Đọc Ngô Thì Nhậm: Thấy và Nghe
ngo thi nham
Đọc
Ngô Thì Nhậm: Thấy và Nghe
Nguyên Giác
Bài
viết này sẽ phân tích lời dạy của sách Trúc
Lâm tông
chỉ
nguyên
thanh về ý chỉ Thiền tông: vùng vằng chống chọi với những cái được thấy và
được nghe là chưa biết đạo. Sách Trúc
Lâm tông
chỉ
nguyên
thanh là một tác phẩm về Thiền tông Việt Nam xuất bản lần đầu vào năm 1796. Tác phẩm này
được in trong Ngô Thì Nhậm Toàn Tập - Tập V, ấn hành năm 2006 tại Hà Nội, do
nhiều tác giả trong Viện Nghiên cứu Hán Nôm biên dịch.
Những
lời dạy trong sách này mang phong cách Thiền tông Việt Nam, vì ngài Ngô Thì Nhậm (1746-1803) khi rời
quan trường đã xuất gia, trở thành vị sư có tên là Hải Lượng Thiền sư, và được nhiều vị sư tôn vinh là vị Tổ thứ tư của Thiền phái Trúc Lâm. Tất cả các vị sư khác trong sách đều nói trong
tông phong này. Nơi đây, chúng ta trích các đoạn đầu trang 389, nguyên văn như sau:
“Việc
gì nhìn thấy mà vẫn chưa cho là đúng, nghe mà còn chưa cho là thật, bị che lấp ứ
đọng, vùng vằng chống chọi mà không thoát ra được, đó là người không biết đạo vậy.
Người biết đạo thì thông, thông thì soi suốt, soi suốt được thì sống. Người
không biết đạo thì không thông, không thông thì bị chướng ngại, bị chướng ngại
thì chết.
Thần
là tính, tính thì không diệt được, cho nên nói ‘sống là thuộc về thần’. Hình là chất, chất thì có sinh có diệt, cho nên nói ‘chết
là thuộc về hình’. Phật Thích Ca thì diệt độ (*). Khổng Tử thì ngọa bệnh mà mất. Diệt và mất chỉ là cái hình thôi, còn như ‘minh
tâm kiến tính’ và ‘tận tâm tri tính
(**) là hai cái
chân truyền của Đức Phật và Đức Thánh thì vẫn còn mãi mãi ở trong khoảng trời đất,
ngàn muôn đời không bao giờ tắt, cho nên Thầy nói rằng: ‘Đạo không can dự vào đấy’. Tây Ngưu Hạ Châu có Phật Vô Lượng Thọ, Nam Thiệm có đấng
vương giả dấy lên. Có cái đạo ấy, tức có con người ấy, không sao mà diệt được,
cũng là ý nghĩa ấy”.
Có
2 ghi chú trong sách Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh trong đoạn trên là, nguyên
văn:
(*)
Diệt độ: Diệt là trừ
bỏ mọi phiền não, độ là giác ngộ giải thoát. Diệt độ ở dây có nghĩa là chết.
(**)
Minh tâm kiến tính: Danh từ nhà Phật, có nghĩa là nhìn được triệt để bản tính tự
tâm. Tận tâm tri tính: Sách Mạnh Tử, thiên Tận tâm thượng: "Tận kỳ tâm giả,
tri kỳ tính dã, tri kỳ tính tắc tri thiên hỹ”.
Nghĩa là: Tận lượng
tìm hiểu tự tâm thì sẽ biết được tính, biết được tính thì sẽ biết được lễ trời.
Chúng
ta cũng cần ghi nhận rằng hai ghi chú trên là của các dịch giả trong Viện
Nghiên cứu Hán Nôm, hoàn toàn không phải ghi chú của quý ngài
trong dòng Trúc Lâm của Hải Lượng Thiền sư, bởi vì quý sư viết trong tác phẩm Trúc Lâm tông
chỉ
nguyên
thanh đều là các bậc danh Nho, học Nho giáo từ thơ ấu, sống đời Nho sĩ, làm quan nhiều
thập niên, trải qua những cuộc sóng gió binh biến của thời Tây Sơn và rồi cuối
đời vào
chùa xuất gia. Quý ngài vừa học rộng cả kinh Phật lẫn sách Nho, nên không thấy cần ghi chú các chữ
như diệt
độ, minh
tâm kiến tính, tận
tâm tri tính.
Chúng
ta nơi đây cũng không dám nhận định rằng các ghi chú đó có thích nghi hay
không, vì nơi đây chúng ta sẽ nhìn cách khác, soi ý nghĩa dưới con mắt của người
tu theo Thiền tông,
không bận tâm các nghĩa của Nho giáo.
Câu
đầu trong trích dẫn trên là: “Việc gì nhìn thấy mà vẫn chưa cho là đúng,
nghe mà còn chưa cho là thật, bị che lấp ứ đọng, vùng vằng chống chọi mà không
thoát ra được, đó là người không biết đạo vậy...”.
Những
cái đươc thấy và được nghe là gì? Tại sao chưa cho là đúng, mà lại vùng vằng chống
chọi? Chư Tổ thường gọi, khi chúng ta đối diện với cảnh (những cái được thấy,
được nghe), mà cứ muốn cảnh phải thế này hay muốn cảnh phải thế kia, đó là rơi
vào lỗi “đầu
thượng trước đầu, tuyết thượng gia sương” (trên đầu lại chắp thêm đầu, trên tuyết lại bồi thêm sương).
Tất
cả những ý muốn, rằng cái được thấy phải thế này, rằng cái được nghe phải thế
kia, chính là chúng ta đang bạo lực với cảnh, mất hẳn cái bình an của tâm bình
thường. Chư Tổ nói rằng hãy giữ tâm bình thường chính là biết sống đạo. Bạn có
thể thử nghiệm dễ dàng: khi bạn ngồi trong một thính phòng để nghe nhạc, tới đoạn nhạc này hay tới
đoạn nhạc kia, bạn khởi tâm rằng nhạc sĩ lẽ ra phải làm thế này, hay thế kia.
Đó là tự bạn làm loạn tâm bạn, làm mất bình an. Đó là bạn tự sân si với chính
những cái được nghe.
Tại
sao vùng vằng chống chọi cái được thấy và cái được nghe là không biết đạo? Bởi
vì đơn giản rằng người đó tưởng rằng có cái thực tướng gì
đó là cái được thấy và cái được
nghe, nên khi nắm giữ tướng đó, mới phản ứng bằng cách vùng vằng chống chọi những
gì được thấy và được nghe. Đó là chưa hiểu rằng Sắc là Không, chưa hiểu rằng những
cái được thấy, được nghe, được ngửi, được nếm, được chạm xúc, được suy nghĩ tư
lường đều là hư ảo, là không thực tướng, đều là duyên sinh, đều là vô ngã, đều
là không, cho nên mới vùng vằng chống chọi.
Trong
kinh Tăng
chi
(AN 4.14), Đức Phật dạy rằng khi thấy hay khi nghe thì đừng nắm giữ tướng riêng hay
tướng chung của những cái được thấy hay được nghe. Thí dụ, tướng chung của cô
Nguyễn Thị A là hình dáng, tiếng nói của một thiếu nữ có tên đó trong độ tuổi
nào đó. Tướng riêng là đặc tướng riêng biệt, những gì làm cho chúng ta thấy
đúng là Nguyễn Thị A mà không phải là Lê Thị B. Đừng nắm giữ tướng riêng hay tướng
chung có nghĩa là hãy để tất cả những cái được thấy và được nghe trôi theo dòng
đời vô thường, không nắm giữ gì hết. Kinh Tăng
chi
(AN 4.14), bản dịch của Thầy Minh Châu, trích:
“Ở
đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi mắt thấy sắc, không nắm giữ tướng chung,
không nắm giữ tướng riêng. Phàm do nhân duyên gì với nhãn căn này không được chế
ngự, khiến cho tham ái, ưu bi, các ác bất thiện khởi lên, vị ấy chế ngự nguyên
nhân ấy, hộ trì nhãn căn, sống với sự chế ngự nhãn căn. Khi tai nghe tiếng… khi
mũi ngửi hương… khi lưỡi nếm vị… khi thân cảm xúc… khi ý biết pháp, không nắm
giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Phàm do nhân duyên gì ý căn này
không được chế ngự, khiến cho tham ái, ưu bi, các ác bất thiện khởi lên, vị ấy
chế ngự nguyên nhân ấy, thọ trì ý căn, sống với sự chế ngự ý căn. Này các Tỷ-kheo,
đây gọi là đạo hành nhiếp phục”.
Hãy
nhớ rằng, thọ mạng của chúng ta, và của tất cả chúng sinh trong cõi này thực sự
không phải là năm, hay tháng, hay ngày, hay giờ, mà chỉ là một khoảnh khắc của
tâm. Trong luận
thư Niddesa ghi rằng thọ mạng của
thân và tâm chúng ta chỉ là một khoảnh khắc tiếp giáp của một hạt đậu xoay tròn
trên mũi kim. Như thế, không có khoảnh khắc nào lặp lại. Từng khoảnh khắc trong
đời chúng ta đều là độc đáo. Hãy tỉnh thức và sống cho trọn vẹn từng khoảnh khắc
trên thân tâm mình. Không có gì (và cũng bất khả) để nắm giữ hay chống chọi những
gì được thấy, được nghe.
Có
một yếu chỉ của Thiền tông là, khi Lục tổ Huệ Năng dạy cho Thượng tọa Minh rằng hãy nhìn xem ngay khi tâm không nghĩ thiện
và không nghĩ ác, thì cái gì là bản lai diện mục (khuôn mặt xưa nay) của Thượng
tọa. Tương tự, các thiền sư Việt Nam thường dạy rằng vô tâm chính là đạo.
Không khởi tâm gì hết, dù là ưa thích hay chống chọi đối với cái được thấy và
cái được nghe.
Trong
Trúc Lâm tông
chỉ
nguyên
thanh, khi quý ngài viết rằng vùng vằng chống chọi những cái được thấy hay cái được nghe là chưa hiểu
đạo, chỉ đơn giản là chúng sinh gây nghiệp vì cứ muốn cái được thấy và cái
được nghe phải thế này hay cái kia. Bởi vì tâm phân biệt cho rằng phải thế này
mới phải (thiện, đẹp), khi đã thế kia là trái (ác, xấu). Tất cả những tâm đó sẽ
làm chúng ta loạn tâm.
Trong
kinh Bahiya, Đức
Phật nói rằng hãy để cho cái được thấy là cái được thấy, cái được nghe là cái
được nghe... thì nơi đó là giải thoát.
Tất
cả những cái được thấy và được nghe là gì? Thí dụ, khi chúng ta nghĩ về một người
bạn cũ chúng ta từng gặp, từng nói chuyện, hay từng nghe bạn này hát ca..., luôn luôn chúng ta nghĩ về bạn này trong một khuôn thời
gian nào đó và trong một không gian nào đó. Như hình ảnh bạn này thời 20 tuổi,
hay 30 tuổi, hay 70 tuổi... và trong một không gian, như khi bạn này ngồi trong
quán cà phê với mình, hay cùng đi chùa với mình... Đức Phật dạy rằng, hãy buông
sạch tất cả mọi chuyện trong khuôn thời gian, bất kể là quá khứ, hiện tại hay
tương lai. Khi bạn xóa sạch ký ức đó, xóa cả mơ tưởng của tương lai, buông sạch
tất cả những gì đang thấy và nghe hiện tại, thì đó là giải thoát.
Trong
kinh Pháp cú, bài kệ 348 ghi lời Đức Phật dạy là hãy buông bỏ quá khứ, hiện
tại, vị lai thì sẽ qua được bờ giải thoát:
Bỏ
quá, hiện, vị lai,
Đến
bờ kia cuộc đời,
Ý
giải thoát tất cả,
Chớ
vướng lại sinh già.
Khi
Đức Phật nói xong bài kệ 348, chàng nghệ sĩ gánh xiếc Uggasena đang đứng làm trò xiếc trên cây sào
cao liền tức thời đắc quả A-la-hán. Khi nói buông bỏ cả ba thời, chỉ có nghĩa là thấy cả ba thời là không,
thì tâm sẽ không dính mắc nữa.
Trong
đoạn trên của Trúc Lâm Tông chỉ nguyên thanh có nói tới “Tây Ngưu Hạ Châu có Phật Vô Lượng Thọ... Có con người ấy, không sao mà diệt được”.
Quý
ngài chỉ muốn nói rằng Phật Vô Lượng Thọ là một pháp vô vi, một pháp bất sinh
và bất diệt. Nói vô lượng thọ là chưa từng sinh và chưa từng diệt. Nếu không có
pháp vô vi này thì không thể giải thoát. Chúng ta hãy hình dung, khi chúng ta
thấy và nghe thì gương tâm chúng ta hiện ra vô số ảnh hình và tánh nghe chúng
ta nhận ra vô số âm thanh. Tất cả ảnh hình hiện ra rồi biến mất. Tất cả âm
thanh tới bên tai rồi biến mất. Chúng ta không níu kéo được. Đó là những khoảnh
khắc của tâm nơi điểm tiếp giáp như hạt đậu nhỏ xoay trên đầu mũi kim. Ảnh hình
trôi đi, nhưng tánh phản chiếu của gương tâm vẫn không biến mất, và tánh nghe vẫn
thường trụ. Cảnh sinh rồi diệt, nhưng tánh nhận biết vẫn không suy xuyển.
Hãy
nhớ rằng, giải thoát không có nghĩa là vào hư vô. Đức Phật đã nhiều lần chỉ
trích thuyết đoạn diệt (đoạn kiến, hư vô), và Ngài cũng chỉ trích thuyết thường kiến. Ngài chỉ nói rằng
một một pháp vô sinh, không sinh và không diệt. Và nếu không có pháp vô vi này thì
không thể có giải thoát. Trong kinh Udana 8.3,
Đức Phật dạy rằng, nơi đây chúng ta dịch như sau:
“Này
các Tỷ-kheo,
có một cái không sinh, không trở thành, không bị tạo thành, vô vi (không bị
điều kiện). Này các Tỷ-kheo, nếu không có cái không sinh, không trở thành, không tạo thành, không bị điều kiện
đó, thì các ông không thể biết được sự giải thoát khỏi cái sinh, cái trở thành, cái bị tạo thành và cái bị điều kiện ở
đây. Nhưng vì có một cái không sinh, không bị trở thành, không bị tạo thành, không bị điều
kiện, do đó các ông biết được sự giải thoát ra khỏi cái sinh, cái trở thành, cái bị tạo thành và cái bị điều kiện”.
Thiền
tông gọi pháp vô vi đó là Tính, hay Tánh. Nơi đây, quý
ngài Ngô Thì Nhậm gọi pháp vô vi đó, cái bất tử đó, cái Niết-bàn đó chính là cái mãi mãi ở trong khoảng trời đất, ngàn
muôn đời không bao giờ tắt. Chúng ta cũng gọi đó là Pháp. Mặt khác, kinh Lăng nghiêm phân tích rằng, đừng gọi đó là cái gì tách biệt: bởi vì
chính phiền não cũng là Niết-bàn. Bởi vì sóng không lìa nước, ảnh không lìa gương.
Ngay
khi bạn thấy ảnh hình hiện ra nơi gương tâm, bạn sẽ thấy rằng ảnh hình không
lìa tánh phản chiếu, nghĩa là, toàn Tướng tức Tánh. Và toàn Tánh tức Tướng. Ngay
khi bạn nghe một âm thanh, bạn sẽ có thể trực nhận rằng âm thanh không rời tánh nghe, và ngược lại. Thấy như thế là thấy rằng, Niết-bàn chính là ngay ở đây, ngay giây phút này, ngay khi bạn
thấy và nghe mà không níu kéo hay chống chọi tất cả những gì bạn thấy và nghe.
THAM
KHẢO:
- Kinh AN 4.14. Đừng
nắm giữ tướng chung, tướng riêng:
https://suttacentral.net/an4.14/vi/minh_chau
- Kinh Udana 8.3,
bản dịch
Anh ngữ của Bhikkhu Ānandajoti:
https://suttacentral.net/ud8.3/en/anandajoti