Nguyên Châu
Thế kỷ XXI đã và đang khởi sắc, khép lại quá khứ
hai ngàn năm, mà mốc thời gian được đánh dấu bằng những cuộc chinh phục và
chinh phạt. Trong chuỗi thời gian này, nhân loại sống yên bình và hạnh phúc
thì ít, nhưng lo sợ và khổ đau thì nhiều, để rồi hy vọng thiên niên kỷ mới
mở ra sự hòa bình và khoan dung, với các giá trị nhân bản được xác lập.
Ảnh minh họa: thế giới phẳng
Hơn hai ngàn năm qua, nhân loại đã thành tựu về khoa học
và công nghệ, nền văn minh vật chất rất hào nhoáng với những công trình,
kiến trúc quy mô và tráng lệ; các di tích lịch sử được trân quý, chiêm
ngưỡng và bảo vệ như là những biểu hiện cụ thể tài năng sáng tạo của con
người. Sự tiến triển như vũ bão của khoa học là biểu hiện sự lớn mạnh không
ngừng của chủ nghĩa duy lý. Chính vì lẽ ấy, mà không ít người tiên liệu rằng,
tôn giáo sẽ thu hẹp lại, từ từ tàn lụi và dần dần vắng bóng đi dưới ánh sáng
của khoa học thực nghiệm. Nguyên do, xưa nay người ta thường “tư duy theo
nếp nhăn” của truyền thống, xem tôn giáo như là một bảo vật ở Viện bảo tàng,
nơi hướng về của những người dưới mức hiểu biết tại một thế giới vĩnh hằng,
nơi miền đất hứa. Thế nhưng, trên thực tế, tôn giáo không những không bị
tiêu vong, mà còn hồi sinh và phát triển mạnh mẽ giữa thế giới hoa lệ vật
chất này, làm cho diện mạo của mình có những nét mới lạ. Và hơn thế nữa, một
số tôn giáo còn hoạt động tích cực, biểu lộ rõ xu hướng chính trị hóa.
Trước sự lấn sân đầy thách đố và nghiêm trọng, cũng như
xu thế của thời đại, tôn giáo tìm cách chuyển mình để thích ứng bằng cách
loại bỏ những lối tư duy cổ hủ, hình thức cầu kỳ, tính chất câu nệ, và giáo
điều, thay vào đó là sự khoan dung, hòa hợp và vô ngã. Thực hiện đầy đủ
những tiêu chí này, có thể nói, tôn giáo mới có khả năng đứng vững, khẳng
định vị trí của mình để tồn tại và tồn tại lâu dài trên cõi đời này.
Thời đại hôm nay là thời đại của công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Xã hội đã đánh dấu những bước tiến đột phá, những bước nhảy vọt hết
sức ngoạn mục, một cuộc cách mạng vĩ đại về kiến thức và thông tin với tốc
độ cực nhanh-nhẹ-gọn trong đời sống con người. Nhưng, quá trình tiến triển
của xã hội không thể không kèm theo những yếu tố tiêu cực: những nơi thừa
tiền bạc nhưng thiếu đức tin, thừa tri thức nhưng thiếu lương tri.
Sự cách biêt giữa giàu và nghèo, học thức và vô học, đạo đức và bất
lương, thôn quê và thành thị, quốc gia phát triển và quốc gia nghèo đói còn
nhiều. Cho đến bây giờ, tuy nói chúng ta đang sống dưới nền văn
minh của khoa học, nhưng trên thực tế, con người vẫn còn bức hại lẫn nhau
một cách không thương tâm hoặc vì quyền lợi vật chất, hoặc vì dị biệt niềm
tin, hoặc muốn thể hiện 'CÁI TÔI' vĩ đại. v.v…
Thời đại của chúng ta, nhiều người trẻ không còn cảm thấy
liên hệ, dính dáng với bất cứ sự ràng buộc gì, họ không còn tin vào Thượng
đế, cũng không tin vào một chủ thuyết hay một ý thức hệ nào, không còn lý
tưởng, không tìm ra được một ý nghĩa nào cho sự sống, đánh mất gốc rễ nơi
truyền thống tâm linh, tổ tiên, và gia đình. Họ sống lang thang trên vạn dặm
phù sa, giữa hoang mạc mênh mông, hay những nẻo đường sương mờ bít lối của
cuộc đời, rồi phóng túng theo chiều hướng tiêu thụ và tàn phá, suốt ngày chỉ
biết sống để làm thỏa mãn những ngọn triều của tư dục. Họ đã tìm cách giải
tỏa bằng những độc tố, hút vào người những men chất bạo động, và bất an,
không biết đâu là chỗ chắc thật để bám vào mà thoát thân; họ cứ mãi mê chạy
theo những làn sóng nắng trên sa mạc, cho đến khi ngã quỵ trên đường dài
tuyệt vọng trong một mớ chữ nghĩa vô bổ. Với kiến thức về nhân sinh và vũ
trụ được tích luỹ, khiến con người nhận diện được sự cuốn hút trong guồng
máy khoa học, quay cuồng dưới quỹ đạo của lao lực và lao tâm vì âu lo và
toan tính. Chúng ta buông xuôi theo những tồn vong sinh diệt của thế gian
như những loài sâu ngủ trong chiếc lá vàng để quên đi nắng chiều nhạt bóng
và chấp nhận đêm đen của cõi vô minh mà không hề tỉnh ngộ. Mất cân bằng sinh
thái cũng chết, mất cân bằng giữa tâm và thân cũng gay, mà mất cân bằng giữa
sự thừa thải vật chất và trống vắng tinh thần lại càng nguy.
Cho dù, ngày nay khoa học đóng vai trò như một nhân tố
nhận thức, một động lực hành động và được xem như là bậc nhất của con người,
nhưng sự khao khát hòa hợp trong tình yêu, đồng điệu trong tâm hồn vẫn là
“giai điệu chủ” trong giao hưởng của nhân loại. Hơn nữa, sức mạnh của khoa
học không như là chìa khóa vạn năng mở toang tất cả những cánh cửa từ thế
giới hiện tượng đến thế giới tâm linh. Nói cách khác, khoa học chỉ thành
công trong sự phát triển và nâng cao đời sống văn hóa vật chất mà không làm
thăng hoa giá trị đời sống văn hóa tinh thần. Chính sự hạn chế này mà Albert
Einstein-nhà vật lý học lừng danh, đã thường xuyên khuyên các nhà khoa học
nên học hỏi ở các tôn giáo để bổ sung những chỗ khiếm khuyết của mình, Ông
nói: “Khoa học mà thiếu tôn giáo là khập khiễng, tôn giáo mà không có
khoa học thì mù quáng” (Science without religion is lame. Religion
without science is blind). Tới lúc, con người đã chợt nhận ra rằng, hình như
mình chưa biết sống cho tròn đầy, cho “đã nư” cuộc sống của chính mình. Mình
đã đánh mất phương hướng chỉ vì một chút trần vọng niệm, uốn mình theo dòng
chảy của cuộc đời, chìm đắm trong “đọa đày viễn mộng”, thiếu sự dẫn dắt căn
cốt trong cuộc đời. Sự dẫn dắt không thể đến từ người khác mà phải đến từ
nơi sâu thẳm tâm hồn.
Mục đích của sự sống là làm sao kiến lập cho được một môi
trường an ninh, một tâm hồn thanh thản. Bởi vậy, để xây dựng một
đời sống hạnh phúc, an bình cho thế kỷ này, không gì hơn con người cần phải
lấy mô thức tự giác, vô ngã, khoan dung và độ lượng trong Phật giáo làm kim
chỉ nam cho hành động. Đó sẽ là một đức tin siêu khoa học, biểu hiện cao
nhất của ý thức cá nhân, sự khẳng định thế giới tâm linh trong lòng thế giới
vật chất. Nó là kết quả của quá trình nhận thức, của đời sống thực nghiệm,
chứ không phải bằng bộ óc truy vấn, ý niệm và ngôn ngữ. Như thông điệp của
ngài Srirana Krishna cho rằng: “Đừng quan tâm đến giáo lý, đừng quan tâm
đến tín đồ hoặc tông phái, hoặc giáo đường, hoặc nhà thờ. Chúng có giá trị
thật ít sánh với tinh tú của đời sống tâm linh, và tâm linh càng được mở
rộng trong người thì y càng có nhiều năng lực để hành thiện… Hãy chứng tỏ
bằng đời sống của bạn rằng tôn giáo không có nghĩa là lời nói, hoặc là danh
hiệu, hoặc là môn phái, nhưng có nghĩa là giác ngộ tâm linh. Chỉ có những
người đã cảm xúc mới hiểu được. Chỉ có những người đã đạt đến tâm linh mới
có thể truyền đạt nó cho kẻ khác, mới có thể là những bậc đại Chân Sư của
thế giới. Chỉ có họ là quyền lực của Ánh sáng”. (Tôn giáo là gì?
Vương Gia Hớn dịch, Nxb. An Tiêm, 1970)
Hiện nay, trong xu thế toàn cầu hóa, thời kỹ thuật số, sự
phát triển của kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường, việc bảo vệ văn hóa vật
thể và phi vật thể được nâng cao, cũng như việc chăm sóc, tôn tạo, tu bổ,
phục hồi và phát huy tác dụng các di tích lịch sử, danh lam, thắng cảnh…
được đề cao trong từng quốc gia, các tổ chức của Liên Hiệp Quốc, như tổ chức
UNESCO, trong đó văn hóa tâm linh của các tôn giáo nói chung và văn hóa Phật
giáo nói riêng đóng vai trò tối quan trọng trong mảng văn hóa của nhân loại,
đã thẩm thấu vào chiều sâu tư tưởng của người Á Đông.
Sự lan tỏa toàn cầu của mạng lưới Internet trong thời thế
giới phẳng đã mở ra một viễn cảnh mới cho đời sống xã hội, đã tác động đến
phong cách tư duy sinh hoạt và đã đặt ra những yêu cầu mới cho các tổ chức
xã hội, nền văn hóa của dân tộc, các hệ thống tư tưởng, tôn giáo. Các tôn
giáo đã và đang nhanh chóng vận dụng những thành tựu khoa học vào việc
truyền bá giáo lý, thể nghiệm trí tuệ trong hành động, sẽ là bước chân bình
thản giữa cuộc đời, là nụ cười điềm tĩnh trầm hùng, là hơi thở an nhiên
trong sự đổi dời của lịch sử, để ngõ hầu xây dựng một xã hội văn minh, dân
chủ, đại đồng cho thế giới con người. Âu chính là nguyện vọng và ước mơ
chung của mỗi chúng ta?
|