Không Hải đã học gì ở Trung Quốc?

khong hai

Không Hải đã học gì ở Trung Quốc?

Ronald S. Green - Nguyên Hiệp dịch

 

Không Hải (空海, 774-835 CN) vẫn là một trong những nhân vật lịch sử nổi tiếng nhất tồn tại trong tâm trí người Nhật và hình ảnh của ông hiện diện khắp đất nước này. Vì ông đã đưa Phật giáo Mật tông (Shingon: Chân ngôn) vào đất nước mình vào đầu thời kỳ Heian/Bình An (794-1184) nên hoàng đế đã phong cho ông danh hiệu sau khi mất là Hoằng pháp Đại sư (Kōbō Daishi, 弘法大師). Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở đó, Không Hải còn có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển thư pháp, thi ca và lý thuyết văn học Nhật Bản. Ông đã vẽ sơ đồ cho một trong những điểm đến tâm linh và du lịch lớn nhất Nhật Bản, quần thể núi Kōya (Cao Dã), được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới. Ông cũng xây dựng các ao hồ và hệ thống thủy lợi mà chúng vẫn còn được sử dụng cho đến ngày nay tại hòn đảo quê hương Shikoku của ông. Chúng ta sẽ khó có thể nêu tên một nhân vật lịch sử nào khác nổi tiếng như vậy trong đời sống văn hóa - xã hội Nhật Bản. Cuộc đời của ông đã chạm đến trái tim của mọi người thuộc những tầng lớp xã hội và thời đại lịch sử khác nhau. Ngày nay, các Tăng sĩ nghiên cứu những lời dạy của ông, hàng nghìn người từ khắp nơi trên thế giới thực hiện cuộc hành hương Shikoku để vinh danh ông mỗi năm, và học sinh Nhật Bản học thuộc lòng những câu cách ngôn về ông.

Việc du học của Không Hải ở Trung Quốc (804-806) đặc biệt có ảnh hưởng đến sự phát triển tất cả những tài năng mà ông được ghi nhận và đối với các công nghệ mới mà ông đã đưa vào Nhật Bản. Trong những năm gần đây, một số tác phẩm nổi tiếng về Không Hải đã mô tả thời gian ông ở Trung Quốc. Những tác phẩm này bắt đầu với loạt tiểu thuyết năm 2004 của nhà văn từng đoạt giải thưởng Baku Yumemakura, người cũng nổi tiếng với tiểu thuyết và phim Âm dương sư/Yin Yang Master (Onmyoji, 1988). Bộ truyện bốn tập về Không Hải của ông đã được chuyển thể thành một bộ phim giả tưởng do Trung Quốc và Nhật Bản hợp tác sản xuất, có tên tiếng Anh là Legend of the Demon Cat (2017), đã giành được một số giải thưởng điện ảnh châu Á. Legend of the Demon Cat (妖貓傳, Yêu miêu truyện) là một tác phẩm giả tưởng tái hiện lại thời gian Không Hải ở Trung Quốc, tập trung vào việc tiếp xúc của ông với các nhà thơ, nhà thư pháp và các nhân vật chính trị. Ngoài ra còn có một bộ truyện tranh hiện đang rất được ưa chuộng do Mari Okazaki viết và minh họa về cuộc đời của Không Hải, cùng với Tối Trừng (Saichō, 最澄, 767-822), được xuất bản theo từng kỳ từ năm 2014. Phần thứ 14 được phát hành vào tháng 9 năm 2021 với tiêu đề A-Un (A ngâu).

Trước khi đến Trung Quốc

Không Hải chào đời trên đảo Shikoku của Nhật Bản trong một gia đình quý tộc. Có suy đoán rằng nơi ở của gia đình ông là Shikoku thay vì kinh đô có thể là kết quả của một số sự cố tiêu cực đã xảy ra trước khi Không Hải chào đời. Bất kể lý do là gì, gia đình ông không thể mong đợi sự ưu ái dành cho những người sống gần triều đình. Dường như rằng chính do sự ảnh hưởng của người cậu ruột Atō, là thầy hướng dẫn của thái tử về các vấn đề Nho giáo như nghệ thuật và quản lý các vấn đề công, mà Không Hải được phép vào trường đại học quốc gia và cuối cùng đã vượt qua những rào cản mà ông phải đối mặt để được chấp thuận trở thành một Tăng sĩ du học do nhà nước tài trợ ở Trung Quốc. Được đào tạo theo nền giáo dục cổ điển, Atō được cho đã xem Không Hải là một thần đồng về nghệ thuật ngôn ngữ và đã thuyết phục nhà vua để Không Hải được chấp nhận.

Nhận thấy rằng việc đào tạo theo Khổng giáo tại trường đại học không đủ thỏa mãn sở thích của mình nên Không Hải đã bỏ học sau ba năm, xuất gia làm một Sa-di và bắt đầu tu tập thiền định ở trong những ngọn núi xa xôi. Trong thời gian này, ông nhận ra rằng để thực sự am tường các trường phái triết học, thi ca, thư pháp, địa chất và và quản lý nhà nước tiên tiến hơn của thế giới, ông cần phải học với những vị thầy hàng đầu về những môn học này. Vào thời điểm đó, Nhật Bản thường sang Trung Quốc để học hỏi những kỹ năng này.

Với ảnh hưởng chính trị của người cậu Atō và có thể rằng của những thiền sư cấp cao ở trong cơ quan tôn giáo nhà nước, Không Hải đã được chấp thuận tham gia phái đoàn sứ thần Nhật Bản gồm bốn con tàu đến Trung Quốc vào năm 804, khi đó ông 30 tuổi. Trong số những người trong chuyến đi có bốn người về sau đã trở nên quan trọng trong lịch sử Nhật Bản. Con tàu số 2 chở các quan lại triều đình, bao gồm một phó sứ thần và vị Tăng sĩ Phật giáo Tối Trừng, người về sau cũng trở thành một nhân vật nổi tiếng ở Nhật Bản.

Tối Trừng đã thành lập chùa Diên Lịch (Enryakuji, 延暦寺), ban đầu là một thiền am nhỏ, trên núi Hiei ở phía Đông Bắc của kinh đô Heian, ngày nay là Kyoto. Một số thành viên của triều đình hiểu rằng phía Đông Bắc rất quan trọng trong việc bảo vệ kinh thành theo các nguyên tắc phong thủy, và họ cũng thấy rằng tinh thần độc lập của Tối Trừng có thể hữu ích trong việc chống lại sự ảnh hưởng chính trị của các Tăng sĩ quyền lực liên quan đến những tổ chức Phật giáo lớn. Vì những lý do này, ông đã được chọn đến Trung Quốc và được hỗ trợ sau khi trở về để giới thiệu Phật giáo Thiên Thai và mở rộng chùa Diên Lịch thành trung tâm chính của Phật giáo Nhật Bản cho đến ngày nay.

Đi cùng với Tối Trừng trên con tàu số 2 còn có Nghĩa Chân (Gishin, 義真, 781-833), người đã kế nhiệm ông làm vị Tổ Thiên Thai trên núi Hiei. Năm 824, Nghĩa Chân trở thành vị trụ trì Thiên Thai đầu tiên chính thức được triều đình công nhận. Tối Trừng có thể hiểu được ý nghĩa của các chữ Hán trong các bản kinh Phật giáo Hán ngữ nhưng không thể nói tiếng Trung Quốc. Nghĩa Chân đóng vai trò là người phiên dịch cho ông. Một trong những điểm mạnh nhất của Không Hải khi lập luận về nhu cầu thành lập Chân Ngôn tông (Shingon) ở Nhật Bản là khả năng của ông trong việc phân loại giáo lý Phật giáo theo cách khiến các Phật tử thấy lý do tại sao họ cần Phật giáo Mật tông. Ngược lại, Nghĩa Chân được giao nhiệm vụ to lớn là diễn giải và hệ thống hóa những tư tưởng và tác phẩm của Tối Trừng sau khi ông qua đời.

Trong số những người trên con tàu số 1 có Quất Dật Thế (Tachibana no Hayanari, 橘逸勢, 782-844) và Không Hải. Quất Dật Thế là một nhà thư pháp theo "phong cách tu sĩ" (J. Reisho; C. Lishu), tức viết vuông vắn và góc cạnh, nhấn mạnh vào các nét ngang. Thư pháp được coi là hình thức nghệ thuật cao nhất ở Trung Quốc và khắp Đông Á ít nhất là từ thời nhà Hán (206 TCN - 220 CN). Nó ảnh hưởng đến sự phát triển hội họa phong cảnh và các chữ viết cổ điển vẫn được noi theo cho đến ngày nay. Cùng với thiên hoàng Tha Nga (Saga, 嵯峨) và Không Hải, Quất Dật Thế được xem là một trong "ba cây bút" của Nhật Bản, tức ba nhà thư pháp vĩ đại của thời đại họ. Nếu bốn người này, Không Hải, Tối Trừng, Nghĩa Chân và Quất Dật Thế, không đến được Trung Quốc và trở về an toàn, người ta khó có thể hình dung được lịch sử Nhật Bản sẽ diễn ra như thế nào.

Không Hải hẳn đã rất phấn khích khi cuối cùng được đến Trung Quốc, trung tâm của nghệ thuật và văn hóa. Tuy nhiên, ông cũng có thể đã lo lắng khi biết rằng một số chuyến hành trình trước đó từ Nhật Bản đã kết thúc với đắm tàu ​​và mất mạng. Như được số phận sắp đặt, việc Không Hải đến Trung Quốc và rời khỏi nước này sớm hơn ngoài kế hoạch chỉ đạt được nhờ thời gian trùng khớp ngẫu nhiên. Đây là chuyến viếng thăm thứ 16 của một phái đoàn Nhật Bản kể từ chuyến công du chính thức đầu tiên đến Trung Quốc vào năm 630. Không lâu sau chuyến đi của Không Hải, vào năm 838, sứ bộ cuối cùng từ Nhật Bản đã đi thuyền đến Trung Quốc chở theo vị Tăng của phái Thiên Thai Viên Nhân (Ennin, 円仁, 794-864). Trong chuyến đi đó, cuộc đàn áp Phật giáo bắt đầu ở Trung Quốc dưới thời hoàng đế Vũ Tông (trị vì 840-846), và Viên Nhân đã bị trục xuất cùng với tất cả các Phật tử nước ngoài vào năm 847[1].

Vào thời điểm Không Hải thực hiện chuyến hành trình, vì mối quan hệ giữa các nước Đông Á rất căng thẳng nên đã phải tránh tuyến đường phía Bắc được ưa thích để đi theo tuyến đường phía Nam, điều này có nghĩa rằng việc đi thuyền sẽ khó khăn hơn rất nhiều. Tệ hại hơn, vào thời điểm đó, Nhật Bản có chính sách mà nó được hình thành như một sự tự tôn, đó là đi bằng tàu do chính nước họ đóng. Những con tàu đó, so với những con tàu do Trung Quốc hay Hàn Quốc đóng, không đủ bảo đảm để đi ở biển sâu và chúng dễ bị trôi dạt theo dòng hải lưu. Tuy nhiên, hành khách có thể cảm thấy rằng đi cùng các Tăng sĩ Phật giáo là điều may mắn[2].

Bất chấp nguy hiểm và khó khăn tài chính mà ông có thể gặp phải, Không Hải rõ ràng rất muốn đi. Ngược lại, Tối Trừng đã không tìm cách đi, mặc dù ông ủng hộ một bản kiến ​​nghị gửi hai vị Tăng đến Trung Quốc để tìm hiểu về Phật giáo Thiên Thai và mở học viện Phật giáo của riêng họ tại Nhật Bản. Tuy nhiên, chính thiên hoàng Kanmu đã quyết định Tối Trừng là ứng cử viên tốt nhất cho nhiệm vụ này[3].

Chuyến hành trình nguy hiểm đến Trung Quốc

Theo hồ sơ triều đình (Nihon Kōki), các con tàu số 1, 2, 3 và 4 lần lượt giương buồm đi về phía Nam. Đầu tháng kế tiếp, một cơn bão đã đánh tan tác các con tàu. Tàu số 1 chở Không Hải đã bị thổi bay xa khỏi lộ trình và lênh đênh trên biển khoảng một tháng trước khi đến Phúc Châu ở Trung Quốc (nay là tỉnh Phúc Kiến), cách xa về phía Nam so với điểm đến đã định. Tàu số 2 trôi dạt vào bờ tại Minh Châu, phía Bắc tỉnh Chiết Giang. Tàu số 3 bị hư hỏng và trở về Nhật Bản, khởi hành lại vào giữa năm 805. Lần này, con tàu trôi dạt và đắm ​​trên một hòn đảo hoang ở phía Nam. Hoàn cảnh của tàu số 4 không được biết đến, mặc dù một số ghi chép cho thấy nó cũng bị đắm.

Do các vấn đề chính trị đang diễn ra và thực tế là các quan lại địa phương ở Phúc Châu không quen giao thiệp với người nước ngoài, nên phái đoàn đã bị giam giữ thêm một tháng nữa trong khi các cuộc điều tra có thể được thực hiện tại kinh đô Trung Quốc. Người ta lo ngại rằng nhóm của Không Hải là gián điệp đang tìm cách xâm nhập vào Trung Quốc.

Nghiên cứu thi ca và thư pháp Trung Quốc

Nhóm 23 người của Không Hải đã đi bộ hơn 1.600 km để đến Trường An, kinh đô của Trung Quốc. Khi họ đến nơi, Tối Trừng đã rời đi ba tháng, và cùng với Nghĩa Chân đang học trên núi Thiên Thai.

Ở Trường An, Không Hải chứng kiến thời kỳ hoàng kim của âm nhạc, điêu khắc và những loại hình nghệ thuật khác. Bấy giờ có các họa sĩ Trương Cao, Châu Thần và Biên Cảnh; các vị thầy văn học Hàn Dũ (768-824) và Liễu Tông Nguyên (773-819); và nhà thơ Bạch Cư Dị (772-846, còn được gọi là Bạch Lạc Thiên), người được mô tả là người bạn thân cận của Không Hai trong bộ phim Yêu miêu truyện. Các tiểu sử kể rằng khi ở Trường An, Không Hải đã học với "một vị thầy viết văn", người mà các học giả Chân Ngôn tông về sau xác định là Hàn Dũ. Bất kể Không Hải học với ai, ông đều có thể biên soạn và sáng tác một nghiên cứu toàn diện về Lục triều và các lý thuyết thơ đầu thời Đường được gọi là Văn kính bí phú luận (Bunkyō Hifuron) mà nó vẫn là một nguồn cực kỳ quan trọng trên toàn thế giới đối với các học giả về chủ đề này ngày nay, một phần là do phần lớn những gì Không Hải mô tả đã bị mất trong các cuộc chiến tranh và hỏa hoạn ở Trung Quốc.

Không Hải đã quan tâm đến thư pháp từ khi còn nhỏ và dành sự quan tâm đối với phong cách viết thời thượng ở trong giới quý tộc Nhật Bản. Vào thời điểm đó, nhà thư pháp Trung Quốc Vương Hy Chi (307-365) được xem là nhà thư pháp vĩ đại nhất mọi thời đại. Phong cách thư pháp của ông được quyết định bởi các luật lệ chính thức. Sau khi tham khảo những nhà thư pháp giỏi nhất ở Trường An, khi trở về Nhật Bản, Không Hải đã rất thành thạo phong cách của Vương Hy Chi. Không phải sự tinh thông của ông về Phật giáo Mật tông, mà chính kỹ năng thư pháp của ông đã khiến thiên hoàng Saga (786-842, trị vì 809-823) mời ông vào triều đình sau khi ông trở về Nhật Bản. Tuy nhiên, ngay cả với kỹ năng của mình, khi làm việc với thiên hoàng Saga - vì ông là thiên hoàng - Không Hải không thể phê bình phong cách và khả năng thư pháp của nhà vua.

Từ thời Lục triều của Trung Quốc, có thể thấy nhiều khuynh hướng khác nhau trong thư pháp. Vương Hy Chi đến từ miền Nam Trung Quốc và phong cách của ông chịu ảnh hưởng khu vực đó. Phong cách của truyền thống chữ viết phương Bắc có thể được Không Hải ưa chuộng để viết văn bia, và Không Hải đã tìm thấy sức mạnh của mình trong thư pháp từ truyền thống đó[4]. Tuy nhiên, trong khi ông tiếp thu những phương pháp của trường phái đó, nhưng giống như những nghệ sĩ vĩ đại khác, ông đã tạo ra phong cách lai của riêng mình mà ông đã mang về Nhật Bản. Không Hải rất coi trọng nhà thư pháp thời Đường là Nhan Chân Khanh (709-785) thuộc truyền thống chữ viết phương Bắc. Sự nhấn mạnh của Không Hải vào cách sử dụng ngôn ngữ đặc biệt đã trở nên nổi bật trong triết lý Phật giáo của ông.

Nghiên cứu về Phật giáo Mật tông Trung Quốc

Lúc đầu, Không Hải sống tại dinh thự của sứ thần Kadonomaro và có lẽ đã tham gia nhiều hoạt động liên quan đến nhà nước với ông. Không Hải đóng vai trò là người viết và phiên dịch cho vị sứ thần này, và một số lá thư viết hộ của ông vẫn còn tồn tại. Tuy nhiên, Không Hải vẫn ở lại Trung Quốc khi vào ngày 18 tháng 5, vị sứ thần rời đi cùng với Tối Trừng và Nghĩa Chân, những người đã đạt được mục đích nghiên cứu Phật giáo Thiên Thai để họ có thể thành lập nó như một trường phái mới ở Nhật Bản.

Sau đó, Không Hải chuyển đến chùa Tây Minh ở Trường An[5]. Tây Minh là một ngôi chùa lớn do hoàng đế Cao Tông (635-756) thành lập, nơi các sinh viên du học từ Nhật Bản thường trú ngụ. Tại đó, Không Hải bắt đầu làm việc với một nhóm chuyên gia về một dự án dịch thuật lớn do triều đình tài trợ dưới sự lãnh đạo của Tam tạng Pháp sư Bát Nhã (734 - khoảng 810) đến từ Kashmir. Không Hải có thể đã cải thiện khả năng tiếng Sanskrit của mình bằng cách học với vị học giả văn bản này để đến khi gặp được bậc thầy Mật tông của mình, ông có thể hiểu rõ hơn về chữ viết Ấn Độ.

Theo danh sách các tài liệu mà Không Hải mang về, cuối cùng ông đã được giới thiệu đến gặp Huệ Quả (746-805), vị thầy Mật tông của triều đình Trung Quốc, người đã hướng dẫn cho ông về mạn-đà-la Thai tạng giới và mạn-đà-la Kim cương giới, và ban lễ quán đảnh (abhiṣeka) năm phần cho ông. Trong vòng ba tháng, Không Hải đã nhận được lễ quán đảnh cuối cùng và do đó được thọ giới đầy đủ như một vị thầy của Phật giáo Mật tông[6].

Huệ Quả được xem là vị Tổ thứ bảy của Phật giáo Chân ngôn Nhật Bản, và Không Hải là vị Tổ thứ tám[7]. Huệ Quả đã phục vụ ba thế hệ hoàng đế nhà Đường, thực hiện các nghi lễ để bảo vệ họ, giống như Không Hải về sau đã làm cho các vị thiên hoàng ở Nhật Bản. Ngày nay, Chân Ngôn tông xem cuộc gặp gỡ của Không Hải với vị thầy Mật tông này là mệnh lệnh của số phận. Không Hải về sau đã viết rằng trong lần gặp đầu tiên của họ, Huệ Quả đã nói rằng ông đã đợi Không Hải và hỏi tại sao ông lại đến trễ như vậy. Trong một tác phẩm khác, Không Hải nói rằng ở Nhật Bản, ông thấy mình được đưa đến gặp Huệ Quả ở Trung Quốc.

Đối mặt với nhiều dấu hiệu suy thoái về mức độ phổ biến của Phật giáo Mật tông ở Trung Quốc, người ta thực sự có thể cảm thấy rằng dòng truyền thừa đang gặp nguy hiểm. Có thể diễn giải việc Huệ Quả được cho chờ Không Hải từ góc độ này. Nếu vậy, Không Hải hẳn đã cảm thấy một ý thức trách nhiệm sâu sắc. Ngay khi họ gặp nhau, Huệ Quả không lãng phí thời gian mà ngay lập tức đưa Không Hải đến trước mạn-đà-la Thai tạng giới trong lần truyền giới đầu tiên.

Thủ tục cho việc nhập vào mạn-đà-la Thai tạng giới được mô tả trong chương thứ hai của kinh Đại Nhật Như Lai (Mahāvairocana-sūtra). Tóm lại, người thọ giáo thực hiện những điều sau:

- Phát nguyện giữ giới.

- Người thầy sẽ bịt mắt người thọ giới.

- Được hướng dẫn trước một mạn-đà-la lớn được vẽ trên mặt đất.

- Ném một bông hoa lên mạn-đà-la.

Vải bịt mắt được tháo ra và người thọ giới đồng nhất với vị Phật hay Bồ-tát mà bông hoa rơi trúng trong mạn-đà-la. Ví dụ, nếu bông hoa rơi vào hình ảnh của Bồ-tát Quan Âm (Kannon trong tiếng Nhật), thì người thọ giới sau đó sẽ được lòng từ bi dẫn dắt.

Vị thầy rảy nước trí tuệ năm phần lên đầu người thọ giới, tượng trưng cho sự tái sinh vào dòng tộc chư Phật[8].

Huệ Quả bắt đầu nghiên cứu Phật giáo Mật tông vào năm chín tuổi với vị thầy và dịch giả nổi tiếng Bất Không Kim Cương (Amoghavajra, 705-774), vị Tổ thứ sáu của Chân Ngôn tông. Vào năm 20 tuổi, ông thọ giới Cụ túc. Hai năm sau, ông nhận lễ quán đảnh cuối cùng, xác lập ông là một vị thầy Phật giáo Mật tông. Do đó, mặc dù Huệ Quả đã biết Bất Không Kim Cương trong 20 năm, nhưng từ khi ông xuất gia cho đến lễ quán đảnh cuối cùng dường như chỉ mất có hai năm. Tình huống này gần giống với tình huống của Không Hải.

Huệ Quả viên tịch vào tháng 12 năm 805. Các tiểu sử của Không Hải thường khẳng định rằng ông đã nhận được lệnh của hoàng đế để viết văn bia chính thức cho Huệ Quả. Những người theo Huệ Quả có thể đã chọn Không Hải vì ông đã được khai thị về cả hai mạn-đà-la và được học toàn bộ giáo lý của Huệ Quả[9]. Người ta cũng cho rằng Không Hải đã đảm nhiệm vai trò lãnh đạo trong lễ tang của Huệ Quả và sắp xếp nơi an nghỉ cho ông. Nếu ông thực sự chỉ đạo những hoạt động này, mặc dù thực tế là những đệ tử khác đã có mặt và biết Huệ Quả trong nhiều thập kỷ, thì điều đó có thể cho biết rằng Không Hải thực sự đã đảm nhận một số vai trò đặc biệt trong cuộc đời của Huệ Quả, như Chân Ngôn tông và các tiểu sử đã nêu ra.

Những tháng cuối cùng ở Trung Quốc và trở về Nhật Bản

Không Hải ở Trung Quốc chưa đầy ba năm thì trở về Nhật Bản, thời điểm đó gần nửa năm kể từ khi Huệ Quả hoàn thành việc truyền trao của mình. Theo Ngự di cáo (di chúc và chỉ dẫn cuối cùng của Không Hải dành cho các đệ tử), Không Hải trở về Nhật Bản như một nghĩa vụ đối với Huệ Quả là truyền bá điều tốt lành cho thế giới. Một ngày sau lễ tang của Huệ Quả, Không Hải đã đệ trình một văn thư lên vị sứ thần Nhật Bản Tōnari mới đến, nói rằng mục đích duy nhất của ông là truyền bá Tam mật của Phật giáo Mật tông. Tam mật là sức mạnh bí ẩn để tạo nên sự giác ngộ, đó là sức mạnh của cơ thể khởi sinh thông qua ấn quyết (mudra), sức mạnh của lời nói khởi sinh thông qua thần chú (mantra), và sức mạnh của tâm khởi sinh thông qua mạn-đà-la (mandala). Không Hải nói thêm rằng nếu ông đợi phái đoàn Nhật Bản tiếp theo, ông sẽ trở thành một ông già tóc bạc trước khi có thể trở về quê hương[10].

Cũng có thể là Không Hải không còn đủ điều kiện để ở lại Trường An nữa. Không rõ ông sống ở đâu hoặc học với ai sau khi Huệ Quả qua đời. Có một lá thư của Không Hải gửi cho một vị quan ở Nhạc Châu, cách Trường An khoảng 1.150 km, yêu cầu được tiếp cận "các tuyển tập nội và ngoại điển", tức các tài liệu Phật giáo và ngoài Phật giáo[11]. Dường như rằng Không Hải đã dành vài tháng tiếp theo ở đó để sao chép các văn bản. Thỉnh lai mục lục (danh sách các tác phẩm mang từ Trung Quốc về) của Không Hải đề cập đến 461 bộ kinh, luật và luận mà ông đã mang về Nhật Bản. Các nguồn cho biết rằng ông đã thu thập được hơn 300 bộ ở Trường An. Điều này có nghĩa rằng ông đã sao chép thêm 161 bộ nữa ở Nhạc Châu. Mất bốn tháng kể từ khi ông viết lá thư thỉnh cầu các tác phẩm cho đến ngày khởi hành. Theo ước tính này và những truyền thuyết về sau, Không Hải đã viết gần như không ngừng nghỉ trong những tháng đó, như ông nói là "quên ăn bỏ ngủ". Mặc dù điều này muốn nói đến sự kiên trì của ông, nhưng nó cũng có thể ngụ ý rằng nguồn quỹ hạn hẹp của ông đã cạn kiệt.

Trong số những tác phẩm mà Không Hai đã đọc có kinh, luật, luận, tiểu sử, thơ ca, thi kệ, văn bia, các tác phẩm bói toán, y học và nhiều ngành khoa học khác nhau của Ấn Độ. Rõ ràng, Không Hải quan tâm đến việc mang về nhiều thông tin có thể hữu ích.

Một số bài thơ còn tồn tại được gán cho những nhà thơ và nghệ sĩ Trường An đã bày tỏ nỗi buồn khi tiễn biệt Không Hải và Quất Dật Thế. Ví dụ, một bạn học tại chùa Thanh Long đã viết bài thơ Gửi Tam tạng Nhật Bản và Thượng nhân Không Hải:

Giống như chư Thánh hiền thời xưa đã nói

Những người đã nói về sự thật của khổ và không,

Rất nhiều điều nên được truyền từ sáu vị Tổ trước

Đến hòn đảo xa xôi...[12].

Bài thơ được Không Hải gửi lại có thể tìm thấy trong tuyển tập thơ Kinh quốc tập (Keikokushū) do hoàng đế ủy nhiệm[13]:

Chúng ta học cùng giáo pháp,

Dưới cùng một vị thầy,

Huynh và tôi là bạn.

Hãy nhìn sương trắng ở đằng kia

Trôi lơ lửng trong không trung

Trên đường về đỉnh núi.

Cuộc chia tay lần nay chắc là lần gặp cuối

Ở trong cuộc đời này.

Không chỉ ở trong giấc mơ,

Mà tận sâu thẳm trong suy nghĩ

Chúng ta hãy thường xuyên gặp nhau ở sau này[14].

Không Hải và Quất Dật Thế cùng lên tàu của Tōnari. Theo một truyền thuyết nổi tiếng, họ đã gặp phải một cơn bão mạnh trên biển với những cơn gió gầm rú. Con tàu bị sóng đánh tung, và có vẻ như đó có thể là hồi kết cho tất cả những người trên tàu. Vào thời điểm đó, theo một số tác phẩm, Không Hải đã ném một chiếc chày kim cương lên trời và cơn bão đột nhiên lắng dịu. Những tác phẩm khác nói rằng ông đã ném chiếc chày kim cương xoa dịu cơn bão từ bờ biển Trung Quốc trước khi rời đi. Đối với Chân Ngôn tông, chày kim cương là một nhạc cụ nghi lễ tượng trưng cho việc đoạn trừ tham dục, những cơn bão của thế gian. Nó cũng là biểu tượng của Bồ-đề tâm. Dường như rằng Không Hải và Tối Trừng có thể đã nhập khẩu những nhạc cụ chày kim cương thực sự đầu tiên (khác với các biểu tượng tượng trưng cho chày kim cương) vào Nhật Bản. Không Hải đã nhập khẩu nhiều loại chày kim cương khác nhau, loại có ba chấu, năm chấu, một đầu nhọn, v.v.

Câu chuyện không nêu rõ loại chày kim cương mà Không Hải đã ném, nhưng một truyền thuyết vẫn còn tồn tại ở núi Kōya nói rằng đó là một chày kim cương ba chấu. Chày kim cương ba chấu có thể tượng trưng cho Tam bảo. Nó cũng có thể tượng trưng cho Tam mật của Chân Ngôn tông. Theo truyền thống Chân Ngôn tông được ghi lại trong kinh Đại Nhật Như Lai (Mahāvairocana-sūtra), một người muốn thiết lập một quần thể chùa Phật giáo Mật tông theo bố cục của một mạn-đà-la nên ném một chày kim cương lên không trung. Hướng mà đầu chày kim cương chỉ khi rơi xuống là nơi ngôi chùa nên được xây dựng. Trong số các nguồn khác, câu chuyện về Không Hải ném chày kim cương được ghi lại trong Bình gia vật ngữ (Heike monogatari, khoảng thế kỷ XIII), một trong những tác phẩm được yêu thích nhất của Nhật Bản. Câu chuyện kết luận rằng Không Hải đã tìm lại được chiếc chày kim cương mà ông đã ném từ Trung Quốc đang chiếu sáng và treo lủng lẳng trên một cành cây thông trên núi Kōya, đầu chày hướng xuống dưới để chỉ vị trí mà ông nên xây dựng quần thể chùa của mình. Du khách đến núi Kōya ngày nay có thể nhìn thấy một cây thông được xác nhận là hậu duệ về mặt sinh học của cây mà Không Hải tìm thấy chày kim cương của mình treo trên đó. Cây này, được che chắn bởi một bức tường bao nhỏ, thì khác với những cây thông ở khu vực đó ở chỗ nó là loại cây tạo ra hai lá trên mỗi chùm, nhưng đôi khi có các chùm ba lá, như chày kim cương ba chấu. Ngày nay, du khách khi đến đây thường tìm kiếm xung quanh cây thông này với hy vọng mang về nhà một loại ba lá may mắn.

Nguồn: asianstudies.org



[1] Viên Nhân (814-889) là cháu của Không Hải, một Tăng sĩ thuộc Thiên Thai tông, ông đến Trường An vào năm 855 bằng một con tàu thương mại.

[2] Wakamori, 26.

[3] Paul Groner, Saicho: The Establishment of the Japanese Tendai School (Honolulu: University of Hawai’i Press, 2000), 38.

[4] Wakamori, 33.

[5] Xem danh sách các tài liệu mà Không Hải mang về Nhật Bản ở trong KZ, Kōbō daishi zenshū (The Complete Works of Kōbō Daishi), Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Mikkyō, Đại học Kōya-san biên tập (Yoshikawa kobunkan, Tokyo, 1910. Tải bán 1934-1935, 1965), 1:69.

[6] KZ, Kōbō daishi zenshū, 1:69

[7] Các vị Tổ là: 1. Mahāvairocana, 2. Vajrasattva, 3. Nāgārjuna, 4. Nāgabodhi, 5.Vajrabodhi, 6. Amoghavajra, 7. Huệ Quả, 8. Không Hải.

[8] Takakusu Junjirō và những người khác biên tập, Taishō shinshō daizōkyō (Taishō Tripiṭaka), 85 tập (Tokyo: Taishō Issaikyō Kankōkai, 1924-1932): 18:11b-12b.

[9] Ryūichi Abé, The Weaving of Mantra, Kūkai, and the Construction of Esoteric Buddhist Discourse (New York: Columbia University Press, 1999), 127.

[10] KKZ, 6:347.

[11] KKZ, 6:339.

[12] Trích trong Watanabe 91.

[13] Một tuyển tập các tác phẩm của những nhà thơ Trung Quốc và Nhật Bản sống từ năm 707-827.

[14] Beatrice Lane Suzuki, “In Buddhist Temple: Kōyasan”, Eastern Buddhist, tập 5, số 4. (1931): 312.

Chia sẻ: facebooktwittergoogle
Các bài viết khác