Ngày nay chúng ta thấy chữ
karma được dùng nhan nhản khắp nơi. Nhưng điều đáng tiếc là phần lớn
nó đã được dùng một cách rất sai lầm. Không hiểu vì lý do gì, trong Anh
ngữ chữ karma
lại có nghĩa như là "định mệnh" hay là "vận số" (fate, destiny, theo American
Heritage Dictionary). Điều này thật là một sự bóp méo đáng tiếc, vì trong
Phật giáo, karma là một ý niệm rất thâm thúy và có nhiều ý nghĩa sâu sắc.
Chữ karma
đơn giản có nghĩa là "hành động", nó có gốc ở động từ kr có nghĩa là "làm"
hay "chế tạo." Trong chữ này ta thấy có ba ý khác biệt, nhưng có điều rất
đặc biệt là cả ba đều cùng là những giai đoạn không thể tách rời của chung một
tiến trình. Chúng ta có thể nghĩ rằng, (1) quyết định làm một việc gì là
một (2) hành động để thực hiện việc ấy là một điều khác, và (3) kết quả của hành
động ấy lại là một điều khác nữa. Nhưng theo quan điểm của đạo Phật thì cả
ba điều ấy chỉ là những phần khác nhau của một cái chung, toàn vẹn. Tác ý
(intention) là khía cạnh dẫn đầu của karma, nó điều khiển những hành vi của thân,
khẩu và ý, để chúng tạo tác và tích luỹ những nghiệp quả, vào khía cạnh cuối của
karma. Nói một cách khác, mỗi hành động được bắt đầu bằng một "việc làm"
của sự quyết định, và kết quả là một sự "tạo tác" mà trong đó một nhân cách cá
biệt được tạo lên. Vì vậy ta có thể nói rằng, karma là mối tương quan
giữa những việc ta chọn làm và sự tạo tác nên con người của ta từ những việc làm
ấy.
Chúng ta có thể thấy rất rõ điều
này qua những chữ dùng để diễn tả hành động, mà cùng một lúc vừa là động từ và
cũng vừa là danh từ, ví dụ như cụm từ sankharam abhisankharoti trong
Kinh Tương Ưng (Samyutta Nikaya 12.51). Trong Anh ngữ, chúng ta có thể
dịch cụm từ ấy ra thành nhiều cách khác nhau, như là "one forms formations",
“one constructs constructions”, “one creates creations,” hoặc là “one fabricates
fabrications.” Chắc bạn cũng đã hiểu. Khi một hành động nào đó khởi
lên, nó bao gồm cả hai việc: hành động tạo tác một cái gì và cùng với kết quả
của sự tạo tác ấy. Trong kinh có dùng hình ảnh về một người thợ gốm ngồi
nơi chiếc bàn xoay của mình. Người thợ gốm dùng đất sét để tạo nắn những
vật dụng tùy theo ý muốn, và khi món đồ gốm được tách rời ra khỏi chiếc bàn xoay
và mang vào lò nun, nó trở thành một hiện vật lâu bền của hành động ấy. Và
cá tính, nhân cách, cái ta
của mình cũng tương tự như thế, dưới quan điểm của đạo Phật, chúng được xem như
là những di tích hoá thạch của karma, những vết tích huân tập lại từ
những quá trình tác ý và hành động của ta trong quá khứ.
Phần lớn lối suy nghĩ của Tây
phương hay chú tâm về sự hướng ngoại. Chúng ta quen có quan niệm rằng, sự
chọn lựa của mình là để đáp ứng với hoàn cảnh chung quanh, và hành động của ta
có khả năng thay đổi môi trường chung quanh mình. Và theo lối suy nghĩ này
thì chúng ta đặt nặng sự quan trọng vào hành động của mình, vào vấn đề là nó có
được nhiều hiệu quả không, có mang lại sự thay đổi mà ta mong muốn không.
Nhưng ngược lại, trong đạo Phật thì chúng ta lại chú trọng về các phương diện
nội tại của hành động mình hơn.
Đối với đạo Phật thì những câu
hỏi quan trọng sẽ là "Những quyết định này sẽ có ảnh hưởng gì đến sự tốt lành
của chính mình?" và "Hành động của ta sẽ thay đổi ta như thế nào?" Với cái
nhìn của đạo Phật thì những gì ta làm (what we do) không quan trọng lắm
so với phương cách mà ta làm (how we do). Điểm chính yếu trong
karma là chúng ta tự nhồi nắn mình như thế nào, và chúng ta bị uốn nắn bỡi những
hành động của chính mình ra sao.
Thật ra, cái tôi của chúng ta
rất dễ uốn nắn, nó như một miếng đất sét dẻo đang được nhồi nắn trong mỗi giây,
mỗi phút qua tác ý của mình. Cũng như các khoa học gia ngày nay khám phá
ra rằng, không phải chỉ có bộ óc (the brain) cấu tạo nên tâm ý (the mind), mà
bây giờ đây, tâm ý cũng cấu tạo nên bộ óc nữa. Mấy ngàn năm về trước, đức
Phật cũng đã có nói về một quá trình liên lập (interdependent), phụ thuộc lẫn
nhau, tác ý của ta bị điều kiện bởi tâm tánh của mình, và ngược lại tâm tánh
cũng bị điều kiện bỡi tác ý.
Ví dụ, trong giây phút có một
cơn giận khởi lên, cho dù ta có biểu lộ ra bằng hành động, lời nói, hay dằn nén
lại trong tâm, ta cũng đang tự tập cho mình trở nên nóng tánh hơn bằng cách nhồi
nắn trong ta một tánh khí của cái giận. Một người có thiên hướng nổi giận
sẽ lại càng lúc càng dễ dàng bùng nổ hơn trước bất cứ một sự khiêu khích nào.
Nhưng trong một giây phút của thương yêu và tha thứ, một nhân cách từ ái được
tạo nắn trong ta, và tâm tánh ta sẽ được tăng trưởng thêm chút thiên hướng của
thương yêu. Vì vậy, thái độ phản ứng của ta đối với một kinh nghiệm nào,
bằng cơn giận hay lòng từ ái, không những chỉ ảnh hưởng đến chung quanh mà còn
dần dà nhồi nắn lại con người của chính ta nữa.
Chúng ta có thể nhìn thấy rõ sự
thật về chính mình qua những việc chúng ta làm. Chúng ta thừa hưởng karma của mình trong quá khứ, từ những giây phút
hiện hữu trước đó qua hình thái của một cái tôi – hay chính xác hơn là một nhóm
khuynh hướng – và cái quá khứ ấy sẽ định hướng và quyết định cho tác ý của ta
trong giây phút hiện tại. Và trong mỗi giây mỗi phút, chúng ta cũng đang
nắm giữ karma của tương lai trong tay mình, khi ta chọn lựa phản ứng đối với
những gì đang có mặt trong kinh nghiệm hiện tại. Phản ứng này của ta, có
thể là thiện hoặc bất thiện, sẽ quyết định cho những gì ta sẽ thọ lãnh về sau
trong dòng tâm thức của mình.
Và một yếu tố chủ yếu ảnh hưởng
đến sự tốt lành trong phản ứng của ta đối với bất cứ một hoàn cảnh nào, chính là
mức độ chánh niệm của ta trong giây phút ấy. Nếu chúng ta không có mặt,
những quyết định tiềm tàng trong vô thức sẽ hoạt động để giúp ta ứng phó với
những gì đang xảy ra, mặc dù chúng có thể sai trật, vì dựa trên lối hành xử của
quá khứ, hoặc do những phản ứng còn bị điều kiện. Và ngược lại, nếu chúng
ta biết mở rộng ra ý thức đang có mặt, bằng cách thực tập chánh niệm, ta sẽ làm
rộng lớn thêm phạm trù của những phản ứng của mình hơn. Mặc dù có thiên
hướng sân hận, nhưng chúng ta vẫn có thể chọn cho mình một lối hành xử từ ái.
Đây cũng là yếu tố giải thoát và tự do của ta giữa một cuộc sống còn bị điều
kiện rất nặng nề.
Vì thế cho nên, karma
không phải là một cái gì ở bên ngoài xảy đến cho ta, như người Tây phương thường
hay nghĩ. Thật ra nó là một cái gì rất gần gũi và, mặc dù tôi hơi ngại
phải dùng chữ này, nó rất là cá nhân. Như theo lời dạy của đức Phật,
“Chúng ta là chủ nhân của hành động của mình, là người thừa tự của hành động
mình; ta sanh ra từ hành động của mình, chúng là quyến thuộc, là nơi nương tựa
của ta. Chính hành động đã phân chia chúng ta ra làm bậc cao thượng hoặc
thấp hèn"
(Majjhima Nikaya 135) ▼
We are what we do.
By Andrew Olendzki
Nguyễn Duy Nhiên phỏng dịch