NGÔI CHÙA TÂM
LINH
Đặng Công
Hanh
“Gió
lay lắt bốn phương về dồn tụ
Bụi
thu mờ ai phủi với hai tay.”
(Bùi
Giáng)
Từ Thành phố Đà Nẵng đi về phía Bắc trên quốc lộ 1 (nay gọi là đường
Trường Chinh), vượt qua cổng xe lửa thường gọi là Ngã ba Huế cỡ một cây số, rẽ
bên phải theo đường Nguyễn như Hạnh một quãng dài độ ba trăm mét, và rẽ phía
trái theo đường bê tông. Đó chính là con đường dẫn đến khuôn viên toạ lạc của
Thiền Viện Bồ Đề, có ngôi Bảo tháp Vạn Phật thờ Xá lợi Phật cao ngất vừa được
khánh thành cuối năm 2009.
Theo lời kể lại của những người con Phật có thâm duyên với Hoà Thượng
Viện Chủ. Thầy cũng đã vượt qua muôn vàn khó khăn, trắc trở bắt nguồn từ những
uẩn khúc của biến động lịch sử, của một hoàn cảnh đất nước vừa trải qua mấy mươi
năm chiến tranh ác liệt. Cùng với bom đạn và lòng hận thù đã hoà điệu cùng nhau
cày xới tơi tả từng thước đất, từng tâm hồn, để lại nhiều thương tật trên thân
tâm khổ luỵ kiếp nhân sinh. Bối cảnh đó, hoàn cảnh đó, mỗi con người không còn
đủ sức để tự mở trói tâm hồn mình và trong đôi mắt thế nhân, họ vẫn nhìn nhau
như những người bị loạn sắc, không còn thấy màu xanh của hy vọng, màu hồng của
hứa hẹn, màu đỏ của đam mê mà chỉ thấy màu nhạt nhoà của e ngại, dè dặt và chỉ
thấy một màu đen của khổ.
"
Nhưng tôi phải khóc
Khi
những đôi mắt người
Đan
thành những lần phên mắt cáo"
(Nguyên
Sa)
Chuyện kể lại rằng, rất nhiều năm, sau năm 1975, Thầy Viện chủ cũng phải
lặn lội bôn ba đây đó, ba lần, bảy lượt, đi tìm nơi chốn xây dựng tự viện hay
xây dựng Chùa để làm nơi chốn tu hành và giác ngộ kẻ khác. Có lẽ do hoàn cảnh
lịch sử vừa chuyển mình đang mang trong lòng nó biết bao điều hư - thực, chân -
giả và do hoàn cảnh kinh tế eo hẹp nên chưa gặp được thuận duyên. Mãi rất lâu
sau, vào đầu những năm 90, Thầy mới quyết chọn được nơi
nầy.
Theo tập quán ngàn xưa của dân tộc, hầu hết các ngôi Chùa được dựng bên
núi, bên sông, trên đồi cao, mở hướng nhìn về một thảm xanh của ruộng vườn, của
biển hồ mênh mông hoặc trên một thắng cảnh du lịch, sầm uất về cỏ cây hoa
lá.
Không được thuận lợi với cảnh trí như thế, khu đất này không được to
rộng, nguyên là một khu vườn dân cư, trồng tạp chủng hoa màu, có độ nghiêng theo
trườn dốc, phần trên cao là đất tạp cát, phần dưới thấp là đất bùn. Phía tây nam
là vùng đầm lầy canh tác loại rau chịu nước, phía Tây bắc cũng vẫn như thế nhưng
lại tiếp giáp vùng đất cát hoang hoá có lẫn các mộ phần vô chủ chạy dài đến tận
vùng dân cư sống nghề chài lưới thô sơ và nhất là mang đậm tàng tích của nhiều
năm chiến tranh.
Những người thân cận với Thầy kể cả người địa phương, lấy làm ái ngại về
địa điểm này, sợ rằng mai sau khi xây dựng ngôi chùa hay tu viện thì đất đai khó
chiều lòng người. Đó là cái nhìn theo kinh nghiệm, kinh nghiệm của những tấm
lòng một đời chật vật áo cơm không thể nhìn xa hơn luống cày, bó rau, mãi mãi
đối phó với mưa dầm, nắng quái, quen với cái mong manh không hạn định của đời
sống thị dân, vùng ven nghèo khó.
Thế nhưng, đất đai đâu chỉ phải nuôi dưỡng cây xanh lá tốt, đất còn tượng
trưng cho sự an nhiên bất động của Bồ-tát, đồng thời ẩn mật chứa bao điều sâu
kín. Có một ngài Bồ-tát an nhẩn bất động như đại địa, sâu xa kín đáo như kho
tàng bí mật. Vị ấy có danh hiệu Địa Tạng đã phát nguyên:
"Bao
giờ địa ngục trống không, chúng sinh độ hết.
Tôi mới thành Phật
quả."
Trong một cách nhìn khác hơn, vượt qua định kiến hình thành từ nhận thức
thường nghiệm, giới hạn các quan năng - để tiến tới những giá trị tâm linh phổ
quát. Đó là cái nhìn của đôi mắt Từ. Cùng với bản hoài của tu sĩ, sống đời ly
dục, lần theo bước chân của đức Phật, thể hiện lý tưởng Bồ - tát, thật dản dị,
nhẹ nhàng không hề bị câu thúc trong một ước lệ nào cả. Thiên đường hay địa ngục
cũng thế thôi. Chỉ có làm hay không làm, không có vấn đề muốn làm hay không muốn
làm. Cho nên hạnh của Bồ Tát là không có hạnh nào nhưng là muôn
hạnh.
Trên con đường lý tưởng đó, hành giả làm Thiện mà không nghĩ đến kết quả
- không nghĩ đến hậu quả. Ở mức độ như vậy có thể nói thực hiện Bồ - tát hạnh
không phải là "hành nhân nghĩa" mà là "nhân nghĩa hành".
Người tu sĩ dốc hết tâm lực để làm Thiện, để hộ niệm chúng sinh nhưng vẫn
luôn luôn thấy rõ thành bại, được mất, thăng trầm có chăng cũng chỉ là "hạt
sương trên đầu ngọn cỏ".
"Ta
đã hái nhành hoa kia của đá
Và
đã trao cho nham thạch phiêu bồng."
(Bùi
Giáng)
Kết điểm của con đường lý tưởng đó là giải thoát, là Niết bàn, nhưng
không phải chỉ nghĩ với giải thoát riêng cho mình, nhưng cũng không thể tuyệt
đối quên mình để chỉ nghĩ giải thoát tha nhân. Cả hai nguyện ước như vậy đều rơi
vào cực đoan và chấp kiến. Khi tâm thức còn hướng về giải thoát là chưa thể giải
thoát, còn hướng về Niết - bàn là không bao giờ "đi đến" Niết - bàn. Do vậy chỉ
còn cách thực chứng Niết- bàn ngay tại trần gian bằng ý thức tự giác và giác
tha. Đó là con đường Bồ - tát, con đường Tịnh độ, con đường làm Thiện. Chính vì
thế mà sự thể hiện con đường Bồ-tát không những chỉ đặt tương quan giữa người và
người mà phải nhìn vào tận sâu thẳm thực thể của chính mình và vào trong tất cả.
Có thể nói lý tưởng đó đặt mọi tương quan trên nền tảng "tính Không". Phật dạy
Bồ - tát khi phát tâm Bồ đề Vô thượng thì nên buông bỏ tất cả khái niệm ngã -
nhân - chúng sinh - thọ giả, không nên dựa vào sắc mà phát tâm, không dựa vào
thanh, hương, vị, xúc và pháp mà phát tâm, chỉ nên phát tâm vô
trụ.
Nhận thức của Bồ-tát không đóng khung trong những phạm trù tri thức, của
nhân quả, phải vượt qua những giới hạn của không gian và thời gian. Lý tưởng đó
bao hàm một mảnh lực phi thường và vĩ đại.
Thời gian không còn giới hạn bởi hai đầu sinh - từ của một đời mà chạy
dài đến vô tận trong muôn ngàn kiếp, cả thập phương thế giới. Hành động nhưng
không đắm chấp, không bị câu thúc bằng kết quả, vượt lên mọi phê phán, mọi thị
phi của thế gian, nhưng vẫn lăn trầm trong kiếp đoạ đầy nhân
sinh.
Bồ-tát không mang một mẫu người siêu việt nào cả, chỉ là một con người
thế tục nhưng hành động với một tinh thần siêu ngoại, một lý tưởng phi thường,
và một tâm Bồ Đề, ngoại trừ các phẩm hạnh đó chẳng có gì xa lạ với phàm phu tục
tử nơi chốn trần gian.
“Có,
không bóng nguyệt lòng sông
Ai
hay không có, có không là gì?”
Đã qua đi bao nhiêu năm tháng, bao nhiêu thăng trầm trôi nổi trên dòng
đời, kiếp phù sinh thực như hình, như ảnh. Thầy Viện chủ một mặt bắt tay xây
dựng nơi tu hành, hướng dẫn các Tăng sĩ trẻ và hoá đạo chúng sinh trên cái đơn
sơ vô cùng tận của phương tiện: có duy nhất một căn nhà nhỏ bằng gạch, lợp tôn,
các tường bao quanh chưa được tô trát. Mặt khác lo tổ chức sản xuất hoa màu phục
vụ cho đời sống thường nhật, đi núi đốn củi để làm chất đốt. Trong tình hình đó
các Tăng sĩ vẫn phải tiếp tục đi học phổ thông, một số ít được đi học Đại học ở
xa và hiện nay Thầy Viện chủ đang gửi đi học ở nước ngoài.
Lúc bấy giờ là vào nhưng năm đầu của năm 90, hình ảnh của Thiền Viện chỉ
tồn tại trong tâm thức mọi người như một ngôi chùa vô tướng.
Ngôi chùa vô tướng, thực sự thành tựu trang nghiêm bằng chất liệu công
đức, bằng chất liệu trí tuệ và đạo đức. Từ góc độ đó, trên lộ trình tu tập bỏ
cái hữu tướng để cầu cái vô tướng, bỏ cái phương tiện cầu cái chân thật; và ngay
nơi chốn trú thân cũng chỉ là quán trọ tạm dừng chân trên con đường hành Bồ-tát
đạo còn dài xa. Hành giả xuất gia học đạo, thực hiện một đời sống ly dục không
cần ăn ngon, mặt đẹp, ở chùa tráng lệ uy nghi. Xuất gia để cầu cho được ngôi
chùa tâm linh và quả Vô thượng Bồ Đề làm biểu tượng mô phạm cho Tăng chúng hướng
tâm tu học, nương theo thanh tịnh giải thoát, không cầu vật chất ở trần gian như
lời Phật dạy trong kinh Kim Cương.
"Tất cả pháp hữu vi
Như bào mộng, như huyền thuật, như bọt nước
Như sương mai, như tia chớp
Cần phải quán như vậy"
Những năm sau này, đất nước đứng trước vận hội mới, nền kinh tế đã phát
triển nhanh, đời sống nhân dân đã vượt qua những thời kỳ đen tối của nền kinh tế
bao cấp.
Thế giới bắt đầu phẳng dần, nội lực của nền văn hoá không đủ sức chống đỡ
các độc tố của nền kinh tế thị trường có nguồn gốc từ các nước phát triển Âu -
Mỹ. Xã hội đang rơi vào khủng hoảng về giá trị đạo đức. Có nhiều nguyên nhân,
trong đó có nguyên nhân xã hội chưa tạo được nền tảng đạo đức văn hoá vững vàng
khả dĩ cân bằng với sự phát triển kinh tế, hậu quả dẫn đến xem trọng đời sống
hưởng thụ thậm chí là cứu cánh của đời người. Cũng vì thế mà hai khung cửa chật
hẹp nhất của thành trì đạo đức xã hội sau cùng là giáo dục và y tế cũng đã bị
chọc thủng để cho các bóng đen tiêu cực len lỏi chiếm cứ: đạo đức y tế và đạo
đức giáo dục đã dao động theo hướng xa dần truyền thống của
nó.
Sự hỗ thẹn là một phẩm hạnh then chốt trong việc hoàn thiện nhân cách đạo
đức và phát triển đời sống tâm linh đã trở nên chai lì, đã trở thành sỏi đá, và
đôi khi trở nên xa lạ đối với đời sống nhiễm nặng lối sống tiêu thụ, lối sống
ích kỷ của chủ nghĩa cá nhân. Nguy hiểm hơn nữa, sự thiếu vắng của hỗ thẹn làm
cho con người xem thường quy luật nhân quả, không thành tâm sám hối những lỗi
lầm sai trái do mình gây ra - mà chỉ biết tìm mọi cách trăm phương nghìn kế qua
mặt được pháp luật. Thiện, ác chỉ là khái niệm đầu môi chót
lưỡi.
Sự hiện diện của tôn giáo trong xã hội là điều cần thiết trong việc xây
dựng một xã hội tốt đẹp, góp phần tạo nên một sự cân bằng giữa đời sống vật chất
và đời sống tinh thần. Một xã hội tốt theo Phật giáo là một xã hội nơi đó những
yếu tố văn hoá và đạo đức được đề cao và tôn trọng, giảm thiểu tối đa những yếu
tố gây đau khổ cho thân - tâm, phát triển trí tuệ, nhận ra bản chất thực của con
người và cuộc đời để vượt qua những nghiệp chướng cá nhân và xã hội, với những
nội dung chuẩn mực: lòng từ bi, bình đẳng, bao dung, tương ái trong tinh thần
trách nhiệm. Trong kinh Đại Niết Bàn, Ngài có đề cập đến sự hiện diện của Tăng
sĩ trong cộng đồng, xem như một yếu tố không thể thiếu vắng. Dù tin hay không
tin, Phật giáo là tuỳ vào căn cơ của mỗi cá nhân, thế nhưng, các phương pháp
chuyển hoá con người trong hệ thống giáo lý của Ngài vô cùng phong phú; và rằng
sự phát triển đạo đức không chỉ là tuân thủ các quy phạm của xã hội bên ngoài mà
phải phát triển sự nhận thức về đạo đức và tu chính tâm thức từ bên trong của
mỗi cá nhân. Những giá trị đạo đức phải luôn luôn được nuôi dưỡng và phát triển
trong suốt cuộc đời con người, thế nên sự hiện diện thường xuyên của tôn giáo
trong cộng đồng xã hội là vô cùng trọng yếu.
Và chính lúc này, ngôi Chùa vô tướng phải chuyển thành hữu tướng bên
ngoài là điều rất cần trong cộng đồng xã hội cho các tín đồ qui ngưỡng gieo
trồng căn lành và vì cái hình thức, cái cảnh quan đặc biệt của Chùa không có
cảnh quan nào so sánh được. Cảnh Chùa nâng cao tình cảm đối với thiên nhiên, có
sự tĩnh lặng chìm trong âm vực thâm trầm uyên áo của tiếng chuông, câu kinh,
thức tỉnh lòng người tìm về những điều sâu kín thể hiện triết lý Thiền cao siêu
đến độ khó hiểu bằng tư duy thường nghiệm của con người mà đức Phật đã chiêm
nghiệm và để lại cho thế gian trong kho tàng kinh sách đồ sộ đã mấy ngàn
năm.
Cảm tác bài này vào những ngày cuối thu, thời tiết đã chuyển dần sang
đông, không còn thấy bụi thu mờ, thấy mùa thu xoả tóc trắng, thấy mảnh trăng non
treo trên ngọn bảo tháp của Thiền Viện. Buổi chiều xuống thật nhanh, dưới tàng
lá bồ đề, tôi duyên cảm được một sự an bình kỳ lạ, một khí sắc vương giả, một
niềm hân hoan và tràn đầy những cảm kích vô hạn. Tôi đến chiêm bái trước các vị
Phật, Bồ- tát: Di Lặc, Quan Thế Âm, Địa Tạng và Phật Thích ca một vị đại sư chịu
ứng thân người, cũng gánh chịu thân phận sinh, lão, bệnh, tử, thông qua cái hình
hài để chỉ dạy cho con người phương pháp giải thoát khỏi vòng sinh tử. Ngài đã
thể hiện trước nhất con đường Bồ-tát đạo, cứu cánh của Đại thừa Phật giáo sau
này.
Cũng như những người con Phật, tôi thường viếng cảnh chùa trong các ngày
lễ Phật, hay những lúc rảnh rỗi sau giờ căng thẳng đầu óc với các tư duy lạnh
lẽo, khô khan của Toán học hoặc các trang kinh kệ sâu thẳm những ẩn nghĩa siêu
trần của Đạo Phật. Vẫn còn đó, chánh điện làm Đạo Tràng giảng pháp hướng dẫn tu
tập đại chúng, ngôi nhà khách, tất cả đều đơn sơ, giản dị và cũ kĩ. Ngôi Bảo
tháp có thờ Xá lợi và vạn Phật, uy nghiêm lạnh lẽo đơn độc vươn cao ngất ngưỡng
trên vòm trời lộng gió. Bên cạnh chùa, đang có thợ chuyên nghiệp từ Huế đúc xong
bốn tượng Phật bằng đồng rất đẹp có chiều cao hơn ba mét. Phía trước chùa đang
được san lấp đất thêm trên các vùng đất sâu. Trong phòng khách có treo mô hình
chùa sắp xây trong một ngày thuận lợi. Tất cả đều mang sâu nặng tâm đại nguyện
của Thầy viện chủ và các Tăng sĩ trong nhà Chùa. Từng lối đi, từng mô đất gia
cố, từng chậu hoa, từng tàng lá cây trong vườn Chùa đều ướt đẫm mồ hôi, ướt đẫm
tâm nguyện nhưng hiện xanh màu thành tựu của nhiều năm tháng miệt mài gian khổ
rèn luyện Chánh Pháp.
Tôi thầm cảm ơn duyên lành đã đưa đẩy đến nơi chốn linh thiêng nầy, với
một niềm hoài vọng tràn ngập trong tâm.
“Trời
viễn mộng đọa đày đi mấy thuở
Mộng
kiêu hùng hay muối mặn giữa mù khơi.”
(Tuệ
- Sỹ)
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
1.
Chùa
cổ Việt Nam: NXB Thanh Niên - 2006
2.
Bồ
Tát đạo Tập I, II: Minh Đức - Thanh Lương. NXB Thành phố Hồ Chí Minh,
1999.
3.
Đặng
Công Hanh: Phòng NCKH Đại học Kiến trúc. Khoa Toán Đại học Bách
Khoa.