
Chân đế thứ hai: dính mắc là khổ đau
Chân đế, tức sự 
thật mầu nhiệm thứ nhất đã không ngần ngại gì khi tuyên bố thẳng thừng rằng, đau 
đớn là tự tánh cố hữu của sự sống, vì tất cả mọi vật đều biến đổi không ngừng. 
Chân đế thứ hai giải thích, khổ đau có mặt khi ta chống cự với những kinh 
nghiệm của cuộc sống, thay vì biết cởi mở và chấp nhận chúng với một thái độ 
thông minh và từ ái. 
Hiểu được chỗ này, ta sẽ thấy 
rằng giữa đau đớn (pain) và khổ não (suffering) có một sự khác 
biệt rất lớn. Đau đớn thì không thể tránh né được, sự sống đi kèm với đau đớn. 
Nhưng khổ thì không bắt buộc. Nếu khổ là những gì xảy 
ra khi ta vùng vẫy chống cự lại những kinh nghiệm của mình, vì thiếu khả năng 
chấp nhận, thì khổ là một điều dư thừa, không cần thiết.
Tôi đã từng hiểu lầm điểm này, 
khi mới bắt đầu tu tập, tôi cứ đinh ninh rằng nếu tôi công phu thiền tập cho 
đúng mức, mọi đớn đau của tôi sẽ biến mất. Đó là một lầm lẫn lớn. Tôi rất thất vọng khi khám phá ra sự sai lầm ấy và cũng hơi xấu hổ 
vì sự ngây thơ của mình. Rõ ràng là ta sẽ không bao giờ có thể chấm dứt 
hết những đớn đau trong cuộc đời này.
Đức Phật có dạy: “Những gì ta yêu quý sẽ đem lại 
cho ta đớn đau.” Tôi nghĩ đó là sự thật.
Thường thì ít khi nào tôi nhắc đến lời ấy với những thiền sinh 
mới bắt đầu, tôi không muốn họ hiểu lầm là đạo Phật bi quan. 
Nhưng
sự thật là vậy. Vì mọi việc đều biến đổi luôn, 
những mối liên hệ của ta đối với những gì ta yêu quý, hoặc mối liên hệ của chúng 
đối với ta, rồi cũng sẽ thay đổi. Và rồi ta sẽ chịu nỗi 
đau của sự mất mát, chia lìa. Chúng ta đã chọn cuộc sống tương giao ấy, 
vì ta chấp nhận sẵn sàng trả giá bằng sự đau đớn.
Đối với tôi, thấy được sự khác biệt giữa một thái 
độ dửng dưng và một thái độ vui vẻ, nhiệt tình đối với kinh nghiệm của sự sống 
mà không bị dính mắc, luôn luôn là một thử thách lớn (trong nhà thiền có lẽ gọi 
đó là một công án). Theo tôi thì chuyện ấy có thể thực hiện 
được. Nhưng vì trong mỗi giây, mỗi phút của cuộc sống bao giờ cũng có một 
sự chọn lựa giữa sự “dễ chịu” và “khó chịu”, nên khó có thể nào ta lại không 
muốn sự “dễ chịu”. Thật ra thì rất khó để không muốn gì hết.
Người ta kể rằng thánh John of the Cross có 
lời cầu nguyện rằng: “Thượng đế, xin hãy ban cho con được thấy ảnh tượng của 
ngài!” Khi mới bắt đầu tập thiền, tôi cũng muốn được thấy hình 
ảnh này nọ.
Thời ấy là vào cuối thập niên sáu mươi, ban nhạc trẻ The 
Beatles và đạo sư Maharishi Mahesh đang phổ cập hóa pháp môn định tâm, và nền văn hóa 
lúc ấy đang có một tính chất “ảo hóa.” Và 
tôi cũng mong muốn có một việc kỳ lạ nào đó xảy đến cho mình. 
Vài năm sau đó cũng đã có những 
chuyện “kỳ lạ” xảy đến cho tôi. Trong một thời gian nỗ lực tích cực hành 
thiền, tôi kinh nghiệm được con người tôi tràn ngập ánh sáng, và tỏa chiếu nữa. 
Thật là kỳ diệu vô cùng. Trong lãnh vực của sự hành 
thiền nghiêm túc thì kinh nghiệm ấy chẳng có gì to tát hết, nhưng đối với tôi 
thì nó huyền diệu vô cùng. Và sau một thời gian, tôi 
bắt đầu cho rằng nó cũng chưa đủ kỳ diệu. Tôi nhớ lại câu chuyện của 
thánh Paul, bị mù lòa vì ánh sáng chói rực trên đường đi đến Damacus, 
và vì tôi chưa bị mù, tôi bắt đầu mong ước được thấy thêm ánh sáng nữa. 
Nhưng tôi không bao giờ dám thú nhận điều ấy với bất cứ một ai, vì trong giới tu 
hành, mong muốn được thêm lạc thú thì chẳng có vẻ thiền
một chút nào hết – mặc dù tôi là thế!
Chân đế thứ hai của đức Phật là: Tham muốn bất cứ 
điều gì cũng là khổ đau cả. Thường thường thì người ta hay diễn dịch rằng 
“nguyên nhân của khổ đau là lòng tham muốn,” nhưng theo 
tôi nghĩ thì nói như vậy cũng không thật chính xác. Nói 
nguyên nhân thì có vẻ như là cái xảy ra trước và sẽ sinh ra một kết quả cụ 
thể nào đó.
Như ta hay nói: “Mong muốn bây giờ, đau khổ sau này.” Nhưng tôi 
tin là: “Mong muốn bây giờ, đau khổ bây giờ.”
Có lần tôi nghe một người nào đó nói rằng dấu hiệu 
của sự giác ngộ là khi ta lúc nào cũng có thể nói, và thật sự tin nữa: “Tôi đâu 
có muốn đâu, nhưng đó là những gì tôi có, thì cũng là tốt vậy!”
Mẹ vợ của con trai tôi là người 
không những có một thái độ khoan dung đối với những sự khó chịu, mà còn biết tán 
thưởng những điều đó nữa. Bà là 
người duy nhất mà khi tôi đi xe chung trên xa lộ ở Los Angeles, với hàng 
trăm chiếc xe phóng ào ào, xuyên qua lại ngang ngược trong một không khí đầy bụi 
bặm, khói xăng, kẹt cứng, bực bội, mà vẫn nói với một giọng ngạc nhiên chân 
thành: “Chà! Coi kìa, người ta đi đâu đông quá!”
Lẽ dĩ nhiên, từ chuyện xa lộ cho đến những nạn đói 
kém, cho đến chiến tranh, khoảng cách ấy xa vời lắm, nhưng khi ta nhận thấy được 
rằng thái độ chấp nhận khoan dung là có thể được, thì việc ấy sẽ khích lệ ta 
nhiều lắm. Sự thực nghiệm tâm linh có lẽ là để khám phá ra 
tiềm năng ấy trong ta và khai mở nó ra. Và chân đế 
thứ ba cho ta biết việc đó chắc chắn có thể thực hiện được.
Chân đế thứ ba: Một tin vui tuyệt vời
Một yếu tố chủ yếu trong sự tu 
tập của đạo Phật được gọi là chánh kiến (right view). Chánh kiến có nghĩa là 
thấy biết và nhận hiểu một cách chân chánh. Một khía cạnh của chánh 
kiến là ý thức được rõ rệt mục đích của con đường tu tập chánh niệm. Nhưng bước chân của tôi vào con đường tu tập chánh niệm đã được hoàn 
toàn thúc đẩy bởi tà kiến (wrong view), tức một cái thấy sai lầm. Tôi đã tưởng rằng nếu công phu tu tập đúng mức, tôi sẽ không còn 
kinh nghiệm những đớn đau nữa. Lẽ dĩ nhiên cái thấy 
biết đó rất sai lầm.
Không thể nào khi ta vẫn còn mang thân này, sống trong cuộc 
đời này, mà lại tránh khỏi được sự đau đớn.
Sau khi kham phá ra sự sai lầm ấy, tôi đã tự 
an ủi bằng niềm tin là dầu sao đi nữa tôi vẫn có thể chấm dứt được nỗi 
khổ của mình. Và đó chính là Chân đế thứ ba. Chân đế thứ ba nói rằng giải thoát, an lạc và hạnh phúc là 
những chuyện ta có thể thực hiện được – ngay trong chính cuộc đời này. Đó 
quả thật là một ý tưởng hết sức tuyệt diệu!
Trong vài năm trước, tôi có dạy 
môn Tôn giáo Đông phương cho một trường đại học Thiên Chúa giáo. Sinh viên đa số là những thiếu niên, thiếu nữ vừa học xong cấp trung 
học của một trường trung học Thiên Chúa giáo gần đó. Các em lớn lên, phần 
đông có một đời sống gia đình thoải mái, đầy đủ và rất sùng đạo, giữa một kỷ 
nguyên hòa bình. Các em có vẻ cảm thấy rất hoang mang khi tôi 
bắt đầu dạy về đạo Phật, và giới thiệu ngay đến khái niệm về khổ. 
Nhưng làm sao tôi có thể tránh được việc ấy. Ý niệm về khổ và sự chấm dứt khổ đau là giáo lý chủ yếu của đạo 
Phật. Ngày xưa đức Phật có lần đã tuyên bố như thế với một người đệ tử của ngài. 
Theo truyền thuyết thì người đệ tử ấy đến chất vấn đức Phật. Anh ta trách 
đức Phật đã không dạy gì cho anh về vũ trụ quan và triết học như anh đã hy vọng. 
Truyện kể rằng, đức Phật trả lời: “Ta chỉ dạy có 
một điều và mỗi một điều mà thôi: Đó là khổ đau và con đường chấm dứt khổ đau.”
Những em sinh viên trẻ của tôi lộ 
vẻ lo âu khi nghe tôi nói, mặc dù mọi việc dường như có vẻ là vui thú đó, nhưng 
cuối cùng rồi tất cả sẽ làm cho ta thất vọng, vì không có gì là trường tồn mãi 
mãi. Khi tôi cố gắng giải thích và cho thí dụ “Cũng giống như nhiều khi 
các em muốn một việc gì đó mà không được,” thì chúng không đồng ý. Đa số các em 
có được tất cả những gì mà chúng muốn. Theo ý kiến của các em thì đạo 
Phật dường như hơi bi quan, và các em hỏi tôi: “Những người Phật tử có tổ chức 
tiệc mừng sinh nhật không cô?”
Tôi hết sức cố gắng để tìm những 
trường hợp khổ đau nào mà các em sinh viên của tôi có thể liên tưởng đến được. “Có bao giờ các em bị một người bạn trai hoặc bạn gái nào đó bỏ em 
không? Lúc đó em có cảm thấy đau khổ không?”
“Ồ,” họ trả lời, “nếu khổ đau là 
vậy thì em có thể liên tưởng được!” Dù vậy, 
tôi cũng cảm thấy chút gì bất mãn khi thấy mình phải là một người mang tin buồn 
đến cho những người trẻ ấy.
Nhiều khi tôi thấy mình lướt qua 
hai Chân đế đầu tiên để giảng ngay đến Chân đế thứ ba, để tôi có 
thể nói đến cái tin vui. Chúng ta có thể sống hạnh phúc được. Mỗi 
người chúng ta có khả năng phát triển một tâm rộng lớn đủ để có thể thương yêu, 
tỉnh thức, đáp ứng, quan tâm đến mọi việc, và không cần phải tranh đấu. 
Đó không phải chỉ là một tin vui thôi, mà là một tin vui tuyệt vời.
Tam Tổ của Thiền tông và Nhất Tổ của 
Berkeley
Tăng Xán, vị tổ thứ ba của thiền tông Trung Hoa 
sống vào thế kỷ thứ sáu, đã viết: “Chí đạo vô nan, 
duy hiềm giản trạch” (Tín tâm minh) có nghĩa là: “Đạo lớn không khó, 
chỉ hiềm vì ta có sự lựa chọn mà thôi.” 
Khi đọc những lời ấy, tôi nghĩ: “Chắc mình sẽ 
không bao giờ đạt đạo nổi!” Dường như mỗi kinh nghiệm trong 
đời đều mang lại cho tôi một cơ hội để có sự ưa ghét, và tôi lúc nào cũng thiên 
vị.
Lúc đầu tiên khi được nghe giáo lý ấy, đứa con gái 
nhỏ của tôi đang
theo học môn múa ba-lê rất chuyên cần, và vị giáo sư 
của nó cho rằng nó rất có khiếu. Vào mỗi mùa giáng sinh, nó 
được chọn múa trong vở tuồng Nutcracker
của đoàn, và mỗi năm được giao cho đóng một vai quan trọng hơn. Mặc dầu 
đứa con gái của tôi chỉ là một cô bé, tôi vẫn tưởng tượng đến một ngày nào đó, 
nó sẽ được đóng vai chánh Snow Queen, và tôi không tin rằng đến lúc ấy, 
tôi sẽ có một thái độ dững dưng về việc con mình sẽ được thủ vai chánh ấy hay là 
một cô bé nào khác. Tôi có một sự thiên vị.
Tôi có thể hiểu được giáo lý vô 
phân biệt này trên một lãnh vực bình thường. Tôi biết mình sẽ không bao giờ 
bước vào một tiệm kem và nói: “Bán cho tôi loại kem nào cũng được,” nhưng tôi 
cũng biết chắc là mình sẽ không khổ tâm lắm nếu họ đã bán hết kem sô-cô-la. Bởi 
vì còn biết bao nhiêu loại kem khác cũng thơm
ngon như vậy. Đây là một bình diện phân biệt, chọn lựa được 
biểu hiện qua sở thích và thị hiếu bình thường cá nhân.
Điều mà tôi đã không thể hiểu tới là làm sao việc 
ấy cũng có thể đúng với những ý thích sâu xa của ta nữa! Thật ra, tôi đã không tưởng tượng nổi vì sao người ta lại muốn 
mình không còn có một sự phân biệt nào hết. Đối với tôi 
thì dường như chính sự chọn lựa mới làm cho cuộc đời hào hứng và lý thú.
Lúc ấy, quan điểm của tôi hoàn toàn đi ngược lại với giáo lý của kinh Kim Cang: 
“Tâm vô sở trụ”, có nghĩa là một tâm không bị dính mắc vào đâu hết. Nhưng 
rõ ràng, điều tôi không hiểu là sự sống này vẫn có thể được hào hứng 
và lý thú, và ta vẫn có thể có những dự án, hy vọng và đeo đuổi chúng hết 
lòng, mà vẫn sẵn sàng buông bỏ nếu chuyện không thành.
Tôi học bài học lớn ấy từ Bill, 
một người bạn đã qua đời cách đây hơn hai thập niên. Tôi thường nghĩ đến anh như là vị Tổ Thứ Nhất của vùng Berkeley.
Bill bị bệnh ung thư
vào năm anh ta còn rất trẻ, mới bốn mươi tuổi. Anh có vợ, một 
sự nghiệp đang lên và những đứa con thật dễ thương. Khi biết rằng cái 
chết gần kề, anh viết một lá thư
để gửi đến bạn bè sau khi anh qua đời. Trong thư, anh 
viết về cuộc đời của mình: “Tôi còn muốn nhiều chuyện muốn làm nữa, nhưng không 
bao giờ tôi muốn nó sẽ là gì khác hơn!” 
Tôi nghĩ, nếu tôi có thể sống 
cuộc đời mình được như vậy thì kỳ diệu vô cùng, muốn thêm nhiều nữa là một sự 
tán thưởng đối với cuộc đời, nhưng tôi sẽ không bao giờ muốn nó là gì “khác 
hơn”.
Tôi có người bạn là một vị thầy 
dạy Zen. Anh ta kể cho tôi nghe về một bài kệ thị tịch. Có một 
tập sách sưu tầm các bài kệ thị tịch để lại bởi những thiền sư – 
theo truyền thống Zen, các ngài nói ra vào hơi thở cuối trước khi viên 
tịch. Anh bạn kể cho tôi nghe về một bài kệ thị tịch viết: “Kệ thị tịch là 
chuyện láo lếu. Chết chỉ là chết.”
Vị thiền sư ấy nhắc tôi nhớ đến một người bạn khác 
là Pat, cũng qua đời vì chứng bệnh ung thư vào năm bốn mươi mấy tuổi, để 
lại bốn đứa con, nhiều bạn hữu và một sự nghiệp luật sư lý thú. 
Tôi học được từ cô là chúng ta vẫn có thể có sự thiên vị, một sự thiên vị 
sâu sắc, không bao giờ thối chí, và cũng không hề đắng cay về nó. 
Pat sống 
được thêm vài tháng sau khi biết là cuộc chiến đấu với cơn bệnh của cô đã không 
còn hy vọng. Cô ta dùng thời gian còn lại để hàn gắn mối 
liên hệ với người chồng cũ, hoàn tất những công việc còn dở dang, tâm sự với bạn 
bè và bộc lộ hết với họ những gì cô hằng muốn nói. Có những chuyện cô muốn giải quyết, và tuy chúng rất rắc rối về tình 
cảm, nhưng cô vẫn cứ làm. Lúc gần cuối đời, cô nói với tôi bằng một giọng 
hết sức bình thường và thực tế: “Chị biết không, tôi đã trưởng thành rất nhiều 
về mặt tình cảm nhờ chứng bệnh ung thư này. Tôi đã làm được 
những chuyện mà tôi không bao giờ dám làm nếu như tôi không có bệnh. Nhưng thành thật mà nói, tôi vẫn ước gì mình không mắc bệnh và không 
phải trưởng thành.”
Một sự thật rất đơn sơ. Trưởng thành cũng không 
hay ho gì. Sống thì vẫn thú vị hơn.
Được trao cho những gì không thể thay đổi được, cô bạn tôi đã sống những ngày 
cuối đời mình bằng một thái độ vui vẻ và sẵn sàng. Một ngày 
trước khi mất, tôi bắt gặp cô ngồi trên giường đọc báo. Cô nói: “Tôi đã 
làm hết mọi chuyện rồi, bây giờ chỉ còn chờ đợi thôi.” Tôi 
nghĩ việc ấy đủ cho cô xứng đáng làm vị Tổ Thứ Nhất của vùng San Anselmo.
Đứa con gái của tôi không bao giờ được đóng vai 
chánh Snow Queen. Nó đã không trở thành một vũ công, và thái độ chấp nhận của nó cho 
phép tôi buông bỏ những kỳ vọng của chính tôi. Tôi vẫn còn thích xem 
tuồng Nutcracker, và tôi rất vui thú tưởng tượng đến cái cảm xúc của 
người mẹ cô bé đang thủ vai Snow Queen. Tôi cũng cảm 
thấy nỗi vui ấy khi xem những trận đấu banh trên ti-vi, khi nhìn thấy mẹ của một 
cầu thủ đứng reo hò trên khán đài, ngay sau khi con mình vừa thắng điểm. Tôi cảm động vô cùng, đôi khi đến chảy nước mắt. 
Tôi cũng khóc khi thấy những chuyện bất hạnh xảy đến cho người ta. 
Không có một vị thuốc nào có thể chữa được tiếng khóc. 
Và tôi rất mừng về sự bất lực ấy.
Chân đế thứ ba rưỡi
Đức Phật dạy rằng, chấm dứt khổ 
đau là chuyện có thể được. Ngài dạy, chúng ta có thể tu tập 
rèn luyện tâm mình, giữ cho nó được trong sáng và rộng lớn, để mọi kinh nghiệm 
của ta đến và đi trong một đại dương bao la của tuệ giác. Khổ đau và an lạc sẽ 
đến rồi đi, thỏa mãn và thất vọng sẽ đến rồi đi, và tâm ta vẫn giữ được sự tĩnh 
lặng muôn thuở của nó. Ý thức được rằng ta không cần phải được thỏa mãn mới có 
hạnh phúc, là một tự do rất lớn.
Nhưng dù sao thì tôi vẫn chưa 
chấm dứt được khổ đau, tôi biết không phải vì tôi chưa khao khát đủ. Tôi khao khát lắm chứ! Cũng không phải vì tôi không hiểu. Trong thâm tâm, tôi tin giải thoát là chuyện có thể được. 
Tôi biết, chúng ta tranh đấu vất vả vì ta bám chấp và cho những chuyện xảy ra là 
của riêng mình, thay vì nhìn chúng như một phần của vở tuồng vũ trụ to lớn đang 
khai mở. Tôi biết chắc
là mọi việc đều do duyên khởi và ít nhiều tôi tin vào karma, tức luật 
nhân quả. 
Tuy nhiên, tôi vẫn vất vả tranh 
đấu và tôi đau khổ. Nhưng dù sao thì bây giờ tôi cũng ít khổ đau hơn, và tôi cũng không 
còn bị tuyệt vọng vì những nỗi khổ, như trong quá khứ.
Vì vậy, tôi cộng thêm một nửa 
Chân đế nữa. Nửa chân đế ấy là “Khổ đau có thể chăm sóc được (manageable).” Còn thiếu một chút nữa là chấm dứt được khổ đau, điều mà tôi hoàn 
toàn tin là có thể được, nhưng tôi hài lòng với việc mình có thể đối trị được 
khổ đau một cách tốt đẹp hơn. Vì biết rằng tôi có thể săn sóc được khổ đau của mình, tôi không còn 
sợ hãi những đau đớn như khi trước. 
Ngày nay, tôi thường nói thẳng 
với học trò của mình, mặc dù đức Phật có dạy là ta có thể chấm dứt được khổ đau, 
nhưng chính tôi chưa đạt đến trình độ ấy. Học trò của tôi không thất vọng. Và tôi cũng không hề mất đi một điểm nào. 
Nghe được rằng ta có thể săn sóc được những khổ đau của mình, đối với họ đã là 
một tin vui lắm rồi.
Một nửa Chân đế phụ thêm 
đó còn giúp cho tôi có lòng từ bi đối với chính mình và người khác hơn. Tôi có 
thể thấy được tôi đã bị dính mắc ra sao, tôi đã vất vả, khổ đau như thế nào, tôi 
đã mong muốn những gì, và cuối cùng rồi thì mọi việc cũng đã thay đổi và giải 
quyết ra sao. Tôi thương mình hơn, khi hiểu tôi đã tạo nên 
biết bao nhiêu đau đớn trong tâm cũng vì những bám víu bị điều kiện của mình. 
Ý thức được nỗi khổ của mình, mặc dù đã nhiều năm tu tập và dù đã có một hiểu 
biết nào đó, tôi vẫn rất nhạy cảm đối với một nỗi đau chắc phải là rất to tát 
của tất cả mọi người đang cùng với tôi chia sẻ trái đất này.
Tim tôi vẫn còn níu kéo
Trong một bài nhạc tình, câu “Tim 
em gắn bó với anh” là một lời yêu thương rất nồng nàn tha thiết. Chúng ta 
muốn trái tim và ý nghĩ của người mình yêu gắn chặt với 
mình. Nhưng theo sự hiểu biết của nhà Phật thì chính sự bám víu, dính mắc 
này là nguyên nhân của khổ đau. Mặc dù vậy, trái tim 
của tôi vẫn còn rất dính mắc. Vào những ngày đẹp trời thì nó 
ít bị dính mắc hơn một chút.
Lúc mới bắt đầu tu tập, một trong 
những việc mà tôi thích nhất là được nghe kể chuyện về đức Phật và Phật pháp. Trước khi tôi ý thức được là ta cũng có khả năng tĩnh tâm và cảm 
nhận được giải thoát là gì, tôi rất thích được nghe kể những câu chuyện về giải 
thoát.
Những câu chuyện về đức Phật bao 
giờ cũng rất kỳ diệu. Thường thì chuyện được bắt đầu 
bằng sự mô tả về nơi chốn đức Phật thuyết pháp, tên của những nhân vật chánh đến 
nghe pháp.
Và thường thì chuyện kể lại có một vị nào đó “từ chỗ ngồi của 
mình trong đại chúng, đứng dậy, đảnh lễ đức Phật, xong ngồi xuống và nghe pháp.” 
Và tiếp theo “Đức Như Lai nói như thế này,” rồi chuyện 
trình bày một bài pháp trong đó đức Phật giải thích về chân tánh của mọi vật. 
Câu chuyện thường được chấm dứt bằng câu: “Sau khi nghe Phật nói xong, các vị... 
đều được giác ngộ hoàn toàn” hoặc là: “Nghe xong, tất cả đại chúng đều được hoàn 
toàn giác ngộ.” Lời kết ấy thường được viết như thế này: “Và tâm các ngài, nhờ 
không còn bị dính mắc, được giải thoát khỏi những sự ô nhiễm.” 
Tôi yêu thích những lời ấy vô 
cùng. Trải qua biết bao nhiêu năm tu 
tập cho đến ngày hôm nay, mỗi khi có dịp được nghe ai thuyết pháp, tôi đều tưởng 
tượng rằng có thể đây là lúc mình sẽ đạt được sự giác ngộ hoàn toàn và cuối cùng, 
như những vị ấy. Sự thật là điều đó đã xảy ra trong thời đức 
Phật, đã để lại cho ta một tiền lệ rất tốt. Có điều là nó chỉ chưa 
xảy đến cho tôi mà thôi!
Tôi nghĩ việc ấy đã không xảy đến dễ dàng cho 
chúng ta, là vì tâm ta đã bị điều kiện bởi những phản ứng theo thói quen quá nặng nề. Thói quen của 
tâm rất khó thay đổi. Tôi thường hay bị nhức đầu mỗi khi tức giận, vì tôi 
không biết cách nào để biểu lộ sự bất mãn của mình ra cho được tự nhiên. 
Bây giờ tôi có thể bày tỏ cảm xúc tức giận của mình thoải mái hơn, nhưng đôi khi 
tôi cũng cần một cơn nhức đầu để nhắc nhở là mình đang giận.
Và tôi cũng hoàn toàn tin rằng khổ đau phát sinh mỗi khi tôi 
gắng chống cự lại với những biến cố nào trong đời mà tôi không thay đổi được. 
Dù biết vậy, đôi lúc, tôi vẫn cứ khăng khăng chống cự. 
Thói quen thật rất khó chuyển đổi.
Tôi có một giả thuyết về việc vì 
sao thói quen của tâm lý và tâm linh lại khó có thể xóa bỏ hoàn toàn. Tôi gọi đó là giả thuyết chiếc-áo-thun-của-sự-thay-đổi
trong tâm. 
Đã lâu rồi, trong một tiết mục quảng cáo trên ti-vi 
có một bà mẹ đưa lên chiếc áo thun của con trai mình, cho thấy những nơi bị dính 
dơ bởi bơ đậu phụng, mứt, chỗ cậu ta làm vấy kem 
sô-cô-la, và những nơi cậu ta lăn lộn chơi banh trên đất bùn. 
Bà ta bỏ chiếc áo thun dính bẩn ấy vào máy giặt và cộng thêm với loại xà bông mà 
họ muốn quảng cáo với khán giả.
Sau đó khi bà lấy ra khỏi máy giặt, chiếc áo trở nên trắng 
tinh như mới, không còn một tì vết nào. Trong kinh 
nghiệm giặt quần áo suốt đời tôi, tôi chưa bao giờ thấy một chiếc áo nào khi lấy 
ra khỏi máy giặt mà trông hoàn toàn như mới. Lúc nào 
cũng có một vài chỗ bị phai màu, và ngay cả những trường hợp hiếm hoi khi mọi 
chỗ dính bẩn đều được giặt sạch, chiếc áo vẫn không bao giờ có thể thẳng thớm 
như khi còn mới. Những dấu vết cho thấy chiếc áo đã 
được mặc rồi sẽ dính vào nó mãi mãi. 
Tôi nghĩ đối với tâm ta cũng vậy, 
và tôi nghĩ việc ấy cũng bình thường thôi. Nếu 
chúng ta biết bên nào của chiếc áo bị ngắn hơn, ta có thể nhét bên ấy vào cho 
chặt hơn một chút, và rồi thì nó cũng xem rất chỉnh tề.
Nếu như tâm tôi không bị dính mắc, 
tôi sẽ hoàn toàn không có sự lo sợ. Không có gì đe dọa tôi được, vì không có một vật gì tôi sợ phải đánh 
mất, và cũng không có một vật gì tôi cần cho hạnh phúc của mình. 
Nhưng tâm tôi vẫn còn dính mắc, nên đôi khi tôi vẫn sợ rằng không có được những 
gì mình nghĩ là cần thiết, hoặc sẽ đánh mất những gì tôi nghĩ là mình muốn. 
Nhưng dầu sao đó cũng không còn 
là một vấn đề lớn nữa, vì sự sợ hãi không còn làm tôi kinh khiếp như xưa. Tôi biết 
nó có mặt là do sự dính mắc của mình, và tôi biết nó rồi sẽ đi qua. Tôi có thể 
tự nhủ: “Tôi đang sợ hãi, bởi dù tôi biết cái gì là chân thật, nhưng ngay lúc 
này tôi đã quên mất. Nhưng tôi biết khả năng ấy hiện hữu.” Và khả năng ấy, niềm 
tin tưởng ấy, đã đem lại cho tôi thật nhiều hy vọng, giữa những cơn dông tố hãi 
hùng trong cuộc đời.
 
 
Nguyễn Duy Nhiên dịch