Học và ứng dụng giới luật Phật giáo trong đời sống tu tập
hoc và ung dung
Học và ứng dụng giới luật Phật giáo trong
đời sống tu tập
Thích Hạnh
Chơn
Đức Phật
chế giới luật là nhằm giúp cho cá nhân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni tu tập thanh tịnh
thân tâm hướng đến Thánh quả và giúp tập thể Tăng sống đoàn kết hòa hợp như nước
với sữa. Giới luật là thiện pháp, là phép tắc, là điều học mà các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni
phải thực hành để cho Phật pháp thường còn và hưng thịnh. Để thực hành đúng thì
không thể không học giới luật. Giới luật thì nhiều và không phải bắt buộc ứng dụng
toàn bộ và đồng bộ cho tất cả cộng đồng Tăng nên cần phải biết cách học để hiểu
và thực hành trong đời sống thực tiễn mỗi nơi. Trong bài biết đăng trên Nguyệt
san Giác Ngộ số 331, chúng tôi đã
trình bày khái niệm giới luật trong Phật giáo và các điều học dành cho Sa-di
trong 2 truyền thống Nam và Bắc truyền. Bài viết này sẽ trình bày về việc học
và ứng dụng giới luật dành cho Tỳ-kheo trong thời đại ngày nay. Bài viết trình
bày tổng quát giới luật của Tỳ-kheo và phân tích các vấn đề được Đức Phật dạy
cách đây 25 thế kỷ tại xứ Ấn Độ. Từ đó, chúng tôi xin đưa ra những điều thực
hành mang tính tôn kính và những điều cần thiết phải thực hành để Tăng đoàn hòa
hợp, Phật pháp thường còn.
Sơ lược bộ luật Tứ phần
Phật
giáo Bắc truyền Việt Nam sử dụng bộ luật Tứ
phần
nên bài viết sẽ sơ lược nội dung trong bộ luật này và dùng bộ luật Pāli Nam
truyền đối chiếu một số điểm cần thiết.
Bộ luật
Tứ phần có 4 phần.
Phần I
trình bày nội dung 250 điều học của Tỳ-kheo gồm có 8 chương: chương 1 Ba-la-di
(parajika) có 4 điều; chương 2 Tăng-tàn
(sanghadisesa) có 13 điều; chương 3 Bất
định (amiyata) có 2 điều; chương 4 Xả
đọa (nissggiya pacittiya) có 30 điều;
chương 5 Đơn đọa (pacittiya) có 90 điều;
chương 6 Hướng bỉ hối (patidesaniya)
có 4 điều; chương 7 Chúng học (sekkhiya)
có 100 điều; và chương 8 Diệt tránh (adhikarana
samatha) có 7 điều.
Phần II
trình bày 348 điều học của Tỳ-kheo-ni gồm có 5 chương: chương 1 Ba-la-di (parajika) có 8 điều; chương 2 Tăng-tàn (sanghadisesa) có 17 điều; chương 3 Xả đọa
(nissggiya pacittiya) có 30 điều;
chương 4 Đơn đọa (pacittiya) có 178
điều; chương 5 Hướng bỉ hối (patidesaniya)
có 8 điều. Còn lại 100 Pháp chúng học và 7 Pháp dứt sự tranh cãi dùng chung với
điều học của Tỳ-kheo nên trong bản luật không thấy ghi thêm.
Phần III
trình bày các vấn đề sinh hoạt của Tăng đoàn có 18 chương: chương 1 Thọ giới;
chương 2 Thuyết giới; chương 3 An cư; chương 4 Tự tứ; chương 5 Da thuộc; chương
6 Y; chương 7 Thuốc; chương 8 Y
Ca-thi-na; chương 9 Câu-thiểm-di; chương 10 Chiêm-ba; chương 11 Khiển trách; chương
12 Người; chương 13 Phú tàng; chương 14 Già Yết-ma; chương 15 Phá Tăng; chương
16 Diệt tránh; chương 17 Tỳ-kheo-ni; chương 18 Pháp.
Phần IV
trình bày tiếp theo các vấn đề sinh hoạt của Tăng, hai kỳ kết tập, nói thêm về
4 điều Ba-la-di và 6 điều học Tăng-tàn, và tóm tắt lại các điều học theo pháp số
từ 1 đến hơn 11. Phần này có 6 chương: chương 1 Phòng xá; chương 2 Tạp sự; chương
3 Ngũ bách kết tập; chương 4 Thất bách kết tập; chương 5 Điều bộ; chương 6 Tỳ-ni
tăng nhất.
Bộ luật Pāli có 3 phần.
Phần I Luật giải (Sutta
vibhanga) trình bày nội dung điều học của Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni, được chia
làm hai phẩm là Đại giải (Maha vibhanga)
và Tỳ-kheo-ni giải hay Phân tích (Bhikkuni
vibhanga).
Phần II trình bày các vấn đề sinh hoạt của Tăng, được chia
làm hai phẩm là Đại phẩm (Maha vagga)
và Tiểu phẩm (Culla vagga). Đại phẩm
có 10 chương: chương 1 Trọng yếu (Mahakhandhakam);
chương 2 Lễ Uposatha (Uposathakkhandhakam);
chương 3 Vào mùa mưa (Vassupanayikakkhandhakam);
chương 4 Lễ Pavarana (Pavaranakkhandhakam);
chương 5 Da thú (Cammakkhandhakam);
chương 6 Dược phẩm (Bhesajjakkhandhakam);
chương 7 Kathina (Kathinakkhandhakam);
chương 8 Y phục (Civarakkhandhakam);
chương 9 Campa (Campeyyakkhandhakam);
chương 10 Kosambi (Kosambi kkhandhakam).
Tiểu phẩm có 12 chương: chương 11 Hành sự (Kammakkhandhakam);
chương 12 Parivasa (Parivasakkhandhakam);
chương 13 Tích lũy tội (Samuccayakkhandhakam);
chương 14 Dàn xếp (Samathakkhandhakam);
chương 15 Các tiểu sự (Khuddakavatthukkhandhakam);
chương 16 Sàng tọa (Senasanakkhandhakam);
chương 17 Chia rẽ hội chúng (Sanghabhedakkhandhakam);
chương 18 Phận sự (Vattakkhandhakam);
chương 19 Đình chỉ giới bổn Patimokkha (Patimokkhatthapanakkhandhakam);
chương 20 Tỳ-kheo-ni (Bhikkhunikkhandhakam);
chương 21 Liên quan năm trăm vị (Pancasatikakkhandhakam);
chương 22 Liên quan bảy trăm vị (Sattasatikkhandhakam).
Phần III
Tập yếu (Parivara) phân tích giới và
luật theo các tiêu đề và trình bày dưới dạng vấn đáp theo quan điểm khác nhau.
Qua các
phần của 2 bộ luật, chúng ta thấy phần I của luật Tứ phần tương đương Đại giải thuộc phần I của bộ luật Pāli. Phần II
của luật Tứ phần tương đương Tỳ-kheo-ni
giải hay Phân tích thuộc phần I của bộ luật Pāli. Phần III và hai chương phần IV
của luật Tứ phần tương đương 20
chương phần II của bộ luật Pāli. Phần IV còn lại của luật Tứ phần tương đương chương 21, 22 của phần II và phần III của bộ luật
Pāli.
Phân tích sơ lược nội dung các chương
của luật Tứ phần
Bài viết
giới hạn giới luật Tỳ-kheo nên sẽ trình bày tổng quát phần I, phần III và một
phần của phần IV thuộc luật Tứ phần.
- Giới thiệu tổng quát 250 giới Tỳ-kheo trong phần I
Như đã
trình bày ở phần I, giới luật Tỳ-kheo được phân làm 8 chương. Khi áp dụng để xử
lý các Tỳ-kheo vi phạm thì các luật sư đã phân chia thành ngũ thiên (5 phần/chương)
và thất tụ (7 loại/nhóm).
Ngũ
thiên gồm thiên Ba-la-di (chương 1), thiên Tăng-tàn (chương 2), thiên Ba-dật-đề
(xả đọa và đọa) (chương 4 và 5), thiên Hướng bỉ hối (Đề-xá-ni) (chương 6), và
thiên Đột-cát-la bao gồm lỗi thuộc chương 7 Chúng học và chương 8 Diệt tránh.
Chương 3 Bất định rơi vào tội thuộc chương 1, 2, 4 hay 5.
Thất tụ
gồm có Ba-la-di, Tăng-tàn, Thâu-lan-giá, Ba-dật-đề (đọa và xả đọa), Hướng bỉ hối
(Đề-xá-ni), Ác tác (Đột-cát-la) và Ác thuyết (Đột-cát-la).
Qua nội
dung thiên và tụ, chúng ta có thể phân thành 5 nhóm là Ba-la-di, Tăng-tàn, Xả đọa,
Đơn đọa, và Đột-cát-la (ác tác và ác thuyết tức lỗi nhỏ do hành động hay lời
nói tạo ra). Thâu-lan-giá là trường hợp chưa đủ điều kiện cấu thành tội như
phân định các nhóm ở trên nên có thể xem như tình tiết giảm nhẹ trong mỗi nhóm
tội vi phạm. Ví dụ, Tỳ-kheo phạm giới điều thuộc nhóm Tăng-tàn nhưng chưa đủ điều
kiện cấu thành tội Tăng-tàn nên gọi Thâu-lan-giá Tăng-tàn và được xử trị nhẹ
hơn là phạm Tăng-tàn.
Chương 1: Ba-la-di
Ba-la-di
(Parajika) là điều giới/học nặng có
nghĩa là thất bại, thua cuộc, mất tư cách là thành viên của Tăng đoàn. Có 4 giới
gồm hành dâm, trộm cắp, giết người và nói dối chứng Thánh vì lợi dưỡng trừ tăng
thượng mạn.
Trong đó, giới trộm cắp phải dựa vào tài vật có giá trị lớn và bị bắt ở tù. Trong
bốn giới, ba giới sau nếu phạm giới thì đồng thời tạo nghiệp ác, còn giới đầu nếu
phạm giới thì có thể tạo hay chưa tạo nghiệp ác tùy trường hợp cụ thể. Đây là vấn
đề cần phân định rõ.
Chương 2: Tăng tàn
Tăng-tàn
(Sanghadisesa) là điều giới/học nặng nhưng chưa mất
hoàn toàn tư cách thành viên Tăng đoàn và buộc phải sám hối trước đại Tăng gồm
20 vị. Có 13 điều học gồm 9 điều liên hệ đến cá nhân và 4 điều liên hệ đến tập
thể hay Tăng. Đó là điều học thủ dâm, xúc chạm người nữ với ý dâm, nói lời dâm
dục với người nữ, thuyết phục người nữ quan hệ tình dục, làm mai mối, làm phòng
quá quy định và Tăng không chỉ chỗ, làm chùa lớn và Tăng không chỉ chỗ, vu khống
Tỳ-kheo phạm Ba-la-di không có căn cứ, đem lỗi nhỏ không liên quan vu khống Tỳ-kheo
phạm Ba-la-di, không bỏ ý định phá hòa hợp Tăng, lập nhóm phá hòa hợp Tăng, làm
điều xấu ảnh hưởng uy tín của Tăng, và ngoan cố không bỏ tính xấu.
Trong
13 điều, các Tỳ-kheo có thể vi phạm các điều 1, 2, 3, 4, 5, 8, 9, 10, 11, 12,
13 và có thể bị xử lý theo luật. Hai điều 6, 7 khó áp dụng cho thời đại ngày
nay vì không có quy định diện tích cụ thể và nhân sự (Tăng Ni) có thẩm quyền để
tư vấn. Vai trò của Giáo hội trong công tác quản lý xây dựng tự viện, cốc thất…
chưa phát huy hiệu quả. Vấn đề tập hợp đủ 20 vị Tỳ-kheo thanh tịnh để xử phạt
các vị vi phạm 1 trong 13 điều thuộc phần này là một thử thách lớn cho Tăng
đoàn ngày nay.
Chương 3: Bất
định
Bất định
là tội chưa định cụ thể và phải chờ xem xét từ nhân chứng hay chính bản thân
người phạm thừa nhận và nó có thể nặng hay nhẹ thuộc tội của các chương khác đã
có quy định xử lý. Ví dụ, nếu phạm tội nặng thì thuộc chương 1 Ba-la-di và bị xử
phạt theo quy định thuộc tội này.
Chương 4: Xả đọa
Xả đọa
(Nissggiya pacittiya) là điều giới nhẹ
và khi vi phạm thì vị Tỳ-kheo xả vật và sám hối. Trong 30 điều, chúng ta có thể
phân làm 7 loại như sau:
Về y phục,
có 16 điều gồm 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 23, 24, 25, 27, 28 và 29. Đó là
chứa y nhiều, rời y mà ngủ, chứa vải một tháng, lấy y không phải của Tỳ-kheo-ni
bà con, khiến Tỳ-kheo-ni không phải bà con giặt nhuộm, theo cư sĩ không phải bà
con xin y, nhận nhiều y, xin thêm tiền may y tốt, khuyên góp tiền lại may y tốt,
đòi y quá 6 lần, khiến thợ dệt không phải bà con dệt y, khuyên dệt y tốt đẹp,
cho y sau giật lấy lại, cầu áo tắm mưa sớm và dùng sớm, chứa nhiều y cúng gấp
(thí chủ cúng gấp để đi xa), tháng Ca-đề rời y quá 6 đêm.
Về bát
có hai điều 21 và 22 là chứa bát dư và cầu bát mới khi bát cũ còn dùng được.
Về ngọa
tọa cụ (vật dùng nằm ngồi) có 5 điều là 11, 12, 13, 14 và 15. Đó là may ngọa cụ
bằng gai tơ lụa, may ngọa cụ bằng lông dê rặc đen, may ngọa cụ không lẫn màu,
dùng ngọa cụ chưa đủ 6 năm, may tọa cụ không có miếng vải cũ.
Về lông
dê có 2 điều 16 và 17 là mang lông dê quá ba do tuần và nhờ Ni không phải bà
con nhuộm lông dê.
Về vàng
bạc có 3 điều 18, 19 và 20. Đó là cầm giữ vàng bạc, kinh doanh của báu, và mua
bán của báu.
Về Tăng
vật có điều 30 là đem của Tăng về mình.
Phân
tích 30 điều học, chúng ta thấy nội dung liên quan đến sinh hoạt của Tỳ-kheo
như ăn, mặc, ngủ nghỉ và tài sản. Trong đó, ăn liên quan đến bát; mặc liên quan
đến y phục, lông dê; ngủ nghỉ liên quan đến ngọa, tọa cụ; và tài sản liên quan
đến vàng bạc, Tăng vật. Các điều giới được nêu trên đều có nguyên nhân là khi Tỳ-kheo
làm hay vướng vào thì bị người đời chê cười nên Phật chế giới để trang nghiêm
Tăng đoàn và tạo niềm tin cho tín đồ.
Ngày
nay, vấn đề y phục đã thay đổi theo xu hướng là đồng phục, pháp phục được quy định
trong Hiến chương, Nội quy. Tuy nhiên, Tăng đoàn cũng hiếm khi xử lý Tỳ-kheo vi
phạm về y phục mà hầu như các Tỳ-kheo tự ý thức sử dụng y phục sao cho thích hợp,
không ảnh hưởng đến đời sống tu tập bản thân và tập thể.
Thời Phật,
ba y là cái quần hay tấm vải quấn dưới như sarong, cái áo và tấm y khoác ngoài.
Vì Tỳ-kheo chỉ có 3 y nên nếu rời y ngủ thì dễ để lộ thân hình, nếu không mang
y theo thì sẽ thiếu y để mặc nên mất oai nghi. Do đó, có điều học không rời y
ngủ với ý nghĩa giữ oai nghi cho Tỳ kheo.
Ngày
nay, không ai có thể sống chỉ có 3 cái y như Phật dạy. Hơn nữa, hầu như Tỳ-kheo
ngủ trong phòng kín đáo nên không có cư sĩ nào nhìn lén vô mà thấy. Khi đi ra
ngoài, lúc nào Tỳ-kheo tối thiểu cũng đủ bộ đồ nên không đến nổi mất oai nghi,
trừ khi hành lễ cần pháp phục.
Áo tắm
mưa cũng là vấn đề thời Đức Phật. Vì duyên cớ là các Tỳ-kheo không mặc đồ khi tắm
ngoài trời mưa để cư sĩ nhìn thấy thân hình trần truồng. Nhân đó, cư sĩ phát
tâm cúng dường áo tắm mưa.
Ngày
nay, hiếm có Tỳ-kheo tắm mưa. Nếu tắm mưa, Tỳ-kheo cũng đâu có thiếu áo mặc nên
đâu cần áo tắm mưa. Nếu Tỳ-kheo tắm sông hay tắm biển thì vị ấy có thể mua sắm
đồ phù hợp mà sử dụng.
Các vấn
đề khác như bát, ngọa cụ, lông dê thì không Tỳ-kheo nào vi phạm và bị xử phạt
vì các Tỳ-kheo đã dùng các vật khác thay thế.
Sử dụng
vàng, bạc, tài sản là điều bình thường trong xã hội ngày nay và các Tỳ-kheo
không thể sinh hoạt nếu không có chúng.
Chỉ còn
điều 30 tương đương với trộm cắp nên không được vi phạm dù thời nào và ở đâu.
Tóm lại,
nội dung của các điều học thuộc nhóm Xả đọa
nhằm xây dựng lối sống “thiểu dục tri túc” cho các Tỳ-kheo để tránh sự phân hóa
về vật chất trong Tăng.
Chương 5: Đơn đọa
Đơn đọa
(pacittiya) là điều giới nhẹ và khi
vi phạm thì vị Tỳ-kheo sám hối. Trong 90 điều, chúng ta có thể phân làm các loại
như sau:
Về lời
nói có 20 điều 1, 2, 3, 6, 7, 8, 9, 12, 13, 54, 55, 63, 64, 65, 66, 74, 75, 76,
77, 80. Đó là cố ý nói dối, chê bai mắng nhiếc, nói lời chia rẽ, tụng kinh
chung với người chưa thọ Cụ túc giới, đem lỗi nhỏ của Tỳ-kheo nói cho người
chưa thọ giới Cụ túc, nói dối đã chứng Thánh quả với người chưa thọ Cụ túc, nói
pháp cho người nữ quá năm sáu lời, cố ý nói quanh co làm phiền người, nói xấu tri
sự, không nghe lời khuyên, dọa cho các Tỳ-kheo khác sợ, cố ý gây bất an cho người,
che giấu tội thô ác của Tỳ-kheo khác, cho người chưa đủ tuổi thọ Cụ túc giới, khơi
lại việc đã được giải quyết, phủ nhận yết-ma, không gửi dục, gửi dục sau ăn
năn, nghe lén sự tranh cãi truyền nói người khác, và vu khống Tỳ-kheo.
Trong
20 điều, chỉ có điều 6 là khó tuân theo vì Phật tử về chùa tụng kinh chung với
Tăng Ni.
Về ngủ
nghỉ có 9 điều 4, 5, 14, 15, 16, 17, 18, 20, 84. Đó là ngủ chung nhà với người
nữ, ngủ chung nhà với người chưa thọ đại giới, không cất vật dụng nằm ngồi, trải
ngọa cụ không cất, chiếm đoạt chỗ ngủ, đuổi Tỳ-kheo ra khỏi phòng, ngồi giường
sút chân, lợp nhà quá ba lớp, và làm giường quá lượng.
Trong 9
điều, hai điều 18 và 20 là hiếm xảy ra trong thực tế.
Liên
quan đến Ni có 9 điều là 21, 22, 23, 24, 25, 26, 27, 28 và 29. Đó là giáo thọ Ni
không được Tăng sai, giáo thọ Ni đến chiều tối, nói xấu Tỳ-kheo giáo thọ Ni,
cho y Tỳ-kheo-ni không phải bà con, may y cho Tỳ-kheo-ni không phải bà con, ngồi
riêng với Ni ở chỗ khuất, hẹn cùng đi một đường với Ni, đi chung thuyền với Ni,
nhờ Ni khen ngợi mà được thức ăn.
Trong 9
điều, các điều 21, 22, 23, 24, 25, 29 ít xảy ra trong thực tế.
Liên
quan đến người nữ có 3 điều 30, 44, và 45 là đi chung đường với người nữ, ngồi
với người nữ ở chỗ khuất trong nhà cư sĩ, và một mình ngồi với người nữ tại chỗ
trống.
Về ăn uống
có 18 điều là 19, 31, 32, 33, 34, 35, 36, 37, 38, 39, 40, 41, 42, 43, 46, 47, 51
và 62. Đó là thọ cúng quá một bữa ăn, ăn nhiều lần, ăn riêng với chúng, thọ thỉnh
quá ba bát, không làm phép dư thực, khiến cho Tỳ-kheo phạm dư thực, ăn phi thời,
ăn thức ăn cách đêm, không thỉnh mà thọ thức ăn, không bệnh đòi thức ăn ngon,
cho ngoại đạo thức ăn, thọ thỉnh mà đến trễ, ăn xong không về làm phiền gia chủ,
cố làm cho Tỳ-kheo không được thức ăn, thọ thuốc quá mức, uống rượu và uống nước
có trùng.
Các điều
về ăn uống trong Phật giáo Bắc truyền thường không là vấn đề lớn để xử phạt, trừ
điều 51.
Về oai
nghi có 9 điều gồm 48, 49, 50, 52, 53, 56, 57, 78, 79. Đó là đi xem quân trận, ở
trong quân trại quá ba đêm, xem quân đội tập trận, đùa giỡn trong nước, thọc
lét nhau, tắm rửa quá hạn định, đốt lửa chỗ đất trống, giận đánh Tỳ-kheo, dọa
đánh Tỳ-kheo.
Trong 9
điều, trừ 2 điều 78 và 79, hiếm có Tỳ-kheo vi phạm 7 điều còn lại và bị xử phạt.
Về vật
dụng, y có 9 điều 58, 59, 60, 85, 86, 87, 88, 89, 90. Đó là giấu đồ của Tỳ-kheo,
cho y lấy lại mặc không nói với chủ, không mặc y hoại sắc, dồn bông làm chăn nệm,
làm ống đựng kim bằng nanh, may tọa cụ lớn hơn quy định, may y che ghẻ lớn hơn
quy định, may y tắm mưa lớn hơn quy định, may y bằng kích thước y của Phật.
Trong 9
điều, trừ 2 điều 58 và 59, hiếm có Tỳ-kheo nào vi phạm 7 điều còn lại và bị xử
phạt.
Về các
vấn đề khác có 13 điều 10, 11, 61, 67, 68, 69, 70, 71, 72, 73, 81, 82, 83. Đó
là đào đất, phá hoại mầm sống, giết hại chúng sinh, đi chung đường với giặc cướp,
không bỏ ác kiến, làm bè đảng với người ác kiến không bỏ, nuôi chứa Sa-di ác kiến
không bỏ, nghịch lời can gián cật vấn các Tỳ-kheo, chê bai giới luật, nói trớ
không biết, vào cung vua, cầm nắm của báu, và vào xóm làng phi thời.
Trong
13 điều, điều 10, 82 là khó tuân theo, còn điều 81 khó xảy ra.
Theo
thiển ý, khoảng 40 trong 90 điều là học để biết văn hóa xưa và có thể đối chiếu
thay thế trong hoàn cảnh văn hóa cụ thể, còn lại khoảng 50 điều vẫn còn nguyên
giá trị ứng dụng giúp cho tư cách Tỳ-kheo được hoàn thiện hơn.
Chương 6: Hướng bỉ hối
Hướng bỉ
hối (patidesaniya) là điều giới nhẹ liên
quan đến ăn uống và chỉ cần sám hối như xin lỗi là được. Có 4 điều gồm nhận thức
ăn của Ni không phải bà con, nhận thức ăn do Ni chỉ bảo cho, nhận thức ăn của
gia đình Phật tử nghèo, và nhận thức ăn nơi có thể gây nguy hiểm cho tín đồ đến
cúng dường.
Với văn
hóa sinh hoạt của Phật giáo Bắc truyền thì 4 điều trên không còn thích hợp. Hiếm
có gia đình Phật tử thuần thành nào cúng dường cho chư Tăng đến nổi nghèo khổ mà
vẫn cúng dường. Hiếm có Tỳ-kheo nào bảo thủ và vô cảm yêu cầu tín đồ Phật tử đến
chùa cúng dường dù biết họ gặp nguy hiểm, và ngược lại cũng không có tín đồ nào
bất chấp nguy hiểm đến cúng dường cho Tỳ-kheo.
Chương 7: Chúng học
Chúng học
(sekkhiya) là 100 điều dạy về oai
nghi của một Tỳ-kheo chia thành 7 nhóm:
Cách mặc
y phục có 2 điều 1 và 2 là mặc quần/sarong cho ngay ngắn, mặc 3 y tức mặc đồ, đắp
y cho ngay ngắn.
Đi vào
nhà cư sĩ có 24 điều 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18,
19, 20, 21, 22, 23, 24, 25 và 48. Đó là không vắt ngược y đi vào nhà cư sĩ hay khi
ngồi trong nhà cư sĩ, không quấn y nơi cổ đi vào nhà cư sĩ hay khi ngồi trong nhà
cư sĩ, không trùm đầu đi vào nhà cư sĩ hay khi ngồi trong nhà cư sĩ, không được
vừa đi vừa nhảy đi vào nhà cư sĩ hay khi ngồi trong nhà cư sĩ, không ngồi chồm
hổm trong nhà cư sĩ, không chống nạnh đi vào nhà cư sĩ hay ngồi trong nhà cư sĩ,
không lắc lư đi vào nhà cư sĩ hay khi ngồi trong nhà cư sĩ, không vung cánh tay
đi vào nhà cư sĩ hay khi ngồi trong nhà cư sĩ, khéo che kín thân đi vào nhà cư
sĩ hay khi ngồi trong nhà cư sĩ, không liếc nhìn hai bên khi đi vào nhà cư sĩ
hay khi ngồi trong nhà cư sĩ, không lớn tiếng khi đi vào nhà cư sĩ hay khi ngồi
trong nhà cư sĩ, không được đùa giỡn khi đi vào nhà cư sĩ hay khi ngồi trong
nhà cư sĩ, không cười đùa khi ngồi trong nhà cư sĩ.
Tất cả
những điều nêu trên đều còn nguyên giá trị cho một vị Tỳ-kheo phải thực hành oai
nghi khi có duyên sự đến nhà cư sĩ.
Oai
nghi khi ăn uống có 22 điều 26, 27, 28, 29, 30, 31, 32, 33, 34, 35, 36, 37, 38,
39, 40, 41, 42, 43, 44, 45, 46 và 47. Đó là phải chú ý khi ăn để thức ăn khỏi
rơi rớt, không lấy thức ăn nhiều tràn đổ ra ngoài, không lấy canh nhiều tràn đổ
ra ngoài, chờ cơm canh đủ mới ăn, ăn từ trên xuống, không moi giữa bát mà ăn,
không bệnh thì không viện cớ xin thức ăn cho mình, không được che dấu xin thêm
thức ăn, không được nhìn vào bát Tỳ-kheo ngồi kế sinh tâm ganh tỵ, phải chú ý
nhìn trong bát mà ăn, không vắt cơm lớn miếng mà ăn vì miệng không đủ chứa,
không hả miệng lớn chờ cơm, không được ngậm cơm nói chuyện, không được vắt cơm
thảy vào miệng ăn, khi ăn không để rơi cơm, không được phồng má mà ăn, không được
nhai cơm ra tiếng, không được húp canh ra tiếng, không được le lưỡi liếm thức
ăn, khi ăn không được vẫy tay, không được lượm cơm rơi ăn, tay dơ không được cầm
vật đựng thức ăn.
Tất cả
những điều nêu trên đều còn nguyên giá trị giúp Tỳ-kheo thực hành chánh niệm
khi ăn uống.
Vệ sinh
có 3 điều 49, 50 và 51. Đó là không khạc nhổ, không đại tiểu tiện trên rau cỏ
tươi hay trong nước, không đứng đại tiểu tiện. Hai điều đầu gây mất vệ sinh,
còn điều cuối tùy theo văn hóa mỗi nơi.
Thuyết
pháp có 20 điều gồm 52, 53, 54, 55, 56, 57, 58, 59, 86, 87, 88, 89, 90, 91, 92,
96, 97, 98, 99, và 100. Đó là không thuyết pháp cho người thiếu cung kính, người
quấn áo quanh cổ, người trùm đầu, người quấn khăn trên đầu, người chống nạnh,
người mang dép da, người mang guốc gỗ, người cưỡi ngựa ngồi xe, người ngồi mà
mình đứng, người nằm mà mình ngồi, người ngồi chính giữa mình ngồi một bên, người
ngồi chỗ cao mình ngồi chỗ thấp, người đi phía trước mình đi phía sau, người đi
trên đường cao mình đi trên đường thấp, người ở đường chính mình ở đường nhỏ,
người cầm gậy, người cầm gươm, người cầm giáo, người cầm dao, người cầm dù.
Ngày
nay, thuyết pháp thường được tổ chức tại giảng đường, tại phòng họp, tại hội
trường… trang nghiêm và có nhiều thính chúng. Trường hợp nói chuyện trao đổi giữa
hai người thì mới rơi vào các trường hợp trên.
Tháp Phật
có 26 điều gồm 60, 61, 62, 63, 64, 65, 66, 67, 68, 69, 70, 71, 72, 73, 74, 75,
76, 77, 78, 79, 80, 81, 82, 83, 84 và 85. Đó là không ngủ trong tháp Phật,
không chôn giấu tài vật trong tháp Phật, không mang dép da vào trong tháp Phật,
không cầm dép da vào trong tháp Phật, không mang dép da đi quanh tháp Phật,
không mang giày bố vào trong tháp Phật, không cầm giày bố vào trong tháp Phật,
không xả rác khi ngồi ăn dưới tháp Phật, không khiêng thây chết đi qua tháp,
không chôn thây chết dưới tháp, không thiêu thây chết dưới tháp, không thiêu
thây chết ở trước tháp, không thiêu thây chết bốn phía tháp, không mang đồ người
chết đi qua tháp, không đại tiểu tiện dưới tháp, không đại tiểu tiện trước
tháp, không đại tiểu tiện quanh tháp, không mang tượng Phật đến nơi đại tiểu tiện,
không giăng cành dương dưới tháp, không giăng cành dương trước tháp, không giăng
cành dương bốn phía tháp Phật, không hỷ mũi khạc nhổ dưới tháp, không hỷ mũi khạc
nhổ trước tháp, không hỷ mũi khạc nhổ bốn phía tháp Phật, không duỗi chân về
phía tháp Phật, không được để tháp nhỏ ở phòng xấu mình ở phòng cao tốt.
Trước hết,
cần xác định 26 điều học liên quan đến tháp Phật không có trong luật Pāli. Tháp
Phật ở đây có nghĩa là gì? Tháp là nơi chôn nhục thân của Đức Phật như các vị Tổ
ở Trung Hoa thì không đúng vì văn hóa Ấn Độ đều hỏa táng. Tháp là nơi cất giữ xá-lợi
kim thân của Đức Phật cũng không đúng vì Đức Phật còn hiện tiền.
Như vậy
vào thời Phật còn tại thế đã có tháp Phật chưa? Nếu có tháp Phật thì phải chăng
tháp đó là thất hay là phòng ở của Đức Phật? Nếu là phòng ở của Phật thì tất cả
các điều liên quan đến tháp đều hợp lý trừ điều để tháp nhỏ ở phòng xấu mình ở
phòng cao tốt. Nếu tháp là nơi thờ báu vật của Đức Phật như bình bát, y, vật dụng,
tóc, móng tay… thì thời Phật có chưa?
Tóm lại, các điều học liên quan đến tháp có
giá trị cho các Tỳ-kheo ứng xử khi sống trong nền văn hóa có tháp thờ xá-lợi Phật
hay tháp thờ các Tổ sư.
Đi đường
có 3 điều 93, 94 và 95. Đó là không nắm tay nhau khi đi đường, không leo lên
cây cao quá đầu người trừ tránh nguy hiểm, không xỏ đãy đầu gậy quảy trên vai
đi. Ba điều này đều còn nguyên giá trị thực hành.
Chương 8: Diệt tránh
Diệt
tránh (adhikarana samatha) là điều giới
hướng dẫn giải quyết chấm dứt sự tranh cãi trong Tăng.
Có 7 điều
được áp dụng để xử lý 4 loại tranh chấp trong Tăng.
Bốn loại
tranh chấp là:
Ngôn
tránh là tranh cãi do tranh luận về Chánh pháp hay giới luật.
Mích
tránh là tranh cãi do các Tỳ-kheo tìm tội lẫn nhau bằng cách thấy, nghe, nghi.
Phạm
tránh là tranh cãi do phạm tội nhưng chưa thống nhất tội.
Sự
tránh là tranh cãi do ba việc trên.
Bảy điều
là:
Hiện tiền
Tỳ-ni là giải quyết tranh cãi phải có mặt đương sự (người vi phạm).
Ức niệm
Tỳ-ni là việc tranh cãi nào đã giải quyết xong thì không được khơi lại.
Bất si Tỳ-ni
là Tỳ-kheo vi phạm các điều giới lúc bị bệnh cuồng si, nay vị ấy hết bệnh và
không vi phạm nữa. Tăng tác pháp Bất si Tỳ-ni rồi thì không được nhắc lại việc
cũ nữa.
Tự ngôn
trị là tự Tỳ-kheo nói tội của mình nếu vi phạm để Tăng xử lý.
Tìm tội
tướng là Tỳ-kheo phạm tội nhưng nói dối không thừa nhận. Tăng tác pháp yết-ma
phạt tội vị ấy và chờ vị ấy nhận tội rồi mới giải yết-ma.
Đa nhân
ngữ là giải quyết tranh cãi bằng sự biểu quyết của đa số.
Sám hối
như cỏ che đất là giải quyết tranh cãi bằng cách tất cả đều sám hối, không nêu
nữa.
Tóm lại,
một Tỳ-kheo phải học đầy đủ 250 điều học như luật quy định với lòng tôn kính.
Trong thực tế áp dụng, một Tỳ-kheo phải giữ gìn 4 điều nặng của chương 1 Ba-la-di,
giữ 6 trong 13 điều của chương 2 Tăng-tàn, thực hành 5 trong 30 điều của chương
4 Xả đọa, thực hành 50 trong 90 điều của chương 5 Đơn đọa, thực hành khoảng 55
đến 75 trong 100 điều của chương 7 Chúng học, và thực hành 7 điều của chương 8
Diệt tránh.
Giới thiệu tổng
quát 18 chương trong phần III
Như đã
nêu ở trước, phần III của luật Tứ phần
có 18 chương. Chương 1 Thọ giới tương đương chương 1 bộ luật Pāli; chương 2
Thuyết giới tương đương chương 2 bộ luật Pāli; chương 3 An cư tương đương
chương 3 bộ luật Pāli; chương 4 Tự tứ tương đương chương 4 bộ luật Pāli; chương
5 Da thuộc tương đương chương 5 bộ luật Pāli; chương 6 Y tương đương chương 8 bộ
luật Pāli; chương 7 Thuốc tương đương chương 6 bộ luật Pāli; chương 8 Y
Ca-thi-na tương đương chương 7 bộ luật Pāli; chương 9 Câu-thiểm-di tương đương
chương 10 bộ luật Pāli; chương 10 Chiêm-ba
tương đương chương 9 bộ luật Pāli; chương 11 Khiển trách tương đương chương 11 bộ
luật Pāli; chương 12 Người tương đương chương 12 bộ luật Pāli; chương 13 Phú
tàng tương đương chương 13 bộ luật Pāli; chương 14 Già yết-ma tương đương
chương 19 bộ luật Pāli; chương 15 Phá Tăng tương đương chương 17 bộ luật Pāli;
chương 16 Diệt tránh tương đương chương 14 bộ luật Pāli; chương 17 Tỳ-kheo-ni
tương đương chương 20 bộ luật Pāli; chương 18 Pháp tương đương chương 18 bộ luật
Pāli.
Chương 1: Thọ giới
Phần đầu
nói về lịch sử Đức Phật Thích Ca gồm gia đình, dòng họ, tướng mạo, xuất gia, tu
khổ hạnh, thành đạo, chuyển pháp luân, nhận đệ tử xuất gia và tại gia, việc truyền
thọ đắc giới bằng “tam ngữ”, tức ba lần nói quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng.
Phần tiếp
theo nói rõ về điều kiện và phận sự của Hòa thượng, A-xà-lê, giáo thọ, bổn phận
của đệ tử. Vị Tỳ-kheo đủ 10 hạ và thông luật thì có thể làm Hòa thượng truyền
giới cho đệ tử và có trách nhiệm dạy đệ tử. Hòa thượng được nói trong luật khác
với Hòa thượng Đường đầu trong Đại giới đàn ngày nay theo nghi lễ và hành
chánh.
Phần cuối
nói về điều kiện truyền thọ giới gồm nhân và sự như pháp, kết tiểu giới, Hòa
thượng như pháp, túc số Tăng 10 vị, các nạn không được thọ giới Cụ túc; phương
pháp truyền thọ giới Cụ túc gồm có giáo thọ hướng dẫn giới tử làm theo, bạch tứ
yết-ma, truyền 4 pháp Ba-la-di, truyền tứ y và vấn đề đắc giới.
Đây là
chương rất quan trọng mà một vị Tỳ kheo phải biết để thực hành phận sự và duy
trì Phật pháp qua việc truyền thọ giới Cụ túc.
Chương 2: Thuyết giới
Chương
2 nói về Bố-tát thuyết giới mỗi tháng 2 lần, cách thức và ý nghĩa kết giới trường,
đại giới, mất y giới, đại giới liên kết, tiểu giới, kiểm số Tỳ-kheo, gửi dục, đọc
giới bổn, sám hối, hòa hợp thuyết giới.
Chương 3: An cư
Chương
3 nêu lý do Phật chế pháp an cư 3 tháng; dạy cách kết giới an cư, cách tác pháp
an cư, phân phòng xá, phân ngọa cụ, vấn đề tiền hậu an cư, trú xứ an cư, xuất
giới, phá hạ.
Chương 4: Tự tứ
Chương
4 dạy các Tỳ-kheo trong thời gian an cư phải trao đổi học hỏi nhau chứ không được
im lặng như câm, pháp cử tội Tỳ-kheo, pháp thức Tự tứ gồm tâm niệm Tự tứ và bạch
nhị yết-ma sai người thọ Tự tứ, trường hợp không cho Tự tứ, thời gian Tự tứ.
Chương 5: Da thuộc
Chương
5 nói về việc sử dụng các đồ bằng da như dép, ngọa cụ…
Chương 6: Y
Chương 6
nói về các loại y, việc nhận và chia y, cách thức may y, cách thức phân Tăng vật,
và phân vật của Tỳ-kheo viên tịch.
Chương 7: Thuốc
Chương
7 nói về tam tịnh nhục, các loại thịt không được ăn.
Chương 8: Y Kathina
Chương
8 nói về y Kathina, tức y công đức với 5 lợi ích, người được thọ y công đức và
thời gian thọ y công đức.
Chương 9: Câu-thiểm-di
Chương
9 nói về sự tranh cãi dẫn đến bất hòa chia thành 2 nhóm không hòa hợp nhau, về
việc Đức Phật hòa giải bất thành và phải bỏ đi, về sự sám hối của 2 nhóm Tỳ-kheo
sau khi bị cư sĩ tẩy chay không cúng dường, về pháp yết-ma cử tội và giải yết-ma
cử tội sau khi đương sự sám hối phục thiện.
Chương 10: Chiêm-ba
Chương
10 nói về việc cử tội phi pháp, túc số yết-ma, túc số Tăng gồm 4 Tỳ-kheo, 5 Tỳ-kheo,
10 Tỳ-kheo và 20 Tỳ-kheo, yết-ma không thành khi làm không đúng pháp luật.
Chương 11: Khiển trách
Chương
11 nói về việc khiển trách Tỳ-kheo phạm tội, những điều không được làm khi bị
khiển trách, về việc tẩn xuất, về y chỉ khi chưa hiểu rõ luật.
Chương 12: Người
Chương
12 nói về cách xử lý Tỳ-kheo phạm tội Tăng-tàn qua các bước gồm xem xét có che
dấu tội không để quyết định thực hành phú tàng tức đưa ra hình phạt, có tái phạm
trong lúc thực hành hình phạt không, sau khi thực hành hình phạt xong thì cho
thêm 6 đêm nữa trước khi Tăng yết-ma giải tội và phục hồi tư cách Tỳ-kheo.
Chương 13: Phú tàng
Chương
13 nêu các quy định khi Tỳ-kheo phạm tội Tăng-tàn và trong giai đoạn thực hành
hình phạt thì không được phép trao đại giới, làm y chỉ…
Chương 14: Già yết-ma
Chương
14 nói về việc ngăn Tỳ-kheo phạm tội tham dự thuyết giới, về Tỳ-kheo được quyền
cử tội và phương thức ngăn.
Chương 15: Phá Tăng
Chương
15 nói về việc Đề-bà-đạt-đa phá hòa hợp Tăng, về điều kiện đủ để gọi là phá
Tăng.
Chương 16: Diệt tránh
Chương
16 nói về 7 pháp được áp dụng để chấm dứt sự tranh cãi và 4 loại/thứ đưa đến
tranh cãi là ngôn tránh, mích tránh, phạm tránh và sự tránh.
Chương 17: Tỳ-kheo-ni
Chương
17 nói về Kiều-đàm-di và 500 người nữ xuất gia, về Ni thọ giới gồm có Sa-di-ni,
Thức-xoa-ma-na và Tỳ-kheo-ni, về Bản bộ yết-ma và Chánh pháp yết-ma.
Chương 18: Pháp
Chương 18
nói về phận sự Tỳ-kheo chủ (cựu), Tỳ-kheo khách, các việc hàng ngày như vệ
sinh, khất thực, ở trong rừng, đến nhà cư sĩ thọ trai.
Trong
18 chương, có 15 chương được áp dụng trong thực tế đời sống Tăng đoàn Tỳ-kheo.
Đó là các chương 1, 2, 3, 4, 6, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16, 17 và 18. Các
chương còn lại học để biết văn hóa Ấn Độ thời Đức Phật còn tại thế.
Để hiểu
rõ nội dung cụ thể trong các chương vừa nêu, vị Tỳ-kheo phải học chi tiết từng
chương. Ở đây, bài viết xin được bàn luận một số điều về yết-ma, kết giới, y
công đức, và truyền thọ giới Cụ túc trở thành Tỳ-kheo.
Vấn đề yết-ma
Yết-ma
(karma, kamma) là thuật ngữ trong Phật
giáo có nghĩa là tất cả công việc của Tăng đều do yết-ma mà thành tựu. Tăng-già
yết-ma là hành sự của Tăng căn cứ trên nền tảng là sự thanh tịnh và hòa hợp của
Tăng. Yết-ma là dấu hiệu cho sự tồn tại hay tan vỡ của Tăng.
Theo
các luật sư Phật giáo, có tổng cộng 161 pháp yết-ma gồm 44 pháp thuộc đơn bạch,
78 pháp bạch nhị, và 39 pháp bạch tứ.
Trong thực tế, con số này không cố định mà nó thường phụ thuộc vào sự sinh hoạt
của các nhóm Tăng.
Yết-ma
được thực hiện bằng lời nói nên khi Tăng tác pháp yết-ma, chỉ một Tỳ kheo hội đủ
điều kiện đại diện Tăng tác pháp yết-ma, hỏi và chỉ một Tỳ kheo gọi là Duy-na đại
diện trả lời, đến khi quyết định thì toàn thể Tỳ-kheo tham dự đều phải thống nhất
qua tiếng “thành” hay âm thanh quy định của Tăng cho thấy tất cả đồng ý.
Có 3 loại
yết-ma: đơn bạch là bạch một lần trước Tăng như tác bạch thông báo; bạch nhị là
một lần bạch một lần biểu quyết; và bạch tứ là một lần bạch ba lần biểu quyết.
Thực hiện
pháp yết-ma cần phải có 5 yếu tố hay điều kiện để thành tựu là:
- Nhân
là đối tượng hay người tham dự trong yết-ma như giới tử thọ giới, Tỳ-kheo phạm
tội…
- Tăng
là số Tỳ-kheo cần để thực hiện các yết-ma gồm có Tăng 4 vị Tỳ-kheo, Tăng 5 vị Tỳ-kheo,
Tăng 10 vị Tỳ-kheo và Tăng 20 vị Tỳ-kheo.
- Pháp
là những nguyên tắc, những thủ tục… đã được quy định cho các sinh hoạt của Tăng
như Bố-tát, Tự tứ… Trường hợp nào đơn bạch, trường hợp nào bạch nhị, trường hợp
nào bạch tứ.
- Sự tức
sự việc cụ thể như kết đại giới, tiểu giới…
- Giới
là cương giới hay phạm vi không gian đã quy định.
Yết-ma
có 3 giai đoạn là tiền phương tiện, tương tự như kiểm tra điều kiện tiến hành, phân
định loại yết-ma để thực hiện đơn bạch, bạch nhị, bạch tứ; căn bản là sự đồng
thuận của Tăng; và hậu khởi là tiến hành sự việc cho đến hoàn mãn.
Nói
cách khác, sinh hoạt của Tăng phải dựa trên yết-ma, tạm hiểu là sự hội họp
trong tinh thần hòa hợp thanh tịnh. Yết-ma thành tựu thì phải đủ các điều kiện
quy định là người tham dự, sự việc thực hiện, thực hiện trong phạm vi quy định,
cách thức thực hiện và số lượng người cần để thực hiện sự việc đó. Các sinh hoạt
quan trọng và thường xuyên của Tăng là truyền thọ giới, Bố-tát thuyết giới, an
cư, Tự tứ, xử tội… và các hành sự (sự việc) trong thời hiện đại như tổ chức các
lễ, đại hội… Ví dụ Bố-tát thuyết giới là sự, Tỳ-kheo tham dự từ bốn vị trở lên là
yếu tố nhân, Tăng trong chánh điện là giới, cách thức thực hiện hỏi đáp là
pháp.
Vì tầm
quan trọng của pháp yết-ma, thiết nghĩ nền giáo dục Phật giáo cần chú trọng dạy
và cho thực hành cụ thể các sinh hoạt quan trọng trong Tăng như Bố-tát thuyết
giới, an cư, Tự tứ, truyền thọ giới Cụ túc.
Vấn đề cương giới
Cương
giới là đường ranh phân chia khu vực. Cộng đồng Tỳ-kheo đủ để thành Tăng ở mỗi
nơi đều có cương giới được đồng ý ấn định rõ ràng bởi các đường ranh. Tất cả Tỳ-kheo
trong cùng một cương giới sống trong tinh thần hòa hợp, có quyền và nghĩa vụ
như nhau trong sinh hoạt của Tăng nơi đó. Tất cả pháp yết-ma của Tăng đều phải
cử hành nơi cương giới đã ấn định.
Cương
giới có hai loại là tự nhiên và pháp định. Cương giới tự nhiên có bốn loại là
trong làng, trong rừng, trên đường bộ và đường thủy. Ngày nay không có nhóm
Tăng nào ở Việt Nam kết cương giới tự nhiên mà sinh hoạt.
Cương
giới pháp định có đại giới như các tự viện, giới trường như chánh điện, hội trường…
Đại giới
là cương giới Tỳ-kheo cùng sống chung và cùng thuyết giới chung. Ngày nay, đại
giới có thể là một tự viện lớn có đông Tỳ-kheo, hay một xã/phường… gồm nhiều tự
viện do các Tỳ-kheo ở đó ấn định sinh hoạt chung. Lý do là một tự viện có một Tỳ-kheo
trụ trì thì chưa thành Tăng nên cần phải liên kết nhiều tự viện mới đủ Tỳ-kheo
thành Tăng. Các Tỳ-kheo ở các tự viện trong xã/phường đó đồng ý sinh hoạt chung
thì mới tập trung lại mà kết đại giới để sinh hoạt chung. Nếu họ không đồng ý
thì dù ở trong xã/phường đó họ cũng không sinh hoạt chung với nhóm Tăng nơi đó.
Nếu tự
viện lớn có đủ bốn Tỳ-kheo thì đại giới là diện tích của tự viện có tường rào
bao quanh và giới trường là chánh điện hay giảng đường do Tăng trong chùa đó thống
nhất ấn định sinh hoạt.
Nếu là một
xã/phường gồm nhiều tự viện thì đại giới là diện tích xã/phường đó và giới trường
là chánh điện của các tự viện trong xã/phường đó do Tăng ấn định sinh hoạt theo
kỳ.
Đại giới
có giới trường là các tự viện có bốn Tỳ-kheo sống chung có những sinh hoạt tập
thể định kỳ như Bố-tát thuyết giới. Đại giới không có giới trường là tự viện có
bốn Tỳ-kheo sống chung nhưng khi sinh hoạt tập thể như Bố-tát thì thực hiện tại
giới trường của tự viện khác trong xã/phường đã thống nhất ấn định.
Theo luật
định, giới trường cách đại giới một mét. Quy định này có thể thích hợp khi chưa
có chánh điện, giảng đường có tường kiên cố và kín đáo. Ngày nay, giới trường
là chánh điện hay giảng đường có tường kính tách biệt thì có lẽ không cần phải
cách một mét nữa.
Theo luật
định, khi kết và giải giới trường thì Tăng phải ở trong phạm vi của giới trường,
khi kết và giải đại giới thì Tăng phải ở trong đại giới. Lý do là phải ở nơi đó
để biết rõ tiêu tướng (cột mốc). Ngày nay, các ranh giới kiên cố đã có sẵn, chỉ
cần thông báo để biết mà tập họp sinh hoạt chung thì không nhất thiết bắt buộc
phải ở trong.
Về kết
giới, ngày nay nghi lễ kết giới mang niềm tin tôn giáo hơn là thực tế sinh hoạt.
Khi xây xong tự viện, các Tỳ-kheo làm lễ kết giới sima nơi chánh điện. Câu hỏi
là kết giới sima - giới trường cho ai sinh hoạt nếu các Tỳ-kheo được mời làm lễ
kết giới không thuộc Tăng của tự viện đó, hay tự viện đó không có đủ bốn Tỳ-kheo
trở lên, hay tự viện đó có sự thay đổi số Tỳ-kheo đến đi.
Lại nữa,
khi kết giới thì xướng tiêu tướng đông tây nam bắc. Điều này áp dụng ở nơi đất
trống và chưa có ranh giới cố định. Ngày nay, diện tích chu vi chánh điện, giảng
đường hay khuôn viên tự viện có tường rào; xã/phường có ranh giới thì cần xướng
tiêu tướng nữa không? Nếu không xướng tiêu tướng thì Tỳ-kheo sinh hoạt có được
không? Tự viện đã xây dựng sẵn nên chỉ cần thông báo cho Tỳ-kheo trong tự viện
biết chánh điện (giới trường) là nơi tụng kinh, bố-tát…; trong khuôn viên tự viện
trừ chánh điện là đại giới để cùng sinh hoạt thì ai cũng rõ biết. Mục đích của
kết giới là phân định nơi sinh hoạt của Tăng trong tự viện hay trong phạm vi
Tăng thống nhất sinh hoạt với nhau.
Vấn đề y công đức
Duyên
khởi Phật chế cho nhận y công đức (cathina)
là do các Tỳ-kheo sau an cư về đảnh lễ Đức Phật bị mưa ướt y và không có y thay
(vì chỉ có một bộ ba cái như đã nói ở trước).
Nội
dung 5 điều lợi ích khi nhận được y Cathina là ngoài 3 y, Tỳ-kheo được cất y dư
quá 10 ngày mà không cần làm phép tịnh thí; được phép lìa y cách đêm; được phép
ăn nhiều lần tại nhà cư sĩ không quá ngọ; được phép ăn biệt chúng; được vào xóm
làng không cần báo cho các Tỳ-kheo biết; thời
gian hưởng quyền lợi tối đa là 4-5 tháng.
Đọc nội
dung các lợi ích, ta thấy chúng thuộc về lợi ích vật chất. Tỳ-kheo được chọn nhận
y Cathina thì xứng đáng được hưởng quyền lợi.
Trong
truyền thống Nam truyền ngày nay, lễ dâng y Cathina có giá trị giữ gìn văn hóa,
gắn kết cộng đồng, là dịp Phật tử cầu bình an, thể hiện lòng tôn kính biết ơn,
và cúng dường chư Tăng tạo phước.
Trong
truyền thống Bắc truyền, các lợi ích đó không hấp dẫn bởi Tỳ-kheo nào cũng được
hưởng quyền lợi đó, trừ điều cuối cùng ở một số nơi. Do đó, Phật giáo Bắc truyền
có lễ dâng y cúng dường chứ không có lễ dâng y Cathina.
Về truyền thọ giới Cụ túc
(Upasampada)
Theo giới
luật Phật giáo, truyền thọ giới Cụ túc để trở thành Tỳ-kheo có 10 cách nhưng
ngày nay chỉ áp dụng cách bạch tứ yết-ma truyền thọ giới Cụ túc.
Không có trường hợp tự thọ giới trở thành Tỳ-kheo và thành lập Tăng đoàn.
Theo luật
quy định, Hòa thường truyền giới Cụ túc phải đủ các điều kiện sau: đủ 10 tuổi hạ,
biết rõ trường hợp trì phạm nhẹ nặng, có kiến thức rộng, có khả năng giải quyết
những nghi vấn của đệ tử, có khả năng giúp đệ tử trừ tà kiến. Mỗi
năm Hòa thượng chỉ được nhận một Sa-di và truyền giới Cụ túc cho một người trở
thành Tỳ-kheo. Ngày nay, quy định này đã được áp dụng uyển chuyển thay đổi vì
điều kiện không như xưa.
Vị Tỳ-kheo
thọ giới. Giới đó gọi là giới Cụ túc vì nó thể hiện trọn vẹn bốn sự thanh tịnh
gồm giữ giới bổn, phòng hộ sáu căn, chánh niệm tỉnh giác và thọ dụng bốn vật dụng
gọi là “thánh chủng” (hay
tứ y) gồm y phấn tảo, khất thực, ngủ dưới gốc cây, thuốc men. Đây là nhu cầu tối
thiểu giúp duy trì thân mạng để Tỳ-kheo tu tập chứng Thánh quả. Trong đó, ba sự
thanh tịnh đầu vẫn nguyên giá trị, còn điều thứ tư có sự thay đổi cho phù hợp với
thời đại và văn hóa tập tục mỗi nơi.
Vị Tỳ-kheo
thành tựu giới Cụ túc là do Tăng yết-ma bạch tứ. Sau khi tác pháp yết-ma thành
rồi thì truyền bốn pháp Ba-la-di, tứ y (đã nêu ở trước).
Đại giới
đàn là nơi có người thọ giới Cụ túc. Dù chỉ một người thọ giới Cụ túc cũng gọi đại
giới đàn.
Giới thiệu sơ lược 6 chương phần IV
Chương 1: Phòng xá tương đương chương 16 bộ luật Pāli
Chương
1 nói về vua Bình-sa cúng tinh xá Trúc Lâm và ông Cấp Cô Độc cúng tinh xá Kỳ
Hoàn, về phòng, giường, chăn, nhà tắm, nhà bếp, lò sưởi, vật của Tăng…
Chương 2: Tạp sự tương đương chương 15 bộ luật Pāli
Chương
2 nói về các vật dụng mà các Tỳ-kheo thường dùng sinh hoạt hàng ngày như bát,
dao cạo, kim vá y, lọc nước, dù, quạt, gậy, đãy…
Chương 3: Ngũ bách kết tập
Chương
3 nói về kỳ kết tập kinh điển lần thứ nhất có 500 A-la-hán tham dự.
Chương 4: Thất bách kết tập
Chương
4 nói về kỳ kết tập kinh điển lần thứ 2 có 700 Tỳ-kheo tham dự.
Chương 5: Điều bộ
Chương
5 giải thích thêm về bốn điều giới thuộc Ba-la-di và 6 điều giới thuộc Tăng-tàn.
Chương 6: Tỳ-ni tăng nhất
Chương
6 tóm tắt các điều trình bày các phần trên theo pháp số từ 1 đến hơn 11.
Trong
phần IV, hai chương đầu nói về các sinh hoạt thường ngày của Tỳ-kheo để bổ sung
thêm phần III trong luật Tứ phần.
Chương 3 và 4 được thêm vào sau khi Phật Niết-bàn. Chương 5 và 6 là sự tóm tắt,
giải thích thêm các phần chính ở trên.
Như vậy,
người học có thể đọc toàn bộ phần IV để có kiến thức nhưng khi ứng dụng thì chủ
yếu là hai chương đầu nhưng cũng phải chọn một số điều có liên quan đến đời sống
ngày nay.
Ứng dụng giới luật
trong cuộc sống hiện nay
Phật giáo trường tồn phải có đủ Tam bảo là Phật, Pháp,
Tăng. Tăng là tập thể từ bốn vị Tỳ-kheo trở lên sống
hòa hợp thanh tịnh. Điều kiện cần thiết để hỗ trợ cho Tăng trường tồn là Tăng
phải thực giới luật và Chánh
pháp. Về cá nhân, Tỳ-kheo thực
hành giới như giới trong Bát chánh đạo và giới điều hay điều học thuộc giới tướng trong
250 giới Bắc truyền. Về tập thể, Tỳ-kheo thực hành điều học và luật được trình bày trong
các phần nêu trên.
Tỳ-kheo học
250 giới điều trong 8 chương với lòng tôn kính Đức Phật và chư Tổ. Trong ứng dụng thực tế,
Tỳ-kheo phải thực
hành các giới điều thuộc tội nặng hay nghiệp ác và linh động uyển chuyển thực
hành các giới điều thuộc lỗi nhẹ nhằm giữ gìn uy tín của Tỳ-kheo và Tăng
đoàn.
Tỳ-kheo học
20 chương trong phần III và IV để biết phận sự của thầy và trò, để biết cách
nuôi dạy đệ tử, để biết các pháp yết-ma trong sinh hoạt Tăng... Mọi sinh hoạt của
Tăng đều cần căn cứ theo giới luật nên mỗi Tỳ-kheo cần phải học giới luật để biết mà
thực hành.
Ngoài ra, Tỳ-kheo cũng cần đọc giới Tỳ-kheo-ni, học biết rõ
về Bản bộ yết-ma và Chánh pháp yết-ma để có thể tham gia các giới đàn truyền thọ
giới nếu được thỉnh mời.
Vấn đề đặt ra là Phật giáo phải soạn giáo trình luật cho
phù hợp để giảng dạy. Một Tăng sinh thuộc Bắc truyền sau khi tốt nghiệp học viện phải biết
căn bản về 10 giới Sa-di, 24
oai nghi, 250 giới Tỳ-kheo và
các pháp yết-ma như Bố-tát thuyết
giới, an cư, Tự
tứ, truyền thọ giới.
Nếu chương trình biên soạn để giảng dạy theo cách chọn lọc
những giới điều, những pháp yết-ma có thể ứng dụng trong thực tế (các phần khác
tự tham khảo) thì mục tiêu đào tạo một vị Tỳ-kheo biết giới luật là rất khả thi.
Sách tham khảo
HT.Thích Phước Sơn, Luật học tinh yếu, NXB.Phương Đông, TP.HCM, 2010.
HT.Thích Phước Sơn, Một số vấn đề giới luật, NXB.Phương Đông, TP.HCM,
2010.
Tỳ-kheo Tâm
Hạnh, Pháp thức và ý nghĩa hành trì giới luật, NXB.Hồng Đức Hà Nội, 2015.
Tỳ-kheo
Thích Đổng Minh dịch và Tỳ-kheo Thích Tuệ Sỹ hiệu chính, Tứ phần luật, NXB.Hồng Đức, TP.HCM, 2020.
Tỳ-kheo
Thích Minh Thông, Phân tích giới tướng Tỳ-kheo và phương thức sám hối, NXB.Phương Đông, TP.HCM, 2011.
Tỳ-kheo Thích Đổng Minh dịch
và Tỳ-kheo Thích Tuệ Sỹ hiệu chính, Tứ phần luật, NXB.Hồng Đức, TP.HCM, 2020.
Tỳ-kheo Thích Đổng Minh dịch và Tỳ-kheo Thích Tuệ Sỹ hiệu chính, Tứ phần luật, NXB.Hồng Đức, TP.HCM, 2020,
tr.1136-1141. Thích Phước Sơn, Luật học tinh yếu, NXB.Phương Đông, TP.HCM, 2010,
tr.60.