thật đáng tiếc là một số nhà nghiên cứu với cái tâm trần tục nên nhìn đâu cũng thấy trần tục.

III. Đặc điểm và tính chất văn học thời Lý.

Nếu các thể tài, loại hình văn học là hình thức chuyển tải văn học - thì đặc điểm, tính chất nổi trội, quyết định - là nội dung của văn học. Chính nội dung của văn học với đặc trưng của nó mới là cái hồn, cái tinh hoa của văn học.

Khi phân tích đặc điểm và tính chất của văn học thời Lý, các nhà nghiên cứu đã “mượn” quan niệm về “tôn giáo” của Tây phương, “mượn” quan điểm “mỹ học”của Hegel... để tạo lập tiền đề rồi xác định giá trị. Họ nói rằng:

“- Tôn giáo là ngọn nguồn vô tận để khêu gợi cảm hứng sáng tạo.”

“- Sự kính tín, kính ngưỡng của con người đối với vị thần linh, giáo chủ... đem đến những tác động khôn cùng cho ngọn bút sáng tạo.”

Điều đầu tiên cần phải đính chính ở đây là đạo Phật không phải là tôn giáo. Tôn giáo (Réligion) là sản phẩm của Tây phương - để chỉ những tôn giáo hữu thần như Ki-tô giáo, Hồi giáo, Bà-la-môn giáo. Tôn giáo, theo định nghĩa của Tây phương thì nó phải hội đủ 3 yếu tố: Một vị Thượng đế, thần linh; một hệ thống tư tưởng và một hình thức tổ chức lễ nghi, cúng bái, cầu nguyện tha lực.

Các tôn giáo trên toàn cầu đều gồm đủ 3 yếu tố ấy nên được gọi là tôn giáo. Riêng đạo Phật thì không có yếu tố thứ nhất, không có một Thượng đế, thần linh nào cả. Có yếu tố thứ hai, tức là một hệ thống tư tưởng, giáo pháp (Tam Tạng kinh). Riêng yếu tố thứ ba, thì có nhưng được xem nhẹ. Tịnh Độ tông thì đậm đặc yếu tố thứ ba, nhưng Thiền tông thì hoàn toàn ngược lại - không có tha lực, cầu nguyện, chỉ chú trọng tự lực, tự giác.

Yếu tố thứ hai tức là “một hệ thống tư tưởng” cũng phải nên bàn lại. Có nhiều học giả sính cái học Tây, sợ rằng đạo Phật không có triết lý - nên “hệ thống tư tưởng Phật học” họ gọi là triết lý của đạo Phật. Xin thưa ngay rằng, tất cả cái gọi là triết lý, triết luận, triết học đều là sản phẩm của Tây phương duy lý, là sự chia chẻ, phân tích các ý niệm trừu tượng - thiên về luận suy, suy đoán “thực tại” chứ chưa bao giờ là “thực tại”. Đông phương, nhất là Phật giáo với trọn bộ Tam Tạng thánh điển - đức Phật do tuệ giác thâm sâu, cao viễn - ngài chứng nghiệm như thế nào thì ngài nói ra như thế ấy; nói ra, “như thị thuyết”, “như thực thuyết”. Nếu sử dụng từ triết lý thì chỉ đúng ở lãnh vực triết luận của chư tổ trong các luận thuyết của các ngài.

Vậy, đến đây, khi nghiên cứu đặc điểm tính chất văn học thời Lý chúng ta loại bỏ ra ngoài những tiêu mục như:

- Tôn giáo và cảm xúc văn học.

- “Triết lý” Phật giáo và tư duy văn học.

- Phật giáo và “bản thể luận”...[8]

- Ý nghĩa “triết học” của chữ Tâm...

Cái mà chúng ta nghiên cứu ở lãnh vực này là:

- Cơ sở tư tưởng.

- Tư duy khái niệm.

- Tư duy hình tượng.

1. Cơ sở tư tưởng.

Văn học là một loại hình cấu trúc thượng tầng của xã hội. Nó là một hình thái ý thức nâng cao các giá trị mỹ học về đạo đức, luân lý... để vượt thoát ra khỏi thế giới của bản năng và thú tính.

Muốn hình thành một nền văn học thì phải có một cơ sở tư tưởng làm nền tảng. Nếu Tây phương dựa trên các tôn giáo và các triết gia thì Đông phương dựa trên nền tảng Đạo học của Phật, Nho và Lão.

Văn học thời Lý là của Phật giáo. Các vị thiền sư ngoài việc nghiên cứu kinh điển của Phật và của tông phái mình, họ còn nghiên cứu cả Nho, Lão... Với nghĩa rộng hơn, ngoài Tứ thư, Ngũ kinh, Đạo đức kinh, Nam hoa kinh; họ còn tinh thông cả y dược, lý số, phong thủy, thiên văn, bói toán, bốc phệ... Sở học của họ hàm tàng nội điển và ngoại điển; vừa chú trọng tu chứng bản thân vừa tìm phương tiện giáo hóa nhân quần.

Chính nhờ gặp gỡ Nho giáo mà Phật giáo như tăng thêm sức đại dụng từ, bi, hỷ, xả với nhân, nghĩa của Khổng Nho. Dễ dàng kết hợp tố chất đức hạnh của Tăng như chánh hạnh, chánh trực, ôn nhu, hiền thiện, tri túc... với chí công vô tư, liêm khiết, chánh trực... của Nho gia. Chính nhờ gặp gỡ Lão Trang mà Phật giáo dễ dàng chuyển tải những tư tưởng giải thoát, vô trụ, vô chấp, vô tướng, vô dục, vô vi. Có nhiều tư tưởng trong “Đạo đức kinh” ta tưởng như chính Phật thuyết: “Kiến tố, bảo phác, thiểu tư, quả dục” (Thấy cái trinh trắng, giữ gìn cái chất phác, ít cái tư lợi tư kỷ, bỏ bớt cái lòng ham muốn). Trang Tử thì coi cái chết bằng nhau, như nhau (tề sinh tử) - nhẹ nhàng như mảnh lông hồng; Khổng Tử thì xem “sinh ký tử quy”(sống gởi thác về). Không biết các bậc thức giả đạt quan Nho Lão, nói thì hay thế, nhưng không biết họ có ra đi được như thế không; nhưng các vị thiền sư giác ngộ sinh tử đại sự thì rất là trạm nhiên, thanh thoát, nhẹ nhàng khi xả bỏ báo thân.

Tuy nhiên, thời Lý, đất nước vừa mới xây dựng, chỉ riêng tư tưởng Phật đã đủ để ổn định và phát triển quốc gia - nên các vị thiền sư chưa cần mượn Nho, Lão. Tất cả các thể tài văn học cũng vậy, nội dung sáng tác vẫn đậm đà tư tưởng Phật. Chỉ có một vài bài có bóng dáng Nho, Lão:

- Ảnh hưởng thuật ngữ Lão: Bài "Vận nước" của Pháp Thuận.

“- Vận nước như dây quấn

Trời Nam mở thái bình

vi trên điện các

Chốn chốn hết đao binh”.

- Ảnh hưởng thuật ngữ Kinh dịch, của Viên Chiếu:

“- U minh càn tượng nhân ô thố

Khuất khúc khôn duy vị Nhạc, Hoài.”

- Ảnh hưởng hình ảnh Tiên gia, của Chân Không:

“- Nếu đến tiên gia trong động thẳm

Thuốc đan đổi cốt được đem về.”

Ngoài ra, trong văn học thời Lý, các thuật ngữ như đạo, tâm, vô vi... thường được sử dụng lẫn lộn, chung một trường khái niệm; nhưng thật ra, đạo, tâm, vô vi của Phật hoàn toàn mang ngữ nghĩa khác, khác nhau quá xa. Chỉ người học Phật nào lặn sâu vào “linh hồn” của Phạn ngữ mới nắm bắt chân xác được ngữ nghĩa ấy. Rất tiếc, mấy ngàn năm nay, đạo, tâm, vô vi...[9] chúng ta sử dụng - đều là mượn khái niệm của Nho, Lão nên nhiều nơi đã bị sai lệch.

2. Tư duy khái niệm (ngôn ngữ khái niệm).

Sau khi có cơ sở tư tưởng, các vị thiền sư dựa trên nền tảng ấy để chuyển tải quan niệm, thái độ, chứng nghiệm... của bản thân mình - thể hiện qua loại hình văn học thứ nhất là: tư duy khái niệm hay là ngôn ngữ khái niệm.

Các thể tài văn học như ngữ lục, bi, minh, ký, sử, truyện... và cả một số kệ, thơ, có tính chất tư tưởng, triết lý... đều thuộc về ngôn ngữ khái niệm.

Chủ thể loại hình văn học này là lý tính - nên sự xúc tác, va động tương giao và phạm trù thưởng ngoạn cũng thuộc về lý tính. Tuy nhiên, lý tính Đông phương khác lý tính Tây phương.

Nếu lý tính Tây phương thuộc phạm trù tư duy phân tích, nhị nguyên, chủ biệt, hướng ngoại thì lý tính Đông phương thuộc tư duy tổng hợp, nhất nguyên, chủ toàn và hướng nội.

Do sự khác biệt ấy nên các vị thiền sư nếu có sử dụng ngôn ngữ khái niệm để diễn đạt thế giới khách quan (thiên nhiên ngoại vật) - để rồi cũng phản ánh chúng bằng cái tâm của mình. Và cũng nhờ hướng nội nên lý trí phân tích nhị nguyên, nếu có - cũng trở về với trực giác tổng hợp của tâm linh.

*- Ví dụ bài thơ của Mãn Giác:

“- Ông thấy xuân đi, xuân đến, hoa nở, hoa tàn, việc đời qua trước mắt, trên đầu già đến rồi”- thuộc lý trí. Nhưng hai câu cuối: “Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai” - thì đã lộ “trực giác tâm linh”! Ở đây, lý trí, lý tính với những khái niệm ước lệ tương thuộc đã cùng đường, tuyệt lộ!

*- Ví dụ bài thơ “Ngôn hoài” của thiền sư Không Lộ cũng vậy.

Hai câu đầu: “Giấu mình, chọn đất dễ ưa. Niềm quê lạc đạo sớm trưa nhẹ lòng” - thuộc lý trí, tình cảm. Nhưng đến hai câu sau: “Có khi chót vót cô phong. Cất dài tiếng hú, hư không lạnh bầu!”- đã thuộc về cảm hứng siêu thoát ngoài lý trí nhị nguyên.

Sau đây là những bài thơ thuộc ngôn ngữ khái niệm:

*- Ví dụ bài thơ của vua Lý Nhân Tông ca ngợi thiền sư Vạn Hạnh:

- Vạn Hạnh thông ba cõi

Thật hợp lời sấm xưa

Quê nhà tên Cổ Pháp

Chống gậy trấn kinh vua.

*- Ví dụ như bài thơ của thiền sư Cứu Chỉ:

- Giác ngộ thân tâm vốn lặng yên

Thần thông các tướng biến hiện tiền

Hữu vi vô vi từ đây có

Thế giới hà sa không thể lường.

*- Ví dụ bài thơ của Ni sư Diệu Nhân:

- Sanh, già, bệnh, chết

Xưa nay lẽ thường

Muốn cầu thoát ra

Mở trói, thêm buộc.

Ngôn ngữ khái niệm hoặc tư duy khái niệm cũng thuộc tư duy văn học - nhưng thường thiếu cảm xúc nghệ thuật. Cho nên, có nhiều bài thơ nửa là tư duy khái niệm, nửa là tư duy hình tượng - chất xúc tác nó sẽ thấm sâu vào đầu óc, vào cả con tim. Tư duy khái niệm thì khô khan, lạnh lùng - nhưng tư duy hình tượng lại dễ ăn sâu vào phế phủ, tạo ấn tượng sâu đậm. Thời nay, lúc gọi là văn học nghệ thuật - người ta chú trọng loại hình đi sau.

3. Tư duy hình tượng - ngôn ngữ hình tượng.

Trong lãnh vực này, nghệ thuật diễn đạt là hình ảnh, màu sắc, âm thanh... chứ không phải là các khái niệm trừu tượng. Chính nó tạo nên nghệ thuật. Thi ca sở dĩ được gọi là nghệ thuật cùng chung với điêu khắc, hội họa, âm nhạc... vì nó chuyển tải được cảm xúc, tâm hồn, cá tính và phong cách sáng tạo của tác giả. Mỹ học - cái đẹp - không phải là một bông hoa đẹp, một cảnh thiên nhiên đẹp, một cô gái đẹp, một ngôi chùa đẹp - mà chính là sự sáng tạo từ cảm xúc, tâm hồn, nhãn quan, sự chế biến chúng bằng tế bào tim, tế bào não của chủ thể sáng tạo.

Từ quan điểm có vẻ hiện đại này mà nhìn ngắm nghệ thuật văn học đời Lý quả là khiên cưỡng, áp đặt. Tuy nhiên, thật lạ lùng làm sao - các vị thiền sư đời Lý - đã có những bài thơ làm cho chúng ta ngày nay cũng phải lạnh gáy, rùng mình.

*- Ví dụ bài thơ “Ngư nhàn” của thiền sư Không Lộ:

- Vạn lý thanh giang, vạn lý thiên

Nhất thôn tang giá, nhất thôn yên

Ngư ông thùy trước vô nhân hoán

Quá ngọ, tình lai, tuyết mãn thuyền

Đọc bài thơ, ta thấy cảnh: “Muôn dặm sông xanh, muôn dặm trời. Một làng trồng dâu (chỉ còn nhìn thấy) cả một làng chìm khuất trong làn khói. Ông chài ngủ say không ai gọi. Lúc trưa trợt, trời quang tạnh, tuyết đã đầy thuyền”.

Vị thiền sư nghệ sĩ này đã dùng hình ảnh để nói lên, để vẽ ra. Chưa nói đến bức tranh đẹp, thanh thoát, vô sự... mà đọc xong, ta cảm nhận sự tĩnh định đến lạ kỳ, dường như trời đất, thiên nhiên, con người đều chìm ngập trong cơn đại định của thiền gia.

Ta cũng có thể tìm ra nhan nhản loại thơ thuộc ngôn ngữ hình tượng này:

- Theo gió, tiếng còi xuyên trúc đến

Đội trăng, bóng núi vượt tường sang.

(Viên Chiếu)

- Rùa mù chui vách đá

Trạch què bò núi cao.

(Viên Chiếu)

- Càn khôn gom lại đầu sợi tóc

Nhật nguyệt nằm trong hạt cải mòng.

(Khánh Hỷ)

Và... còn nhiều nữa...

Để kết luận,

Văn học đời Lý điển nhã, cổ kính, hầu như thuần túy là tư tưởng Phật - là những áng văn bất hủ của một thời - mà nhà nghiên cứu nào, nhìn từ “cặp kính màu” nào cũng phải công nhận. Nói như vậy chứng tỏ người ta đã thấy rõ giá trị văn học dẫn đạo của các vị thiền sư trong buổi đầu xây dựng đất nước, gắn liền với các sinh hoạt khác đa dạng của thời đại. Mà, bao giờ, tư tưởng và văn học cũng cầm lá cờ tiên phong hoặc đặt nền tảng ổn định cho chính trị, nhân sinh và xã hội.

Trang sử vàng của văn học thời Lý - dầu 1000 năm qua đi nhưng nó còn sáng rỡ cho đến tận bây giờ, còn để lại các giá trị tinh thần chói lọi - là cái gì thức tỉnh đạo đức, lương tri; thức tỉnh cái đà suy thoái của nhân bản, nhân văn do nền văn minh trục vật đem lại.

Văn học thời Lý là nơi cô đọng tất thảy mọi tinh chất của thiền môn. Và dòng suối trinh tuyền mỹ học ấy chỉ chảy qua tâm hồn dân tộc, tắm mát hạnh phúc nhân sinh - chỉ một lần - và chưa thấy trở lại!?

Việt Nam chúng ta trong thời đại hội nhập đa văn  hóa toàn cầu, kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - lật lại trang sử của cha ông - không biết có học được bài học gì để tiếp truyền hơi thở cũng như nội lực sinh mệnh của dân tộc?

Mùa thu. Tôi nghe đất trời có gió thổi và lá rơi!

 

MỘT NGÀN NĂM THĂNG LONG

 


[1] Thật ra, không cần thiết phải tạo  một ngôn ngữ riêng - mà chỉ cần trở lại với tiếng bản ngữ, tức là ngôn ngữ Việt cổ. Theo nhiều nhà nghiên cứu, tiếng Việt cổ (không lai Hán) của chúng ta đã có trước Tây Lịch chừng 3000 năm - nay còn tồn tại ở Mã Lai, Mường, Khả Lá Vàng, Thượng, Miên... Những nước này, sắc tộc này có rất nhiều danh từ, động từ giống nhau.  Một số tiếng Việt cổ - đọc tương tợ nhau, hiện tại vẫn còn bảo lưu: Ví dụ: Ăn, nhắm, gạo, uống, nước, sông, con gái, con trai, tay, chơn, cẳng, cà, chim, bông, trái, trâu (tru), ruồi, ngày, mày, mây, mưa, gió, sét, sao, nó, có, ngoài, đất, chó, lá, con, túp lều tranh, bố,  mẹ, lấy, ngựa, chết, một, hai, ba... nhà... vân vân và vân vân... (Xem thêm “ Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam - của Bình Nguyên Lộc, Bách Bộc XB-1971). Lưu ý: Có ngôn ngữ, tiếng nói, chữ viết rồi - Đạo Cao mới soạn tự điển chứ!

[2] Xem thêm LSPGVN của GS Lê Mạnh Thát (Chúng tôi chỉ rút ra một số tư liệu cho đề tài; tuy nhiên giá trị các tư liệu ấy như thế nào thì còn cần sự đánh giá nghiêm túc của các sử gia).

[3] Theo GS. Lê Mạnh Thát - Sđd.

[4] Ta còn biết thêm, thế kỷ thứ VI này có nhiều biến động can qua, nhưng Nhà Nước Vạn Xuân cũng có được nhiều chục năm thanh bình. Những vị lãnh đạo vệ quốc như Lý Nam Đế, Triệu Quang Phục, Lý Phật Tử - đều là Phật tử - nên không ngạc nhiên gì, khi đất nước vừa độc lập, việc đầu tiên là cho xây chùa Khai Quốc tại thôn Yên Trì tại kinh đô mới ở Long Biên (Xem thêm LSPG của GS. Lê Mạnh Thát). Vậy thì có lẽ, Lý Thái Tổ chỉ cho sửa sang lại chùa Khai Quốc.

[5] Xem thêm ĐVSKTT  hoặc ĐVSL, VSL - ta có thể dẫn chứng: 1010, dựng chùa Hưng Thiên, chùa Thắng Nghiêm; phát 2 vạn quan tiền để dựng 8 chùa ở phủ Thiên Đức; sức cho các làng trung tu chùa chiền. Phát 1.680 lạng bạc để đúc chuông chùa Đại Giáo; phát 310 lạng vàng để đúc chuông chùa Hưng Thiên và 800 lạng bạc để đúc chuông chùa Thắng Nghiêm,  chọn dân làm Tăng. 1011, dựng chùa Tứ đại thiên vương, chùa Cẩm Y và Long Hưng thánh thọ... Lưu ý: Ở đây chỉ kể hai năm đầu tiên mới dời đô về Thăng Long.

 

 


[6] Xem thêm BNL, Sđd.

[7] Chuyện kể vui của nhân gian, nhưng có lẽ là có thật: Một vị thầy viết sớ, thí chủ tên là Nguyễn Thị Gáo. Chữ Nôm thì Nguyễn, Thị đã là phổ thông, nhưng chữ gáo chưa có - vậy là ông phải sáng tác, lấy bút lông vẽ cái gáo - rồi vẫn đọc được như thường!

[8] Dù bản thể học (Ontolo’gie-Đức) đã khảo sát hữu thể, cái gì là nó, như chính là nó là đang hiện hữu - để giải đáp cho câu hỏi tối hậu về thực tại bản nguyên - nó rất gần với chân lý như thật (Yathā bhūta), thực tánh (Sabhāva), chân nghĩa pháp, vượt mọi khái niệm ước lệ (Paramattha-sacca) của Phật; nhưng họ thường bị rơi vào các phạm trù khái niệm của Triết học Tây phương. Cụ thể họ rơi vào siêu hình học, thượng đế vô ngã,  thượng đế nhất nguyên hoặc lý tính tuyệt đối -  rất nguy hiểm vậy.

[9] Một vài ví dụ. Đạo: Từ Pāi là magga, nó chỉ có một nghĩa là “Đạo: Con đường”- nhưng khi sang Trung Quốc thì bị biến thành 3 nghĩa: Đạo (con đường), bổn phận, bản thể ( mượn khái niệm Đạo - tương đương thái cực của Dịch - của Lão). Tâm - citta  - có tâm vương, tâm sở, tâm thiện, tâm bất thiện; rồi những sát-na tâm ấy cũng sinh diệt để tương tục sát-na tâm kế - nhưng sang Trung Quốc, Việt Nam - tâm ấy nghĩa là tấm lòng và còn hàm nghĩa nhiều tố chất khác nữa như  nhân tâm, tâm đức... do chữ Hán tâm là trái tim, lòng! Vô vi - mượn Lão để dịch chữ Asakhata, có nghĩa là “không còn tạo tác, không còn bị chi phối bởi các hành (sakhāra)”- hàm chỉ Niết-bàn! Cách mượn này đắc thể nhất, chỉ một số ít người hiểu theo nghĩa tiêu cực mà thôi. Ngoài ra, các khái niệm như: Trung, hiếu, lễ, nghĩa, nhân, chính tâm, thành ý... đều là của Trung triết. Phật chỉ nói từ, bi, hỷ, xả, tín, vô tàm, vô quý, vô thâm, vô sân, vô si...!

 

Chia sẻ: facebooktwittergoogle