Thần linh trong thần thoại cổ đại
Thần linh trong thần thoại cổ đạ
Thần linh trong thần thoại cổ đại
Hajime Nakamura
Trong vài thập kỷ qua, có một sự hồi sinh trong việc nghiên cứu về thần thoại so
sánh từ nhiều quan điểm và phân ngành khác nhau. Các nhà ngôn ngữ học, nhân loại
học, các chuyên gia và sử gia tôn giáo đã nghiên cứu sâu rộng về thần thoại Cận
Đông cổ đại, Ấn-Âu, Đông Á và thần thoại cổ xưa hay thời tiền văn tự. Ví dụ, ta
có thể nhắc đến công trình của Eliade, Lévi-Strauss, Dumézil, Wikander,
Durchesne-Guillemin, v.v. Vì mục đích của tác phẩm này, tôi không thể khảo sát
các vấn đề chuyên môn được tranh luận như một kết quả của việc nghiên cứu mới
này. Thay vào đó, điều tôi muốn làm là mô tả vắn tắt loại trải nghiệm tôn giáo
mà người ta tìm thấy ở nơi các khu vực văn hóa cổ đại trước khi xuất hiện tư
tưởng triết học. Tôi sẽ tự giới hạn chủ yếu ở nơi các thần thoại của Ấn Độ và
Nhật Bản cổ đại với thỉnh thoảng đề cập đến những ngữ cảnh khác.
Những thần thoại được phản ánh trong Ṛg-Veda và Avesta của Iran có
nhiều điểm gặp gỡ, chẳng hạn ở nơi tên của các vị thần và những thuật ngữ khác.
Điều này cho thấy rằng cả hai hệ thống thần thoại có một nguồn chung vào thời cổ
đại. “Nếu không có sự cải cách tôn giáo của Zarathustra, điều tất nhiên xảy
ra sau sự phân tách các nhánh Ấn Độ và Ba Tư, chúng ta sẽ thấy mối liên hệ lớn
hơn nhiều ở nơi lĩnh vực thần thoại giữa Vệ-đà và Avesta đã dẫn đến một sự dịch
chuyển và biến đổi rất đáng kể các quan niệm thần thoại ở trong tôn giáo Iran.
Nếu nguồn văn học Avesta mà chúng ta có có niên đại trước sự cải cách, thì sự
tương đồng như vậy rõ ràng lớn hơn nhiều.”[1]
Cả hai thần thoại đều có một vị thần liên quan đến mặt trời (Mitra trong Veda
= Mithra trong Avesta), một vị thần được gọi là “con trai của sông
hồ” (apāṃ napāt trong Veda = apām napāt trong Avesta),
và một vị thần được nối kết với rượu soma (Gandharva trong Veda =
Grandereva trong Avasta). Từ những bản văn sớm nhất của Ấn Độ và
Iran, rõ ràng rằng những người Ấn-Iran đã công nhận hai loại thần linh, thứ nhất
là các arura trong Vệ-đà hay ahura trong Avesta, và
thứ hai là các deva trong Vệ-đà và daeva trong Avesta.[2]
Nhóm trước ban đầu được quan niệm như những vị vua hùng mạnh, đi khắp không
trung bằng các cỗ xe của họ được kéo bởi những chiến mã phóng như bay. Họ có tâm
tính nhân từ và hầu như không có những điểm xấu xa và trái đạo đức.[3]
Các bản văn cho biết rằng trải nghiệm tôn giáo của con người thời Vệ-đà
tập trung vào thế giới này. Có một sự tương quan giữa thế giới tự nhiên, vũ trụ
và đời sống cộng đồng của con người. Con người đã hiến tế cho các vị thần, và
bản thân các hiện tượng tự nhiên chính chúng hoặc được thần linh hóa hoặc được
nối kết với ý nghĩa thiêng liêng hầu như ở mọi thời điểm. Những nhà tiên tri
Vệ-đà ưa thích chiêm nghiệm thế giới tự nhiên và chìm đắm trong sự kỳ diệu của
thế giới tự nhiên. Đối với họ, mưa gió, mặt trời, các vì sao là những thực thể
sống và là một phần không thể tách rời đời sống tâm linh. Nhiều bài thánh tụng
không nói đến một vị thần mặt trời, thần mặt trăng hay một vị thần lửa, v.v.;
nhưng chính mặt trời chiếu sáng, mặt trăng sáng tỏ ở trên bầu trời về đêm, ngọn
lửa cháy rực trong lò sưởi hay trên bàn thờ, hay thậm chí ánh sáng chiếu qua đám
mây, tất cả là những biểu hiện của cái thiêng liêng huyền bí. Sự thâm nhập
thiêng liêng này của thế giới hiện tượng tự nhiên và đời sống đoàn thể của con
người có thể được xem là hình thức sớm nhất của tôn giáo Vệ-đà.
Một thái độ như vậy cũng là đặc điểm của Thần đạo sơ kỳ. Tôn giáo của Nhật Bản
sơ kỳ nhấn mạnh lòng biết ơn đối với những tác lực tốt của tự nhiên, trong khi ở
một mức độ nào đó cũng nhân nhượng các tác lực xấu. Những tác lực này được gọi
một cách dễ dãi là “kami” mà thường được dịch là “thần linh”.
Sau giai đoạn này đã xuất hiện những tư biện khác nhau về ý nghĩa của đời sống
tôn giáo. Các bài thơ Vệ-đà tìm cách khám phá bản chất của hiện tượng tự nhiên.
Các nhà thơ diễn đạt những trải nghiệm của bản thân thành những hình ảnh thiêng
liêng và tìm cách giải thích các hiện tượng bằng những nguyên nhân tương tự với
trải nghiệm của chính họ. Các hiện tượng tự nhiên dần được làm cho quan trọng
lên, được biến thành các nhân vật thần thoại, phong thành thần và nữ thần.
Ví dụ, việc thờ phụng thần mặt trời là một trường hợp dễ thấy.[4]
Ở Ấn Độ, mặt trời được thần linh hóa là sūrya.[5]
Trong Ấn Độ giáo về sau, việc thờ phụng mặt trời trở thành một nghi lễ tôn giáo
quan trọng. Trong các Purāṇa, việc này do các hoàng gia, mà họ tự thừa
nhận là hậu duệ của mặt trời, thực hiện. Chính Đức Phật được cho thuộc về một
gia tộc có tổ tiên từ mặt trời (ādicca-bandhu). Ở Nhật Bản, mặt trời được
thần linh hóa là Nữ thần Amaterasu-Ō-mikami (天照大神/
Thiên Chiếu Đại Thần, hay
天照大御神/
Thiên Chiếu Đại Ngự Thần, hoặc
天照皇大神/Thiên
Chiếu Hoàng Đại Thần), vị được thờ phụng như là tổ tiên của hoàng tộc. Người ta
cho rằng mặt trời vào lúc giữa trưa thì hóa thành thần linh. Thần thoại tổ tiên
mặt trời của hoàng tộc được chấp nhận rộng rãi trong các thị tộc khác nhau cư
trú ở Nhật Bản, bao gồm nhiều thị tộc có nguồn gốc từ Trung Quốc và Hàn Quốc.
Khuynh hướng này không có ở Ấn Độ. Tuy nhiên, Nữ thần Mặt Trời của Nhật Bản được
hầu hết tín đồ Thần đạo xem như một nhân vật lịch sử thật sự, trong khi thần mặt
trời của Ấn Độ không như vậy. Về người Hy Lạp, người ta nói, “Mỗi triết gia
Hy Lạp, bất kể vị ấy nghĩ gì khi trưởng thành, đều được dạy từ nhỏ rằng hãy xem
mặt trời và mặt trăng là những vị thần. Anaxagoras bị truy tố tội bất kính bởi
vì ông nghĩ rằng chúng đã chết.”[6]
Cũng vậy, bình minh được tán dương trong các Vệ-đà như là Uṣas, một thiếu
nữ xinh đẹp và e ấp. Ở phương Tây, chúng ta có Eos và Aurora, và chúng ta tìm
thấy ở Nhật Bản một nhân vật tương ứng đó là Nữ thần Waka-hirume-no-mikoto (稚日女尊/Trĩ
Nhật Nữ Tôn), sự thần linh hóa mặt trời mọc. Trong các Vệ-đà, mặt trăng được thờ
phụng như là Soma. Ở Nhật Bản, việc thờ phụng mặt trăng không có chứng cứ vững
chắc, nhưng Thần Tsuki-yomi-no-mikoto (月読尊/
Nguyệt Độc Tôn) thì được nhắc đến.[7]
Trong các Vệ-đà, gió được thờ phụng là Vāyu hay Vāta, và sấm sét là
Maruts. Chúng ta cũng tìm thấy những điều tương tự ở Trung Quốc và Nhật Bản.[8]
Các Vệ-đà đã thần linh hóa nước thành Āpas. Ở Nhật Bản, có khả năng nước
không được thần linh hóa, nhưng được xác nhận có một vị thần sống ở trong đó. Ở
Ấn Độ, nữ thần của ao hồ, Sarasvatī, xuất hiện vào một giai đoạn khá sớm. Việc
thờ phụng bà được Phật giáo Kim Cương thừa (Vajrayāna) tiếp nhận,[9]
và bà cuối cùng được giới thiệu vào Nhật Bản, được tiếp nhận như một vị thần dân
gian với tên gọi “Benten” (弁財天/Biện
Tài Thiên). Việc thờ phụng bà hiện vẫn phổ biến trong dân chúng Nhật.
Tên gọi của những vị thần này ở cả Ấn Độ và Nhật Bản, cũng như ở nhiều quốc gia
khác, cho biết nguồn gốc của họ.[10]
Nhiều nhân vật nổi bật trong thần thoại Ṛg-Veda đã xuất phát từ việc nhân
cách hóa những hiện tượng tự nhiên đặc biệt.[11]
Cũng có những nhân vật khác trong thần thoại Vệ-đà được nối kết mật thiết
hơn với đời sống của cộng đồng. Họ được kính trọng như những nhân vật hùng mạnh,
được phân biệt thông qua những việc làm thần kỳ của họ. Nhóm này thuộc về Indra,
Varuṇa, Mitra, Viṣṇu, Pūṣan, hai vị Aśvin (nghĩa đen là kỵ sĩ, có thể so sánh
với dioskouroi của Hy Lạp) và Rudra. Thần Aditi (vô hạn), tương ứng với Apeiron
(không giới hạn) của Hy Lạp, được cho là không trung, mẹ, cha và con. Bà bao hàm
tất cả.
Trời được nhân cách hóa và thần linh hóa thành Dyaus trong Vệ-đà, và nhân
vật tương ứng trong tôn giáo Hy Lạp giống nhau về mặt ngữ âm là Zeus (= Dyaus).
Tuy nhiên, Zeus là một nhân vật phức tạp hơn nhiều, giống một con người hơn
Dyaus của Vệ-đà. Các thi sĩ của Ṛg-Veda nói đến Thiên phụ với hình
thức xưng hô “Dyauṣ pitaḥ”[12]
(hỡi Thiên phụ!), tương tự với “Zeus pater” trong tiếng Hy Lạp và “Juppite”
(Jovis Pater = Fatherly Jove) trong tiếng La-tinh. Ở Trung Quốc cổ đại, trời
được gọi là Thần chủ. Vua Chu tự gọi mình là “Thiên tử”, và nhà Chu (周朝)
biện minh với dân chúng rằng việc xâm chiếm nhà Thương (商朝)
của họ là theo mệnh lệnh của trời (天命/thiên
mệnh). Như vậy, họ là những người trung gian giữa con người và thế giới tự
nhiên.[13]
Trong thần thoại Nhật Bản, trời không phải là một vị thần mà là nơi các vị thần
cư ngụ, hoàn toàn khác với Dyaus hay Varuṇa của Ấn Độ và Zeus của Hy Lạp. Tuy
nhiên, nó có một vị trí cốt yếu trong thần thoại Nhật Bản. So sánh với những
truyền thống khác, việc thờ phụng trời không phát triển đầy đủ ở Ấn Độ.
Trái đất được gọi là mẹ trong Ṛg-Veda. Đây cũng là trường hợp ở trong tôn
giáo Hy Lạp,[14]
mà không có trong Nhật Bản cổ đại.[15]
Trong các thánh tụng của Ṛg-Veda, trời và đất thường cùng được cầu khẩn ở
trong hình thức một cặp đôi là Dyāvāpṛthivī (trời và đất). Ở Thessaly, Zeus được
thờ phụng cùng với nữ thần tương ứng, Dione, nhưng Dione về sau bị lãng quên.[16]
Quan điểm về trời và đất là cha mẹ chung có lẽ có nguồn gốc từ thời cổ xưa, vì
quan điểm này phổ biến trong thần thoại Trung Quốc và thần thoại New Zealand, và
có thể được suy ra từ thần thoại Ai Cập.[17]
Thần lửa,[18]
Agni (La-tinh: Ignis; Anh ngữ: Ignition) là vị thần tối cao trong các tế lễ ở Ấn
Độ. Lửa mang những phẩm vật dâng cúng từ mặt đất lên cho các thiên thần. Có một
sự thật được nhiều người biết đến là, lửa được kính trọng trong tôn giáo của
Iran, và trong những người Parsi. Ở Nhật Bản, thần lửa được thờ phụng dưới tên
gọi Kagu-tsuchi (người cha sáng chói)[19]
hay Homusubi (lửa bốc lửa). Quan niệm về lửa như một thứ có mặt khắp nơi là điểm
chung đối với cả Ấn Độ và Nhật Bản cổ đại.[20]
Nhưng khó để xác định đặc điểm của vị thần lửa của người Ấn Độ cổ đại. Mặc dù
lửa thiết yếu đối với việc hiến tế của các chủng tộc Ấn-Ấu, nhưng Thần Lửa
(Agni), vốn rất phổ biến trong tôn giáo Ṛg-Veda, dần đánh mất vị thế
trước đó của mình. Một khái niệm về lửa như nguyên lý cơ bản của vũ trụ, như
được Heraclitus chủ trương, không xuất hiện ở nơi các triết gia Hindu, những
người tìm kiếm một trạng thái phần nào tịch lặng và bình yên.
Trong số nhiều vị thần của người Ấn Độ thời Vệ-đà, Indra là vị thần nổi
tiếng nhất. Được trang bị một tia sấm sét, ngài được cho đã giết chết một ác quỷ
có tên gọi là Vṛtra. Biệt danh chính và đặc trưng của ngài là Vṛtrahan
(Kẻ giết Vṛtra). Indra Vṛtrahan, Thần Indra giết ác quỷ, xuất hiện trong
Avesta dưới dạng quỷ Indra và như một vị thần chiến thắng Vərəthragna
(một sự thay đổi rõ ràng do sự nhầm lẫn thần thoại mà việc cải cách tôn giáo của
Zarathustra đã gây ra). Nhiều học giả cho rằng Indra ban đầu là một vị thần sấm
sét, và rằng những ngọn núi mà ở đó nước bao bọc xung quanh tượng trưng cho
những đám mây. Vṛtra - ác quỷ hạn hán - được cho đã giam cầm nước.[21]
Có nhiều thánh tụng trong các Vệ-đà nói về Indra. Bởi vì những người Ārya
thời Vệ-đà vẫn đang đánh nhau một cách bạo lực với người bản xứ, nên
Indra được trình bày như một vị thần vô cùng hiếu chiến. Sức mạnh khủng khiếp và
tính hiếu chiến của ngài được mô tả lặp đi lặp lại. Các thi sĩ Vệ-đà đặc
biệt ưa thích liên hệ những trận đánh của Indra với các ác quỷ mà ngài đã hủy
diệt chúng bằng sấm sét của mình. Trời và đất đã run sợ khi Indra giết Vṛtra.
Ngài hủy diệt rồng không chỉ một lần, mà nhiều lần, và ngài luôn được thỉnh cầu
giết Vṛtra trong tương lai để giải phóng nước. Ngài có thể được xem giống như
Teutonic Thunar, vị luôn vung cái búa sấm sét Mojohnir.
Vào thời kỳ đầu, Indra hiếu chiến rõ ràng là chúa tể của các vị thần. Ngài giống
với Zeus[22]
của Hy Lạp, hay Jupiter của những người La Mã, chúa tể của các vị thần.[23]
Những đặc điểm của Zeus thì rất giống với những đặt điểm của Indra,[24]
nhưng tuy vậy ông có một đặc điểm mà Indra không có: Zeus đóng vai trò như quan
tòa công chính. Đặc điểm này cũng vắng mặt ở trong thần thoại Nhật Bản. Người ta
cho rằng các vị thần của thần thoại Nhật Bản không đóng vai trò xét xử. Đây là
một đặc điểm đóng vai trò quan trọng trong tư duy pháp lý của các quốc gia Đông
Á. (Một ngoại lệ là Yama, vị cai quản người chết trong thần thoại Vệ-đà.
Trong Đại sử thi, ông trở thành vị xét xử người chết. Nhân vật này được
sáp nhập vào trong Đạo giáo Trung Quốc, và sau đó vào trong tín ngưỡng dân gian
Nhật Bản. Ông được gọi là “Enma”, phiên âm tiếng Nhật của từ “Yama” trong
tiếng Sanskrit. Nhưng ở Trung Quốc và Nhật Bản, ông được xem có phần xa lạ đối
với quần chúng nói chung).
Trong thần thoại Nhật Bản, chúng ta có thể tìm thấy một số nhân vật tương ứng
với Thần Indra, chẳng hạn như thần sấm sét Narukami (鳴神/Minh
Thần), v.v. Thần bão tố Susano-wo-no-mikoto (須佐之男命/Tú
tá chi nam mệnh)[25]
đã giết một con rồng tám đầu bằng một thanh gươm thần diệu, thanh gươm được cho
do hoàng tộc truyền lại như một biểu tượng của vương quyền. Tính cách mạnh mẽ và
đôi khi tàn bạo của vị thần này thì hoàn toàn giống với tính cách của Indra. Tuy
nhiên, trong khi Indra thuần túy là một vị thần, Susano-wo-no-mikoto vừa là một
vị thần nhưng đồng thời cũng là một con người, và xuất hiện ở trong một khung
cảnh lịch sử với tư cách là một người bà con của tổ tiên hoàng gia Nhật Bản.
Trong số những vị thần được đề cập ở trên của tôn giáo Vệ-đà, các vị thần
sinh sản không được phân biệt rõ ràng. Ngược lại, những vị thần dạng như vậy dễ
nhận thấy ở trong Thần đạo sơ kỳ. Vị thần của sự sinh trưởng (musubi) là
một sự nhân cách hóa một đặc điểm sinh sản trừu tượng. Tajikara-no-wo (天手力男神/Thiên
thủ lực nam thần) là một dạng người được nhân cách hóa và nâng lên thành hàng
thần thánh.
Hệ thống các vị thần Vệ-đà đôi khi được gọi chung là “tất cả thần” (viśve
devāḥ). Có thời, “tất cả thần” có con số lên đến 3.339 vị, phản ánh ba
phương diện của thế giới: đất, không khí và bầu trời.[26]
Ở Nhật Bản cổ đại có một khái niệm tương tự là “vô số thần” (nghĩa đen là “tám
triệu thần” [Yao-yorozu-no-kami-gami]). Con số các vị thần trong Thần đạo luôn
thay đổi. Một số bị lãng quên và một số được tái hình thành về sau dưới tên gọi
mới; hay mặt khác, toàn bộ những vị thần mới được bổ sung vào hệ thống chư thần.
Tính cách của vô số những vị thần này thì không được định nghĩa rõ ràng. Tuy
nhiên, tương tự như sự phân chia giữa các vị thần Olympia và các vị thần huyền
bí ở trong thần thoại Hy Lạp, một sự phân chia đã được thực hiện giữa những
người con của Thần Bão và những vị thần liên quan đến Nữ thần Mặt Trời (Ama-terasu-
Ō-mi-kami). Trong thần thoại Nhật Bản, “cõi hữu hình” thuộc về nhóm sau, còn
“cõi vô hình” thuộc về nhóm trước.
Các vị thần[27]
trong Ṛg-Veda được thỉnh mời đến ăn như những vị khách tại các lễ cúng.
Họ lấy thức ăn và uống rượu. Họ được cầu khấn, tôn thờ, được làm cho nguôi giận,
hài lòng. Con người có sự liên hệ trực tiếp với thần linh mà không cần phải qua
bất kỳ sự trung gian nào. Các vị thần được xem là những người bạn thân thiết của
những người phụng thờ họ. Họ được nói đến với những từ như “Thiên phụ”, “Địa
mẫu”, “Angi anh em”. Có một mối liên hệ rất mật thiết giữa con người và thần
linh, và mọi hiện tượng hàng ngày được xem phụ thuộc vào thần linh. Tương tự như
vậy, dân làng Nhật Bản đôi khi cầu nguyện những vị thần riêng lẻ, đôi khi cầu
nguyện những vị thần cụ thể, và đôi khi chư thần nói chung. Những lời cầu nguyện
bao gồm cầu xin mưa, mùa màng bội thu, được bảo vệ trước các trận động đất và
hỏa hoạn, cầu xin con cái, sức khỏe và thọ mạng cho nhà vua, cầu nguyện hòa bình
và thịnh vượng cho quốc gia.[28]
Ở mức độ nào đó, phương diện vật lý của các vị thần trong Ṛg-Veda theo
thuyết hình nhân, giống như phương diện vật lý của các vị thần Hy Lạp. Đầu, mặt,
mắt, cánh tay, bàn tay, chân và những bộ phận khác của cấu trúc con người được
gán cho họ. Tuy nhiên, hình thù của họ thường không rõ ràng và chân tay của họ
thường chỉ mang nghĩa ẩn dụ để mô tả những hoạt động của họ. Do đó, lưỡi và chân
tay của Thần Lửa chính là những ngọn lửa của ông, còn tay của Thần Mặt Trời
chính là những tia sáng của ông, trong khi mắt của ông tượng trưng cho hình dạng
mặt trời.[29]
Các vị thần không phải luôn có đạo đức. Họ thường mang những nhược điểm của con
người và dễ hài lòng với sự nịnh hót. Họ ban tặng lợi ích để đổi lấy lễ vật được
dâng cho họ. Trong một bài thánh tụng, các vị thần bàn bạc về những gì họ nên
trao: “Đây là điều ta sẽ làm - không phải điều kia. Ta sẽ ban cho ông ta một
con bò hay một con ngựa đây? Ta muốn biết là ông ta có thật sự cúng rượu Soma
cho ta hay không.”[30]
Trong tôn giáo Hô-me, chúng ta thấy các vị thần được sắp xếp theo cấp bậc, được
tổ chức như một gia đình thần linh nằm dưới sự cai trị của một vị thần tối cao.[31]
Giống như các vị thần trong Vệ-đà, họ là những con người, nhưng họ không
phải là những con người mơ hồ và không rõ ràng; họ là những vị thần cụ thể và
riêng biệt có tính cách mạnh mẽ và được xác định rõ ràng.[32]
Họ không phải quỷ thần mà là những con người bất tử có thân xác và linh hồn siêu
nhân.[33]
Một sự phân chia các vị thần tỉ mỉ như vậy với những tính cách cụ thể thì hoàn
toàn khác với khái niệm của Vệ-đà về thần linh. Ta có thể hoài nghi rằng
các vị thần trong Vệ-đà đại diện cho một giai đoạn sớm hơn trong việc
phát triển thần thoại, nhưng đặc điểm riêng của mỗi vị thần trong Vệ-đà
hay trong Ấn giáo thì không rõ ràng vào các thời kỳ về sau. Sự khác nhau không
phải là sự khác nhau của giai đoạn phát triển, mà đúng hơn là sự khác nhau về
bản chất của các khái niệm riêng về thần linh. Các vị thần trong thần thoại Ấn
Độ có ít nét đặc trưng riêng, và cuối cùng các nhà tư tưởng Hindu chính thống đi
đến phủ nhận tất cả tính cách dành cho các vị thần. Ví dụ, Indra, vị thần rất
được kính trọng trong Ṛg-Veda, đã được xem như một danh xưng chung -
nghĩa là vị thần chiếm giữ vị trí đó được gọi bằng danh xưng “Indra”. Vị ấy
không phải là một con người cụ thể.[34]
Trong sự nối kết với vấn đề tính cách của các vị thần, chúng ta có thể nói rằng
trước khi Phật giáo xuất hiện, Bà-la-môn giáo không có các tượng thần. Nghệ
thuật Ấn Độ có thể truy nguyên nguồn gốc từ thời đại Maurya, khi Phật giáo hưng
thịnh.
Thần đạo trong thực tế cũng không có tượng thần, không phải bởi người Nhật cổ
đại đã được khai sáng, mà bởi vì họ không có nghệ thuật cao trước khi nghệ thuật
điêu khắc và hội họa từ Trung Quốc du nhập vào, và bởi vì họ rất yếu trong việc
gán một đặc tính riêng cho mỗi vị thần. Chỉ sau khi Phật giáo du nhập thì nghệ
thuật Nhật Bản mới phát triển.
Ở Nhật Bản, vào những thời kỳ về sau, người ta khẳng định một cách có chủ ý rằng
mọi thứ ở trong thế giới tự nhiên đều thiêng liêng. Kitabatake Chikafusa
(1293-1354) nói: “Đất nước chúng ta do hai vị thần, nam và nữ tạo lập. Ngay
cả sông núi và cây cối của đất nước này tất cả đều mang tên gọi thiêng liêng.
Thần núi là Oyama-tsumi, thần nước là Mizahanome, thần biển là
Wadatsumi-no-mikoto, thần hải cảng là Haya-aki-tsuhi-no-mikoto, thần đất là
Haniyasu, thần lửa là Kagutsuchi, và thần gió là Shinatobe-no-mikoto. Không có
một hạt nhỏ bé nào mà không thiêng liêng. Kỳ diệu thay, mọi thứ có thể xúc chạm,
nghe hay nhìn thấy đều mang thần tính. Còn hơn thế nữa khi chúng ta nhìn lên bầu
trời. Thần mặt trời chiếu sáng ban ngày là Ō-hirume-muchi-no-mikoto, đấng tổ
tiên tối cao của hoàng gia chúng ta, trong khi mặt trăng soi sáng ban đêm là
Tsuki-yomi-no-mikoto, và Shihatobe-no-mikoto là thần gió, vị đã thổi bay tất cả
mọi uế nhiễm. Và hơi thở quý giá của một người, hơi thở sự sống của người ấy,
chính là vị thần này. Do đó vị ấy không được lạm dụng nó.”[35]
Motoori Norigana, nhà nghiên cứu Thần đạo xuất chúng đầu thời kỳ hiện đại, đã
nói: “Thuật ngữ kami được áp dụng trước hết cho những Thiên thần và Địa thần
khác nhau được đề cập trong các tài liệu cổ, cũng như linh hồn (mi-tama) của họ
cư ngụ trong các miếu thờ mà ở đó họ được thờ cúng. Ngoài ra, không chỉ con
người, mà chim muông, cây cối, sông núi, biển cả và tất cả những thứ khác
mà chúng xứng đáng được kính trọng và nể sợ bởi sức mạnh phi thường và vượt trội
mà chúng có thì đều được gọi là kami. Chúng nỗi bật không tất yếu vì sự cao quý,
lòng tốt, và hữu ích vượt trội. Những sinh vật độc ác và kỳ dị cũng được gọi là
kami, nếu chúng là đối tượng tạo nên nỗi sợ hãi chung. Trong số những kami là
con người, tôi cần đề cập đến các Mikado… Trong số những thứ khác, có sấm sét
(tiếng Nhật là Naru kami hay Minh thần/鳴神);
rồng, tiếng vang (trong tiếng Nhật được gọi là Kodama/木霊,
thần Cây) và cáo đều là kami bởi bản chất kỳ bí của chúng. Thuật ngữ kami được
dùng trong Nihongi và Manyōshū - một tuyển tập thơ cổ - để chỉ cho cọp và chó
sói… Có nhiều trường hợp biển và núi được gọi là kami. Đó không phải chỉ cho các
vị thần của biển và núi. Từ này được áp dụng trực tiếp cho chính biển hay núi,
như là những thứ rất đáng kinh sợ.”[36]
Đặc điểm khác của Thần đạo là sự thật rằng, nhiều vị thần Nhật Bản được xem là
những con người lịch sử có phẩm chất cao quý. Đối với người Nhật cổ đại, thế
giới thần thoại và thế giới tự nhiên thâm nhập lẫn nhau đến một mức độ mà những
hoạt động của con người được giải thích và chấp nhận dưới dạng những gì mà các
kami, tổ tiên hay các vị anh hùng, đã làm vào thời ban sơ. Toàn bộ đời
sống của con người và vũ trụ được thừa nhận là thiêng liêng, được thấm nhuần bản
chất kami.