BROOK ZYPORYN
(Northwestern University)
Thích Nhuận Châu
dịch
Khi truyền bá rộng rãi sang châu Á, Phật giáo thành công
khi vượt qua một số vấn đề nổi bật từ những giới hạn về ngôn ngữ trong một số
trường hợp phải phiên chuyển thành một ngôn ngữ rất khác với ngôn ngữ nói của Ấn
Độ. Giáo lý đạo Phật được truyền đạt bằng lời nói qua vô số ngôn ngữ và tiếng
nói địa phương. Còn Kinh tạng, khi đã được viết ra, lại được
phiên dịch thành hàng tá ngôn ngữ ngay cả trước thời kỳ hiện đại. Do vì
nguồn gốc lịch sử không cho phép các học giả dùng ngôn ngữ nói trong việc giảng
dạy, bài viết này sẽ tập trung vào những ý tưởng được viết ra, nhằm khảo sát
việc truyền dạy qua lời nói chỉ trong thời kỳ Phật giáo Ấn Độ.
Có đúng các lời dạy từ chính kim khẩu của Đức Phật được ghi chép lại chăng?
Đó là vấn đề đang còn tranh cãi. Thượng tọa bộ (Sthavira) cho rằng tiếng
Pāli, tiếng nói của người dân vùng Trung Ấn mà bộ phái ấy đang sử dụng cho kinh
luận của họ, chính là ngôn ngữ của Đức Phật. Tuy nhiên, giới nghiên cứu ngày nay
lại chỉ ra một cách đầy thuyết phục rằng, Pāli là phương ngữ của dân tộc phía
Tây, đúng hơn là Trung tây của Trung Ấn. Trong khi chính Đức Phật lẽ ra phải
dùng một phương ngữ của miền Đông, có thể là ngôn ngữ cổ Ma-kiệt-đà (Magadha),
tiếng nói địa phương của vùng mà ngài đã đi qua, hoặc có thể một dạng nào đó từ
“tiếng Côi-nê của các cư dân vùng sông Hằng.” Không
chỉ riêng lời nói của Đức Phật được ghi lại bằng ngôn ngữ ấy, mà những ngôn ngữ
và hình thái nào đó trong kinh tạng Pāli đã tiết lộ dấu tích một sự phiên chuyển
từ phương ngữ miền Đông sang phương ngữ miền Tây. Do vậy, rất an tâm để thừa
nhận rằng trong giai đoạn đầu của sự phiên chuyển ngôn ngữ ấy, tiếng nói Đức
Phật dùng đã được chuyển thành phương ngữ của những vùng bất cứ
nơi đâu mà tăng sĩ Phật giáo đi qua.
Chính Đức Phật đã quy chuẩn cách dùng ngôn ngữ hay tiếng nói địa phương trong
việc truyền đạt giáo lý. Theo một đoạn kinh văn khó hiểu được lưu trữ trong các
tạng luật, có hai vị tăng, vốn trước khi xuất gia là dòng Bà-la-môn, đã thỉnh
cầu Đức Phật cho phép được trình bày lại giáo lý theo hình thức tương đương như
tiếng Sanskrit (trong kinh Phệ-đà) để tránh khỏi sự sai lạc. Tuy vậy, Đức Phật
từ chối lời thỉnh cầu đó và liền chỉ dạy cho các thầy tỳ-kheo nên truyền dạy
giáo lý theo ngôn ngữ nói của chính địa phương họ. Đoạn kinh văn này
được hiểu tổng quát như là sự cho phép cách dùng các phương ngữ khác nhau trong
việc truyền bá Phật pháp; điều ấy phù hợp với tính phổ biến của đạo Phật và ý
định căn bản là khiến cho giáo pháp được phổ cập đến mọi tầng lớp, là sự phản
ứng vi tế với quan niệm cấm chế về giáo lý của Bà-la-môn.
Ban đầu, sự duy trì giáo lý bằng ngôn ngữ bất biến được xem như là tiêu chuẩn
thiết yếu của tính xác thực, và điều này góp phần lớn lao thúc đẩy sự phân kỳ về
mặt ngôn ngữ và lan tỏa giáo lý khi đạo Phật rời khỏi quê hương là bình nguyên
sông Hằng.
Các kinh văn được truyền miệng cho đến nay đều được ít nhiều phiên
chuyển thành các phương ngữ khắp vùng Trung Ấn để dễ hiểu và truyền bá rộng rãi
hơn. Ngày nay chúng
ta chỉ được biết có hai ngôn ngữ: Pāli và Gāndhārī. Pāli hiện là một phương ngữ
của miền Tây Ấn Độ, trong khi Gāndhārī là phương ngữ được dùng rộng rãi ở vùng
Tây Bắc của tiểu lục địa và, với sự lớn mạnh của vương triều Quý Sương (Kushan)
ở vùng Bactria và Trung Á, Pāli trở thành ngôn ngữ kinh điển của Thượng tọa bộ,
và Gāndhārī là ngôn ngữ chính của bộ phái Đàm-vô-đức. Các tư liệu đáng kể
sau này đề cập một ngôn ngữ khác là Prākṛit
được nhiều bộ phái sử dụng, gọi là tiếng Paiśācī, Apabhraṃśa, và Maddhyoddeśika.
Apabhraṃśa được quy cho Chính lượng bộ (Sammitīyas)
hoặc Trưởng lão bộ (s: sthavira). Còn tiếng Maddhyoddeśika
được quy cho Đại chúng bộ (Mahāsaṅghika).
Ban đầu, các trường phái phải truyền bá kinh điển của bộ phái mình bằng tiếng
Prākṛit. Một số các bộ phái, như Thượng tọa bộ, vẫn giữ lại ngôn ngữ Trung Ấn
của họ, trong khi một só bộ phái khác bị lôi cuốn vào phong trào gọi là phục
hưng tiếng Sanskrit và bắt đầu Sanskrit hóa nền văn học mà họ đã được thụ bẩm.
Công việc Sanskrit hóa nhìn như là một tiến trình tiệm tiến thừa nhận cho các bộ
phái được truyền bá rộng rãi sang các vùng rộng lớn trải qua sự phát triển khác
nhau của các địa phương. Văn hệ của phái Căn bản Nhất thiết
hữu bộ (Mūla-sarvāstivāda) chỉ được lưu giữ trong kinh điển Phật học bằng tiếng
Sanskrit, nhưng lớp địa tầng cổ tiết lộ cho biết nhiều dấu tích cơ bản của nó là
tiếng Prākṛit. Những bản thảo dở dang còn lưu lại cho biết rằng trường
phái Đàm-vô-đức (Dharmaguptaka) cũng tham dự trong tiến trình Sanskrit hóa, ít
nhất là trong vùng Trung Á. Nhiều bản thảo phát hiện thêm được ở Afghanislan từ
năm 1994 hỗ trợ cho quan điểm cho rằng Đại chúng bộ (Mahāsaṅghika), và
đặc biệt là Thuyết xuất thế bộ (Lokottaravāda), đã dùng một hỗn hợp đặc
biệt của tiếng Prākṛit và Sanskrit để có thể được gọi là ngôn ngữ lai tạp
Sanskrit của Phật giáo (Buddhist Hybrid Sanskrit) trong ý nghĩa chính xác nhất,
và đó có thể là điều liên quan đến như ‘maddhyoddeśika; e: intermediate
recitation), một thuật ngữ vẫn chưa được hiểu một cách toàn triệt.
Bảo lưu hay phiên dịch
Khi Phật giáo bắt đầu lan tỏa vượt ra ngoài tiểu lục địa Ấn
Độ, những người truyền bá và các môn đệ ở bản địa phải đối diện với vấn đề là
làm sao để truyền đạt giáo lý, nghi thức, và kinh văn trong một môi trường hoàn
toàn khác biệt về ngôn ngữ. Cơ bản, có hai khả năng chính họ gặp phải: bảo trì
ngôn ngữ Ấn Độ như vẫn thường dùng, hoặc là phiên dịch sang ngôn ngữ địa phương.
Lưu giữ bản nguyên Ấn Độ vốn đã giúp cho giới thực hành có được một vài lợi lạc,
trong số đó là ý nghĩa linh thiêng của lời kinh truyền khẩu và kinh văn được ghi
chép ra từ cách dùng của ngôn ngữ linh thiêng được cho là phát xuất từ quê hương
của Đức Phật hoặc là ngay chính từ lời của Đức Phật; được tiếp tục tiếp cận vào
các nguồn khác của Ấn Độ, và một cách quan trọng, không mơ hồ trong vấn đề thuật
ngữ. Điều ấy cũng cung cấp một sự lưu thông hữu ích chung trong lĩnh vực đa
chủng (multiethnic) và đa ngôn ngữ (multilingual), không còn là
chuyện nhỏ khi một trào lưu truyền bá Phật giáo trở nên được tán trợ bởi các thế
lực thống trị vì tiềm lực thống nhất của họ. Mặt khác, ngôn
ngữ Ấn Độ có lẽ khó hiểu đối với phần lớn các môn đệ bên ngoài Ấn Độ và có sự
trở ngại cho vấn đề truyền đạo, đặc biệt là trong những vùng sử dụng ngôn ngữ
phi Ấn-Âu. Điều khó hiểu này sẽ khiến tạo thuận lợi để sẵn sàng thay đổi
nguồn gốc Ấn Độ bằng một ngôn ngữ bản địa, cho dù nhu cầu tất yếu của vấn đề
nghiêm trọng là tìm một sự tương ưng tối thiểu trong ngôn ngữ thay thế cho khó
khăn của thuật ngữ Phật học Ấn Độ. Những thảo luận còn được được lưu giữ trong
các luận giải tiếng Hán và Tây Tạng đã chỉ ra rõ ràng rằng có một số dịch giả
rất am tường về các vấn đề thuộc phương pháp luận (methodological), ngữ
văn (philological) và văn hóa liên quan đến công việc dịch thuật.
Những phản ánh của họ trong lĩnh vực này đã tạo nên kết quả là một nỗ lực thiết
định một phương thức để nối liền hai sự phân cách về văn hóa và ngôn ngữ.
Trong tiến trình lịch sử cả hai khả năng
này – lưu giữ lại nguồn gốc Ấn Độ và phiên dịch thành ngôn ngữ địa phương – được
vận dụng, có khi cùng lúc cả hai. Có đôi lúc ngôn ngữ địa phương được chọn để phiên dịch
chính nó lại trở nên ngôn ngữ vượt giới hạn ngôn ngữ mang tính tín ngưỡng (có nghĩa là cách diễn đạt được dùng
trong kinh điển và trong nghi lễ) trong khi các hình thái đặc biệt của Phật giáo
vượt xa hơn các ranh giới ngôn ngữ, như trường hợp Trung Hoa và Tây Tạng. Mặc dù
không có một truyền thống Phật giáo nào đưa ra những mệnh lệnh để quy định hoặc
chống lại cách sử dụng một ngôn ngữ chuyên biệt, nhưng trong nhiều trường hợp,
họ thấy có một khuynh hướng tiệm tiến nhưng đều đặn khi nhìn về phía ngôn ngữ
viết của kinh điển là linh thiêng, và điều này đã giảm trừ phần lớn nguồn gốc
công khai đến sự thay đổi đặc tính ngôn ngữ trong thời kỳ đầu của việc truyền bá
kinh điển ở Ấn Độ qua lời nói. Bất kì nơi đâu mà ngôn ngữ của kinh điển chưa
được đồng nhất với tiếng nói địa phương, thì sớm hay muộn, ngôn ngữ địa phương
cũng trở thành quen thuộc với sự phát sinh một thể loại rất phong phú nhưng
không nằm trong hệ kinh điển Phật giáo như luận giải, truyện ký, sách giáo khoa,
thi ca, kinh nhật tụng, và những thứ khác. Có khi những điều này đã dẫn đến sự
phát triển một ngôn ngữ văn học mới theo cách riêng của
nó. Ví dụ như cách các dùng các ngôn ngữ Newari, Tamil, và Cổ Java bên cạnh
tiếng Sanskrit; và dùng ngôn ngữ Thái, Nhật Bản, Mông Cổ bên cạnh tiếng Pāli;
dùng chữ Hán bên cạnh tiếng Tây Tạng.
Trung Á
Một trường hợp thú vị nhất minh họa cho những khả tính đa dạng là
vùng Trung Á, nơi mà nhiều hình thái của Phật giáo cùng tồn tại trong hậu bán
thiên niên kỷ thứ nhất. Trước hết, có một số nhóm dân tộc, đáng
kể nhất là nhóm người sử dụng hai phương ngữ Tocharian (dạng ngôn ngữ Ấn-Âu miền
Cận Đông), nhóm người sử dụng hai phương ngữ Saka, Tumshuq và Khotanese (Trung
Iranian), và nhóm người sử dụng phương ngữ Uigur (một dạng ngôn ngữ thuộc Thổ Nhĩ Kỳ),
nơi vẫn tiếp tục dùng ngôn ngữ Sanskrit như là ngôn ngữ ‘chính thống’ nhưng cũng
phiên dịch kinh điển thành ngôn ngữ địa phương của mình và kết tập các kinh điển
Phật giáo riêng của mình. Những nhóm dân tộc này đã phiên dịch kinh điển từ
tiếng Sanskrit, được chứng tỏ bởi sự tồn tại của một số đáng kể các bản thảo
song ngữ và Kinh văn, các thủ bản mà vẻ hào nhoáng của một trong các phương ngữ
đã được thêm vào các bản kinh tiếng Sanskrit ở giữa dòng, cũng như trong các bản
kinh, ít nhất là trong trường hợp Tocharian và Uigur, nơi các bản dịch tiếng
Sanskrit và phương ngữ được trình bày xen kẽ nhau từng chữ hoặc từng dòng trong
cùng một hàng.
Thứ hai là trường hợp Trung Hoa và Tây Tạng, cả hai đều phiên dịch kinh điển
Phật giáo sang ngôn ngữ riêng của mình từ khởi nguyên của việc truyền bá đạo
Phật trên các đất nước này.
Cuối cùng là trường hợp đặc biệt của nước Sogdian, những người sử dụng ngôn ngữ khác của
Trung Iran, ngôn ngữ của những thương nhân đã có công trong việc truyền bá Phật
giáo và văn hóa Ấn Độ từ vương triều đế chế Quý Sương sang Trung Hoa. Họ đã bắt
đầu công cuộc phiên dịch kinh điển Phật giáo sang tiếng Sogdian từ hậu bán thế
kỷ thứ nhất,
họ cũng đã làm như vậy khi dịch kinh điển từ gốc Ấn Độ sang tiếng Hán. Tất cả
những việc này đều được kết tập từ những thủ bản tìm thấy được ở vùng Trung Á,
và đặc biệt là từ các bản kinh khắc trên đá trong động Đôn Hòang, nơi kinh điển
gồm nhiều ngôn ngữ cùng được tìm thấy.
Theo Jan Nattier, không có bản kinh Phật giáo Ấn Độ nào được dịch sang ngôn ngữ
địa phương được tìm thấy ở Kashgar, tỉnh lỵ miền Viễn Tây của thung lũng Tarim.
Đến nay, những thủ bản tìm thấy được ở Afghanistan xác minh cho quan điểm này,
vì hầu như các bản kinh ấy đều viết bằng các ngôn ngữ Ấn Độ, nhưng lúc đó không
rõ là bản kinh dịch hay nghi thức trì tụng được viết bằng tiếng địa phương vì
một mục đích đặc biệt.
Trung Hoa và Á Châu
Ngay khi Phật giáo truyền đến Trung Hoa, thực tế đã chứng tỏ rằng nhất thiết cần
phải phiên dịch các kinh điển Phật giáo sang tiếng Hán. Lý do của việc này có lẽ
là sự khác biệt rõ nét về ngữ pháp và phát âm giữa ngôn ngữ Ấn Độ và Trung Hoa.
Một lý do khác là sự chuyển hướng truyền bá Phật giáo sang Trung Hoa, nơi lý học
tư biện được đề cao và nền văn học rất tinh tế, được đánh giá rất cao, khu biệt
với những hệ thống giá trị và quan niệm thẩm mỹ khác. Kỹ thuật phiên dịch đã
trải qua nhiều dạng thức và nhiều thời kỳ khác nhau, bắt đầu từ An Thế Cao, tăng sĩ dịch kinh vào thế kỷ thứ 2,
người đã khuếch trương cách dùng ngữ vựng và các khía cạnh khác của ngôn ngữ
nói. Khuynh hướng này kết hợp chặt chẽ với các yếu tố của ngôn ngữ bản địa
theo hàng thế kỷ, được tiêu biểu bằng nỗ lực áp dụng từ ngữ của Đạo giáo
để diễn đạt ý tưởng và thuật ngữ Phật học, và được viết ra theo phong cách rất
có tính văn học. Một tiêu chuẩn mới được đặt ra vào thế kỷ thứ 5 khi nhà phiên
dịch nổi tiếng Cưu-ma-la-thập (350-409/ 413) mở đầu ban phiên dịch, một đội ngũ
những chuyên gia người nước ngoài và trong nước, thường được sự bảo trợ của
triều đình, cùng nhau coi sóc từng bước liên quan trong tiến trình phiên dịch.
Sự thành lập tương tự như vậy được diễn ra vài lần trong lịch sử Phật giáo vùng
Trung Á và Đông Á. Chẳng hạn như ở Tây Tạng trong
thời kỳ còn chủ quyền, và sau đó là ở Trung Á và Trung Hoa đối với những bản
dịch Tam tạng kinh điển của Tangul, Mông Cổ và Mãn Châu.
Khi văn hóa Trung Hoa trở thành mô hình trải khắp vùng Đông
Á, Phật giáo cùng phát triển theo đó. Với hình thái ngôn ngữ tiếng Hán, Phật giáo được
truyền bá sang Cao Ly, Nhật Bản, và Việt Nam. Ngôn ngữ văn học Trung Hoa trở
thành ngôn ngữ trong văn học kinh điển Phật giáo khắp vùng Đông Á. Ở Trung Á như
đã được đề cập trên, kinh dịch sang tiếng Hán được dùng như là bản gốc cho việc
phiên dịch sang tiếng Sogdian, và cũng dùng để dịch sang tiếng Uigur và một số
sang tiếng Tây Tạng. Giữa thế kỷ thứ 11 và 13, một số bản dịch đáng kể – trước
hết là bản dịch kinh từ tiếng Hán, rồi cả bản tiếng Tây Tạng được dịch sang
tiếng Tangut và Xixia, một ngôn ngữ khác là Hán-Tạng (Sino-Tibetan) được dùng
trong vương triều Tangut ở vùng tây bắc Trung Hoa trước khi nơi này bị thôn tính
bởi Thành Cát Tư Hãn (Genghis Khan).
Tây Tạng và Mông Cổ
Phật giáo đến Tây Tạng vào khoảng thế kỷ
thứ 7. Hiển nhiên là kinh điển Phật giáo được
dịch sang bản ngữ rất sớm, nhưng không hòa nhập được vào dòng văn học mang tính
di sản đang có như ở Trung Hoa, đúng như nguồn tư liệu truyền thống cho chúng ta
biết rằng chữ viết Tây Tạng được tạo ra đặc biệt là để phiên dịch kinh điển Phật
giáo. Một số bản dịch cổ xưa còn được lưu giữ.
Ngữ pháp Tây Tạng thường là rất khó, nếu không nói là ngược với cách dùng của
người Tây Tạng, vì nỗ lực của họ là mô phỏng cấu trúc từ ngữ từ gốc tiếng Ấn Độ,
và khác với chữ viết Tây Tạng vốn dùng để diễn tả cùng một thuật ngữ Phật học.
Một đặc biệt điểm khác là bối cảnh Trung Hoa liên quan đến vai trò của Phật giáo
ở Tây Tạng. Dường như từ buổi đầu, Phật giáo đã đóng vai trò chủ yếu trong thể
chế chính trị quốc nội và nhận được sự ủng hộ đáng kể từ triều đình.
Mối quan hệ mật thiết của triều đình vào đầu thế kỷ thứ 9 đã dẫn đến một sự kiện
nổi bật trong lịch sử phiên dịch kinh điển Phật giáo. Với quan điểm thiết
định một tiêu chuẩn chung cho phương pháp phiên dịch và đưa ra một cách giải
thích dễ hiểu cho mọi người, nhà vua đã ban hành một sắc lệnh phổ cập cho các
nhà phiên dịch. Để thực thi sắc lệnh, bộ phận đặc trách phiên dịch triều đình đã
ấn hành một danh mục gồm 9.500 thuật ngữ Sanskrit chuyên môn và chuẩn mực tương
đương trong ngôn ngữ Tây Tạng, cùng một chuyên luận giải thích việc phiên dịch
với chừng 400 thuật ngữ Phật học. Sau đó, các bản dịch mới được ra đời và các
bản dịch cũ được tu chính lại theo theo những nguyên tắc mới này và vẫn tiếp tục
được tuân thủ cho đến sau khi triều đại này suy tàn vào giữa thế kỷ thứ 9, mãi
cho đến giai đoạn chấm dứt thời kỳ phiên dịch kinh điển vào thế kỷ thứ 15. Việc
này đã dẫn đến một hiện tượng đặc biệt trong lịch sử Phật giáo thế giới: ngôn
ngữ của hầu hết các bản dịch tiếng Tây Tạng rất chuẩn mực và thường là không can
thiệp vào quy luật ngữ pháp của tiếng Tây Tạng, trung thành với nguồn gốc tiếng
Sanskrit đến mức độ không bao giờ tiếp cận với một ngôn ngữ nào khác nữa để
phiên dịch kinh điển Phật giáo.
Cũng như Phật giáo Trung Hoa đối với các nước Đông Á, ngôn
ngữ cổ Tây Tạng trở thành ngôn ngữ kinh điển chính thức cho nhiều quốc gia ở
vùng Trung Á. Trong giai đoạn cuối cùng của thời kỳ dịch thuật, người Uigur đã
dịch được vài tác phẩm kinh điển từ tiếng Tây Tạng. Sau khi người Mông Cổ đến
định cư trong những miền thuộc Phật giáo Tây Tạng vào thế kỷ 16, kinh điển Tây
Tạng lại tiếp tục được dịch sang tiếng Mông Cổ. Vào thế kỷ 18, triều đình Trung
Hoa còn hỗ trợ cho đến khi hoàn thành hai công trình phiên dịch tạng kinh tiếng
Mông Cổ là Cam Châu Nhĩ (Bka’gyur; Kanjur) và Đan Châu Nhĩ (Bstan
‘gyur; Tanjur), hai tạng kinh này đều được dịch từ tiếng Tây Tạng. Các vị
Lạt-ma Mông Cổ viết các luận giải bằng tiếng Mông Cổ, nhưng tiếng Mông Cổ không
bao giờ thành công trong việc thay thế tiếng Tây Tạng như là ngôn ngữ chính
trong nghi lễ và kinh điển. Từ vùng Nội Mông phía đông cho đến vùng thảo nguyên
Buryatia và Kalmyk ở phía Tây, người Mông Cổ tiếp tục nghiên cứu Phật giáo bằng
tiếng Tây Tạng. Tương tự như trường hợp Mông Cổ, triều đại Hoàng đế Càn Long ở
Trung Hoa, vốn xuất thân từ Mãn Châu, đã bảo hộ công trình phiên dịch kinh điển
Phật giáo sang tiếng Mãn Châu (Manchu). Dù những kinh này được dịch từ bản tiếng
Hán đã được hiệu chỉnh, nhưng tạng kinh ấy lại theo kiểu mẫu của tạng Cam Châu
Nhĩ (Bka’gyur ;
Kanjur) của Tây Tạng. Tuy nhiên, nỗ lực lớn lao này chủ yếu là thiện ý chính trị
và, không như trường hợp của Mông Cổ, không dẫn đến một tác dụng như một nền văn
học Phật giáo cho Mãn Châu.
Miền Nam và Đông Nam Á châu
Khi đạo Phật truyền bá đến bất kỳ nơi nào ở Miền Nam và
Đông Nam Á châu, kinh điển Phật giáo lại không được phiên chuyển qua ngôn ngữ
bản xứ, mà vẫn giữ nguyên dạng Ấn Độ. Nhờ vào nền tảng của các Tăng sĩ Ấn Độ
đang hoằng truyền Phật pháp mà kinh điển đã được tiếp tục truyền bá bằng tiếng
Pāli hoặc Sanskrit. Dù kinh điển của phái Thượng tọa bộ được viết bằng nhiều thứ
tiếng khác nhau như Sinhalese, Burmese, Thái và Khmer, nhưng mãi cho đến thời
cận đại, ngôn ngữ trong kinh vẫn luôn luôn là tiếng Pāli, và tiếng Pāli vẫn giữ
vai trò trung gian trong các nghi lễ và nghiên cứu Phật học ở Sri Lanka và các
quốc gia Phật giáo Thượng tọa bộ ở vùng Đông Nam Á như Burmese, Thái và Khmer.
Tuy nhiên, riêng từng bộ kinh, lại được dịch sang nhiều thứ tiếng địa phương như
Burmese, Khmer, Lanna Thai và Mon, Thái từ thế kỷ thứ 11 trở đi, và trong số này,
một vài thứ tiếng địa phương khác như Arakanese, Lao, Shan, Tai Khun, Tai Lue,
văn học Phật giáo bản địa được phát huy phong phú. Tiếng Sanskrit được dùng
trong trong những truyền thống Phật giáo khác, phần lớn là Phật giáo Đại thừa
hoặc cả Tan-tra thừa, ở Miến Điện, Lào và Kam-pu-chia trước khi Phật giáo Thượng
tọa bộ du nhập vào đó, và ở Java và Bali.
Các phương ngữ hiện đại
Tất cả những ngôn ngữ này đều thay đổi rất nhiều trong khoảng 50 năm
gần đây.
Ở phương Tây, các học giả bắt đầu nghiên cứu Phật học từ giữa thế kỷ 19, khi
tạng kinh Phật đầu tiên được dịch sang ngôn ngữ Tây phương. Sau đó không lâu,
học giả khắp các nước Á châu bắt đầu một cách có hệ thống để phiên dịch kinh
điển Phật giáo từ ngôn ngữ kinh điển chính thống sang ngôn ngữ hiện đại của địa
phương mình, đặc biệt là khi sự kiện này đã dẫn đến một bước ngoặt giữa hai ngôn
ngữ khác nhau có cùng một gốc. Kết quả là, người ta khó tìm thấy một ngôn ngữ
văn học (literary language) nào trong thế giới ngày nay, ngoại trừ Châu Phi, mà
không được dùng để phiên dịch kinh điển Phật giáo. Và cũng hợp
lý khi nói rằng ngày nay, tiếng Anh đã thay thế cho tiếng Hán như là phương tiện
thông dụng nhất được dùng cho việc truyền bá tư tưởng và văn học Phật giáo.
☸
Nguồn: Encyclopedia of
Buddhism.
Mac
Millan Refference. USA.
2003.
Do R.E. Buswell chủ biên.
Gangetic koine: tiếng Côi-nê (ngôn
ngữ Hy Lạp được dùng ở những nước miền Đông Địa Trung Hải)
康 居 國 Nước ở vùng Tây Vực thời cổ. Đời Đường gọi là Khang quốc.
An
Thế Cao là hoàng tử nước An Tức (e: parthie) nhưng xuất gia đi tu và sang Trung
Quốc, sống trên 20 năm ở đây. Sư là danh nhân đầu tiên được
ghi rõ trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc, là người đã thúc đẩy các công việc
dịch kinh điển có hệ thống. Ðể đạt được như vậy, Sư
thành lập những văn phòng chuyên dịch kinh sách. Số
lượng những bản dịch của Sư được ghi chép lại từ năm 34 đến 176. Những bản dịch này được chia
làm hai loại: 1. Những tác phẩm chuyên về Thiền (s: dhyāna) với những kĩ thuật
như An-ban thủ ý, quán Biến xứ (p: kasiṇa), quán thân (p: kāyagāta-sati)…. 2.
Kinh sách với những nội dung xếp đặt theo hệ số – ví dụ như Ngũ uẩn (s: pañcaskandha), Lục xứ. Sư
thường sử dụng từ ngữ đạo Lão (Lão Tử) để dịch kinh sách sang Hán văn.