TUỆ
CHƯƠNG
Đạo Phật
truyền bá vào nước ta từ rất lâu, ngay từ Bắc thuộc lần thứ nhứt, thứ hai, theo
con đường từ Ấn Độ qua Trung Hoa xuống Việt Nam hay đi thẳng từ Ấn Độ qua Việt
Nam. Các danh Tăng còn ghi lại trong sử sách là Khang Cư, Nguyệt Thị, Ti-Ni-Đa-Lưu-Chi,
Vô Ngôn Thông, Thảo Đường. Chi phái nầy được gọi là Bắc tông. Phật giáo không chỉ phát triển trong hàng vua quan mà còn thấm sâu
vào hàng dân dã, trở thành tín ngưỡng lớn nhất, mạnh nhất và thấm sâu nhất vào
lòng dân tộc. Phật giáo là tư duy, là cách sống, là phong tục, lề thói,
là tôn ti trật tự gia đình, xã hội, góp phần lớn lao vào sự phát triển xã hội, quốc gia. Để
bảo tồn và phát huy đời sống xã hội cũng như tôn giáo, mỗi làng thường có chùa.
Có thể nói ở đâu có người Việt sinh sống là ở đó có chùa.
ảnh minh họa
Trong tiến trình thành lập làng xã ở vùng
Bắc bộ hay trong tiến trình thành lập làng xã trong cuộc Nam tiến, người Việt
Nam định cư tới đâu, lập làng ở đâu là dựng chùa ở đó, giống như người Mỹ trong
cuộc Tây tiến của họ đến đâu họ lập làng (town) là họ dựng nhà thờ.
Đơn vị hành chánh và xã hội nước ta là
làng. Sau khi lập làng, dân làng tôn người khai phá đầu tiên
làm Thành hoàng của làng. Họ dựng đình để thờ Thành
hoàng, làm nơi hội họp, cúng tế trong các dịp lễ tết; họ cũng dựng chùa làng để
bảo tồn và phát huy đời sống tôn giáo, gia đình và xã hội.
Do đó, đình và chùa làng là hai biểu
tượng của mỗi làng đã có từ ngàn xưa khi người Việt Nam bắt đầu dựng nước, dựng làng.
Bên cạnh đình là nơi cúng kỵ những người có công dựng làng thì bên chùa là nơi
thờ Phật để dân làng lễ bái, tu thân, trau giồi đức hạnh, ăn
hiền ở lành, để phước để đức lại cho con cháu. Đó là đời sống
tinh thần thiết thân của người Việt
Nam
mà nếu không có nó thì mất đi ý nghĩa của một làng, của một dân tộc có một nền
văn hóa lâu đời.
Đình thường dựng ngay giữa làng, bên cạnh một con sông, một
cánh đồng. Ngay từ khi dựng đình hay dựng chùa, người ta trồng một cây
đa trong sân để lấy bóng mát, cây đa trở thành biểu tượng linh thiêng cho đình
và cho chùa. Chùa cũng được chọn xây dựng ở một địa điểm như
đình nếu như làng tọa vị tại một vùng trũng, không có đồi núi.
Tuy nhiên, ở vùng trung du Bắc bộ, không có núi cao nhưng lại có nhiều đồi thì
chùa được dựng trên một ngọn đồi, bên một sườn đồi. Trên con đường về
làng, người ta có thể thấy ngôi chùa làng hiện ra xa xa mờ ảo trong làn sương
khói, ngôi chùa làng cheo leo bên ngọn đồi. Lòng kẻ tha
hương rộn ràng náo nức từ đó.
Người
Việt Nam
tin vào phong thủy (địa lý) nên việc chọn địa điểm xây chùa bao giờ cũng cẩn
trọng, vì họ tin rằng sự yên ổn của ngôi chùa có ảnh hưởng trực tiếp đến đời
sống người dân trong làng. Theo sư Không Lộ đời Lý, thì nơi dựng chùa phải
“Tuyển đắc long xà địa khả cư”, nói một cách nôm na là “Tay long tay hổ”, có
“long mạch”. Sách “An Tượng Tam Muội Tập” bản in đời nhà Nguyễn có một đoạn nói
về việc dựng chùa như sau:
“Xây dựng chùa phải chọn đất tốt, ngày tốt, giờ tốt. Đất tốt là nơi bên trái trống không hoặc
có sông ngòi, hồ ao ôm bọc.
Núi hổ (tay hổ) ở bên phải cao dày, lớp lớp quay đầu
lại, hoặc có hình hoa sen, tràng phướng, lọng báu hoặc có hình rồng phượng, qui,
xà chầu bái. Đó là đất “dương cơ ái hổ” (nền dương tay
hổ). Cũng lại nên cưỡi đảo lại (đảo kỵ) như người cưỡi ngựa
thì đầu phải ở phía trước. Trước mặt có minh đường hay không có minh
đường đều được phía sau không nên có núi áp kề, thế là đất tốt.”
Chùa
Việt Nam là một kiểu chùa đặc biệt, không giống chùa Trung Hoa hay Ấn Độ. Chùa
làng thông thường làm theo kiểu chữ đinh (gần giống chữ T quốc ngữ) hay chữ công
(chữ H quốc ngữ, nằm ngang) hay chữ tam (ba gạch ngang) tùy theo công đức đóng
góp hoặc dân làng giàu nghèo. Gian trước thường là nơi thờ hộ pháp, gian trong là chánh điện thờ
các vị Phật, Bồ-tát (Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Địa Tạng).
Trước
chùa có cổng Tam quan là ngôi nhà nhỏ nằm ngang, nối liền bốn cây cột, chia
thành ba cửa: Cửa giữa và hai cửa hai bên. Có khi không có nhà
mà chỉ là bốn cây cột dựng thẳng lên và gắn các cánh cổng.
Cửa chùa thường khi rộng mở, nhưng cũng có lúc đóng lại và
khóa kín. Người vào chùa phải giựt dây chuông để
gọi chú tiểu ra mở cổng.
Nói chung, nơi dựng chùa phải có cảnh trí thiên nhiên đẹp đẽ, có
đồi núi hồ ao sông ngòi, v.v... không quá gần dân làng
để tránh sự ồn ào náo nhiệt, không quá xa dân làng vì việc tu học cần có sự giúp
đỡ của dân, không khó khăn cho thiện nam tín nữ đi lại lễ bái và vãn cảnh chùa.
Các vị
Trưởng lão ở chùa không những là người thâm sâu giáo lý nhà Phật, lâu lâu các vị
thức giả đến thăm chùa, đàm đạo cùng vị Trưởng lão mà còn là “bạn trà” trong
nghệ thuật uống trà tuyệt vời của người châu Á có chịu ảnh hưởng văn minh Trung
Hoa.
Trong
truyện ngắn “Chén trà trong sương sớm” trong tập “Vang bóng một thời” của Nguyễn
Tuân, ông kể lại câu chuyện một ông già trong làng được một người ăn mày cho xem
một bộ ấm trà đã mấy đời do tổ tiên để lại, trở nên nghèo vì ghiền trà. Đó là
loại ấm trà tốt hơn cả các loại:
Thứ nhứt
Thế Đức gan gà
Thứ nhì Lưu Bội, thứ ba Mạnh Thần.
Ông già
và người ăn mày tương đắc về việc uống trà. Muốn pha một ấm trà mới, người con trai của gia chủ đi theo lão
bộc lên tận ngôi chùa làng trên đồi cao để xin một đôi nước về pha trà.
Người
dân thường khi đi xa nhớ làng của mình, nhớ nhà mình, nhớ con đường ngõ xóm, nhớ
đình, nhớ chùa làng, v.v...
Đó là
những hình ảnh, những cảnh vật rất thân quen, gần gũi.
Chùa làng là của chung nhưng ai cũng có cái riêng trong đó, tâm tư tình cảm
riêng và cả những kỷ niệm riêng, kể từ khi thơ ấu, lần đầu tiên đi chùa. Trong ý
nghĩa riêng tư đó, nhà thơ Trần Trung Đạo đã dùng một chữ rất hay trong bài “Nhớ
Cây Đa Chùa Viên Giác”:
Cây đa
cũ chắc đã già hơn truớc
Biết có còn đổ lá xuống sân tôi?
Sao lại “sân tôi” mà không là “sân xưa” hay “sân hoang”
(vắng) chẳng hạn. Tôi không nghĩ thi sĩ đẻo gọt từng chữ để đưa vào đây mà chỉ là cái hay
xuất thần của người làm thơ. Từ rất lâu, trong tiềm thức, Trần Trung Đạo nghĩ
chùa là của ông, một phần trong cuộc sống của ông, nơi ông sống với nhiều kỷ
niệm yêu mến; nay xa chùa, những buồn vui từ trong tiềm thức trổi dậy cùng với
lòng thương nhớ khôn nguôi, như một sức mạnh vô hình khiến ông đặt bút viết
xuống một chữ rất hay, rất tự nhiên mà thấm thía vô cùng. Chùa là của tôi, cây đa là của tôi và sân chùa, nơi những chiếc lá
đa rụng xuống cũng là “sân tôi”.
Ai từng lớn lên bên cạnh một chùa làng đều có những cảm nghĩ
như Trần Trung Đạo, không riêng gì nhà thơ nầy mà thôi.
Trong
một hồi ký của Nhất Linh, ông nhắc lại một kỷ niệm khi ông 11 tuổi, được bố đưa
đi thăm chùa Trấn Quốc, ông làm bài thơ tả cảnh chùa như sau:
Chung
quanh cây cối rườm rà,
Giữa hồ
có một chùa ta đây này
Sao lại “chùa ta”. Tôi không nghĩ “mầm non văn nghệ” Nhất
Linh dùng chữ (chùa) ta cho luôn vần với chữ (rườm) rà ở trên, mà chính ông muốn
nói chùa của ta, cũng như Trần Trung Đạo gọi “sân tôi” vậy.
Trong sinh hoạt của chùa, các sư có những thời kỳ tu tập phù
hợp với đời sống nông nghiệp của dân tộc. Khoảng tháng tư, tháng năm là mùa “kiết hạ
an cư” (mùa tu học) là lúc mùa màng đã xong. Các chú
điệu, sư chú, quý thầy trẻ phải tự làm ruộng, trồng đậu, trồng rau sinh sống.
Công việc không quá nặng nhọc vì chùa không có nhiều đất ruộng, chỉ đủ cho người
tu hành sống đạm bạc tương chao. Thường khi mùa màng xong thì cũng có những hội chùa. Đó là
ngày lễ Phật đản chẳng hạn:
Dù ai đi
đâu về đâu
Hễ trông
thấy tháp chùa Dâu thì về
Dù ai
buôn bán trăm nghề
Nhớ ngày
mồng tám thì về hội Dâu
Chùa Dâu
ở Hà Bắc. Ngày trước hội chùa vào ngày 8 tháng Tư Âm lịch, là ngày Phật đản; hội
rất lớn. Không những dân làng và các làng lân cận mà ngay
người dân các tỉnh xa, dân Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định cũng về dự hội.
Xem thế, chùa là trung tâm đời sống văn hóa người Việt.
Dù đi đâu xa, hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về, cũng như tới
ngày hội thì không thể vắng mặt. Hội chùa là một lễ tục
truyền thống ai ai cũng muốn tham gia.
Mỗi năm
chùa có những ngày lễ lớn như trong lịch sử Phật giáo và lễ Tết
theo
phong tục Việt Nam.
Các ngày lễ lớn được gọi là ngày hội.
Lớn nhất là ngày lễ Phật Đản (Đối chiếu lịch Ấn Độ là ngày 8 tháng Tư Âm lịch).
Khoảng đầu thập niên 1950, toàn thế giới chọn một ngày chung
là ngày trăng tròn.
Ở miền Bắc có rất nhiều chùa, chùa lớn và cổ xưa, nhiều chùa
là danh lam thắng cảnh.
Riêng thành phố Hà Nội có tới 70 chùa.
Người
chân chính tu theo đạo Phật coi đời là sắc không nên tài sản của chùa, ngoài
ngôi chùa là nơi thờ phượng, để Phật tử đến chiêm bái, một vườn trồng hoa và cây
trái được chăm sóc kỹ, một ao chùa để trồng sen cúng Phật, chùa không có tài sản
nào nữa cả: Không có ruộng để cho tá canh hay tài sản để cho thuê mướn.
Chi phí
sinh hoạt của chùa là do thập phương cúng dường, còn đời sống tu hành rất đạm
bạc, cơm tương chao và áo nâu sồng. Họ là những tấm gương đạo đức cho dân làng
noi theo.
Từ giữa
thế kỷ trước (TK 19), khi xâm lăng nước ta, người Pháp đã phá hủy không ít chùa làng.
Theo Vương Hồng Sển trong cuốn “Saigon Năm Xưa”, thì chùa làng Kỳ Hòa nằm ngay
chỗ nhà thờ Đức Bà ngày nay.
Chùa Linh Hựu
ngày xưa nay là nhà thờ Tây Linh ở Huế. Đó chỉ là những ví dụ điển hình.
Ngoài ra, biết bao nhiêu chùa khác ở những làng quê xa xôi bị
phá phách triệt hạ, không ai nhớ hết và cũng chẳng ai thống kê việc đàn áp tôn
giáo nầy.
Dưới chế
độ cai trị của thực dân Pháp, có rất nhiều chùa bị tàn
phá hoàn toàn. Đó là hậu quả của cuộc xâm lăng
và chính sách cai trị của thực dân Pháp.
Bên cạnh
đó, đạo Phật gắn chặt với đời sống dân tộc nên chịu chung
một số phận. Khi dân tộc bị đàn áp bóc lột, nô lệ thì đạo Phật suy
vi. Trong ý thức chống Pháp giành độc lập, chùa làng nhiều khi trở thành
nơi hội họp của nghĩa quân, nơi che giấu những người làm cách mạng - vì đạo Phật
cũng là một tôn giáo cách mạng - Những người chống Pháp giành độc lập dùng chùa
làm nơi hội họp vì đạo Phật là đạo của dân tộc, chùa là của dân, phục vụ cho
dân; người tu hành ở chùa sẽ không đi báo cáo cho Pháp việc làm cách mạng, có
khi người tu hành cũng tham gia cách mạng. Khuynh hướng độc lập, tự do, dân chủ
là khuynh hướng chung cho đạo Phật và Dân tộc. Chỉ khi nào Dân tộc được độc
lập thì đạo Phật mới mong hưng thịnh lên được.
Ngày nay, vấn đề không phải là góp công góp của dựng nên
những ngôi chùa nguy nga lộng lẫy làm nơi vãng lai cho khách du lịch; vấn đề là
khôi phục lại từ căn bản. Căn bản xã hội, chính trị nước ta là làng.
Muốn có một nước Việt Nam
thanh bình và thịnh vượng, trước nhất phải ổn định và phát triển làng xã.
Làng cũng là đơn vị căn bản của đạo Phật. Chùa làng và khuôn hội là hạ tầng cơ
sở của đạo Phật. Muốn phục hưng và phát triển đạo Phật, không có cách nào khác
ngoài việc dựng lại chùa làng và củng cố sinh hoạt của chùa, của khuôn hội mỗi
làng. ¢
Tài liệu
tham khảo:
-“Việt
Nam
Văn Hóa Sử Cương”, Đào Duy Anh
-“Việt
Nam
Văn Học Sử Yếu”, Dương Quảng Hàm
-“Huế,
Di Sản Văn Hóa Thế Giới”, nhà X.B. Thông-Tin, Văn Hóa
Ước
nguyện...