Sử liệu về Hòa thượng THÀNH ĐẲNG MINH LƯỢNG NGUYỆT ÂN (1686-1769)

su lieu ve

 

SỬ LIỆU VỀ HÒA THƯỢNG THÀNH ĐẲNG MINH LƯỢNG NGUYỆT ÂN (1686-1769)

 

Thích Đồng Dưỡng

 

Năm 1558, Đoan Quốc công Nguyễn Hoàng vào trấn nhậm xứ Thuận Hóa. Sau đó, chúa được kiêm trấn thủ xứ Quảng Nam. Khi đã ổn định chính quyền, cũng như ổn định đời sống cho nhân dân địa phương, chúa Tiên tiến hành xây dựng một số chùa tiêu biểu như Thiên Mụ, Sùng Hóa, Hưng Long, Bửu Châu… Quốc chúa ý thức được vai trò của Phật giáo đối với vùng đất mới. Các vị chúa kế nghiệp đều có tinh thần ủng hộ Phật giáo. Phật giáo theo dòng di dân được truyền bá khắp xứ. Các thiền sư Trung Hoa bắt đầu theo thuyền buôn ghé các thương cảng lớn tại Đàng Trong. Thầy trò Hòa thượng Chuyết Công và hai vị thầy của Hòa thượng Hương Hải là những Tăng sĩ đến hành đạo sớm nhất hiện biết. Năm 1677, Hòa thượng Nguyên Thiều dong thuyền đến phủ Quy Ninh lập chùa Thập Tháp. Hòa thượng lại ra Thuận Đô lập chùa Quốc Ân, kiêm trụ trì chùa sắc tứ Hà Trung. Hòa thượng Nguyên Thiều đào tạo nhiều môn nhân, chia nhau khai lập nhiều ngôi chùa, làm nền tảng phát triển đạo Phật. Trong số đó phải tính đến các vị Hòa thượng như Minh Giác Kỳ Phương, Minh Lượng Nguyệt Ân, Minh Trí Thiện An, Minh Dung Pháp Thông, Minh Vật Nhất Tri… Bài khảo cứu của chúng tôi muốn tìm hiểu Hòa thượng Minh Lượng Nguyệt Ân trên nền tảng tư liệu Hán Nôm Phật giáo. Sử liệu về Hòa thượng khá hiếm, còn đâu đó trong các ấn bản kinh sách xưa, lưu dấu Phật sự của Hòa thượng. Thông qua đó cũng thấy được vai trò của Hòa thượng đối với tông môn và Phật giáo. Một vị Tổ sư mà có vai trò lớn, có sự ảnh hưởng đến Phật giáo Nam Bộ hiện nay nên cũng cần được nghiên cứu. 

1. Bài vị Hòa thượng Minh Lượng Nguyệt Ân tại chùa Thập Tháp

Trong số các long vị, bài vị thờ Hòa thượng Minh Lượng Nguyệt Ân tại các chùa, chúng tôi chọn bài vị được thờ tại tổ đường chùa Thập Tháp, Bình Định với đầy đủ thông tin, niên đại xưa nhất. Bài vị được làm bằng gỗ, thân bài vị trang trí hoa văn đơn giản, gắn với phần đế thông qua chốt mộng. Trong lòng khung có 3 hàng chữ Hán, hàng giữa khắc chữ Hán lớn, lạc khoản hai bên khắc chữ nhỏ. Xin cung lục như sau:

                 

                 

            Phiên âm:

Phổ Bảo Hoằng Truyền đường thượng, tự tổ Lâm Tế chính tông tam thập tứ thế húy Minh Lượng thượng Nguyệt hạ Ân lão Hòa thượng liên tòa.

Bính Dần niên tứ nguyệt nhị thập lục nhật ngọ thời lai;

Kỷ Sửu niên thất nguyệt thập ngũ nhật tỵ thần khứ[1].

Tạm dịch: Tòa sen của lão Hòa thượng húy Minh Lượng trước Nguyệt sau Ân, vị thầy lớn kế thừa đời 34 tông Lâm Tế chính tông, đường thượng [chùa] Phổ Bảo Hoằng Truyền.

Sinh giờ Ngọ ngày 26 tháng 4 năm Bính Dần;

Tịch giờ Tỵ ngày 15 tháng 7 năm Kỷ Sửu.

Đây là bài vị xưa, có khắc lạc khoản năm sinh, năm tịch rõ ràng. Dựa theo thông tin từ bài vị xác định, Hòa thượng huý là Minh Lượng, hiệu Nguyệt Ân, đời 34 Lâm Tế chính tông. Phổ Bảo Hoằng Truyền được viết trên cùng, cho thấy đây là ngôi chùa mà Hòa thượng sinh thời trụ trì và gắn bó cuộc đời hành đạo. Hòa thượng sinh giờ Ngọ ngày 26 tháng 4 năm Bính Dần, viên tịch giờ Tỵ ngày 15 tháng 7 năm Kỷ Sửu. Bài vị không cho biết tuổi thọ và hạ lạp.

Bài vị thờ Hòa thượng tại tổ đường chùa Quốc Ân, Huế có nội dung tương tự, chỉ ghi “Phổ Bảo đường thượng”, lược đi chữ “Hoằng Truyền”, và lạc khoản chỉ ghi ngày kỵ là ngày 15 tháng 7, tức ghi ngày tháng viên tịch, mà không ghi năm. Bài vị thờ tại chùa Bửu Phong (Ninh Hòa) thì lược “Lâm Tế chính tông”, ghi “huý thượng Minh hạ Lượng Nguyệt Ân”, và đặc biệt cho ngày kỵ là ngày 24 tháng 4. Ngày kỵ ở bài vị này viết khác với các long vị thờ ở các chùa? Xét ra Hòa thượng sinh ngày 26 tháng 4, còn ghi ngày kỵ là 24 tháng 4, tức làm giỗ trước hai ngày của ngày sinh chăng? Long vị thờ tại chùa Vạn Đức, Hội An thì khắc chung hai vị: Minh Hải Đắc Trí Pháp Bảo và Minh Lượng Nguyệt Ân Thành Đẳng. Hai vị đều thuộc đời 34 phái Lâm Tế và Hòa thượng Minh Lượng có thêm “Tặng Thành Đẳng”[2]. Ba bài vị thờ tại chùa Đại Giác (Biên Hòa), Từ Ân, Giác Lâm (Thành phố Hồ Chí Minh) thì ghi tên huý là Thành Đẳng, hiệu Nguyệt Ân. Bài vị tại chùa Giác Lâm do Hòa thượng Thành Đạo lập ghi thêm thời gian viên tịch “Kỷ Sửu niên thất nguyệt thập ngũ nhật Tỵ thời”.

Phân tích các bài vị và long vị thờ Hòa thượng Minh Lượng tại các chùa, xác định Hòa thượng có hai tên húy. Một tên húy Minh Lượng theo kệ phái Tổ định tuyết phong và một tên húy khác là Thành Đẳng, theo kệ phái Đạo mân mộc trần. Dù theo kệ nào, ngài thuộc đời 34 phái Lâm Tế. Ngôi chùa ngài gắn bó được long vị ghi chép là Phổ Bảo hoặc là Phổ Bảo Hoằng Truyền, hai tên nhưng thực chất chỉ có một ngôi chùa.

2. Dấu ấn Hòa thượng Nguyệt Ân qua mộc bản và kinh sách

Trong quá trình tiếp cận tư liệu Hán Nôm Phật giáo, chúng tôi được kế thừa từ việc công bố kho ván chùa Thập Tháp. Trong đó có hai bộ mộc bản kinh Kim cang có liên quan đến Hòa thượng Minh Lượng Nguyệt Ân. Mở rộng sang các bản in kinh sách thì tìm thêm bốn bản in Vu lan bồn kinh và Vu lan bồn tân sớ, Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinhĐại phương tiện Phật báo ân kinh. Đối với Vu lan bồn kinh do chính Hòa thượng trùng san, tư liệu này khá quý, có ghi vị trí ngôi chùa Phổ Bảo tọa lạc, sẽ giúp chúng ta biết về nơi hành đạo của Hòa thượng Minh Lượng. Sau đây, xin giới thiệu từng kinh sách và mộc bản.

Bản in Vu lan bồn kinh và Vu lan bồn tân sớ được đóng chung thành một tập, lưu tại chùa Viên Giác, Hội An (gọi tắt là bản Viên Giác). Vu lan bồn kinh có 4 tờ, tờ đầu khắc tranh (biến tướng đồ), mặt trước là tranh Đức Phật với Tôn giả Mục Kiền Liên. Mặt sau khắc tranh Tôn giả Mục Liên cúng dường chư Tăng trong lễ Tự tứ. Ba tờ sau là nội dung toàn văn kinh Vu lan bồn. Mỗi tờ hai trang, mỗi trang có 9 hàng, mỗi hàng có 19 chữ, chữ khắc theo lối Khải thư, nét chữ đẹp. Hàng cuối tờ 3a có ghi: “Bản tại Quy Nhơn phủ, Thời Đôn thuộc, Hoằng Truyền Phổ Bảo tự - 板在歸仁府時敦属弘傳普寳寺”, nghĩa là ván tại chùa Hoằng Truyền Phổ Bảo, thuộc Thời Đôn, phủ Quy Nhơn. Đây là vị trí toạ lạc của chùa Phổ Bảo, được kinh ghi rõ. Tờ 3b có khắc hình long bài, bên trong hàng chữ Hán lớn Tam thập tứ thế thượng Nguyệt hạ Ân Hòa thượng 三十四世上玥下殷和尚”, góc bên phải ghi hai chữ nhỏ “trùng san”, tức khắc in lại. Hai chữ Nguyệt Ân đều có bộ Ngọc . Thực tế thì chữ Ân không có bộ Ngọc, bộ Ngọc thêm vào theo lối chơi chữ. Đời 34 tức tỉnh lược bốn chữ Lâm Tế chính tông.

Bản in tiếp theo Vu lan bồn kinh tân sớ do Bồ-tát Sa-di Trí Húc ở Cổ Ngô chú sớ, Bồ-tát Tỳ-kheo Đạo Phương ở Ôn Lăng tham đính. Quy cách kết cấu số hàng, số chữ, khuôn in của bản Vu lan bồn kinh tân sớ giống với bản in Vu lan bồn kinh. Tờ 34a có hai hàng cuối cho biết: “Ngày hè năm Canh Ngọ niên hiệu Cảnh Hưng thứ 11 trùng khắc ở chùa thiền Hội Tông, Tỳ-kheo Tâm Châu hiệu chính”. Mặt sau trang trí long bài cho biết, Thiền sư Vĩnh Hưng húy Tâm Châu chùa Hội Tông đứng trùng khắc bản Vu lan bồn tân sớ, có lời cầu nguyện cùng niên đại viết lời chí. Vậy, cả hai bản in thực hiện ngày mùng 8 tháng Chạp năm Canh Ngọ (1750) do hai vị Nguyệt Ân và Vĩnh Hưng khắc ván trùng san. Thiền sư Vĩnh Hưng có tên húy Tâm Châu là vị sư thuộc kệ phái Đột không trí bản, chữ Tâm mà xuất hiện vào năm 1750 thì chữ trong phái truyền xuống khá nhanh.  

Thật bất ngờ, mới đây chúng tôi tiếp cận tủ sách tại chùa Hương Tích, Phú Yên. Trong đó có bản in Vu lan bồn kinh và Vu lan bồn tân sớ rất giống với bản chùa Viên Giác. Tờ 3b của bản ở Hương Tích khắc long bài với hàng chữ lớn “Đương kim vương thượng vạn vạn tuế”. Trong khi bản Viên Giác lại khắc nội dung tôn danh Hòa thượng Minh Lượng Nguyệt Ân, đời 34. Cuối bản Vu lan bồn tân sớ, tờ 34a có ghi niên đại: “Ngày Hoán tháng giữa hạ năm Tân Mùi trùng san. Ván tại chùa Phổ Bảo Hoằng Truyền, thuộc Thời Đôn, huyện Tuy Viễn, Phủ Quy Nhơn”. Bản in này từ ván chùa Phổ Bảo Hoằng Truyền thuộc Thời Đôn vào năm Tân Mùi (1751), tức sau bản trên một năm. Mặt b còn có thông tin: “Lão Tăng húy Thành Đẳng hiệu Nguyệt Ân nối Tổ đời thứ 34 trùng san, lưu hành. Trên đền bốn ân nặng, dưới cứu giúp ba cõi. Nguyện khắp hữu tình trong pháp giới cùng đạt chủng trí”. Phía sau là danh sách tín cúng. Bản này ghi Hòa thượng húy là Thành Đẳng, chứ không phải Minh Lượng như bản trên. Qua sơ bộ so sánh hai bản in, chúng tôi nhận ra cả hai bản in thực tế in ra từ một bộ mộc bản Vu lan bồn tân sớ. Những phần thông tin sai khác là do người chủ san muốn thay đổi nên những tờ đó khắc thêm ván mới đảm bảo đủ thông tin về người san khắc bản kinh. Chúng ta biết bản in trước ghi mùa đông năm Canh Ngọ, so với bản in chùa Hương Tích thì chỉ cách hơn 3 tháng. Chúng tôi cho rằng, ván chùa Phổ Bảo được khắc thêm thông tin về Hòa thượng Minh Lượng cho đúng người chủ san. Phát hiện hai bản in Vu lan bồn tân sớ, qua thông tin người san khắc là Hòa thượng Nguyệt Ân, mà Hòa thượng đề mỗi bản mỗi tên khác nhau: Minh Lượng và Thành Đẳng, cho thấy sinh tiền, Hòa thượng vẫn dùng hai pháp danh.  

Diệu pháp liên hoa kinh (kinh xếp) 7 quyển do Đại sư Tâm Duy Tánh Thiện thiền viện Bảo Quang, thôn An Mỹ, thuộc Thời Đôn, huyện Tuy Viễn tổ chức san khắc năm Bính Tý (1756) niên hiệu Cảnh Hưng. Cuối quyển 1, ngài cung thỉnh Hòa thượng Minh Lượng Nguyệt Ân chứng minh, cùng với Thiền sư Thiệt Kiến Liễu Triệt, chùa Thập Tháp[3]. Hiện nay, chùa Thập Tháp là nơi bảo quản bộ mộc bản Diệu pháp liên hoa kinh Kim cang Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh (gọi tắt Kim cang kinh) do Thiền sư Tâm Duy Tánh Thiện san khắc thuộc thế kỷ XVIII. Bộ ván Kim cang kinh thuộc loại ván dài, khổ nhỏ, khắc theo lối Phạn giáp (kinh xếp), thường dùng trong việc tụng đọc hành trì. Bản ván do Tỳ-kheo Tánh Thiện chùa Bảo Quang thực hiện năm Kỷ Tỵ (1749), Cảnh Hưng thứ 10. Tờ cuối phía trước phần công đức niên đại có kẻ khung theo lối “hà diệp bài ký” với nội dung: “Phổ Bảo Minh Lượng Hòa thượng chứng minh 普寶明亮和上證明”. Cách viết khá ngắn gọn, chúng ta hiểu “Phổ Bảo” là ngôi chùa, “Minh Lượng Hòa thượng” là vị thầy được mời chứng minh. Chữ “Hòa thượng” các văn bản chữ Hán ghi 和尚, ở đây thì lại dùng 和上. Bia tháp Tổ sư Nguyên Thiều (1728), Hải ngoại kỷ sự cũng viết là 和上. Chữ Hòa thượng vốn là từ phiên âm, nên chọn chữ đồng âm cũng thích hợp[4]. Thế kỷ XVIII, trong các văn bản Phật giáo, chữ Hòa thượng được ghi bằng chữ Hán là 和上.

Bộ ván Kim cang kinh do chính chùa Thập Tháp tổ chức san khắc. Bộ ván này kích thước lớn hơn bộ ván của thiền viện Bảo Quang mà chúng tôi giới thiệu phía trước. Ván khắc thực hiện tháng 8 năm Vĩnh Khánh 5 (1733), cũng khắc theo lối Phạn giáp (kinh xếp)[5]. Một mặt cuối, trước tiêu đề kinh (kẻ khung) có ghi thời gian ấn thí là năm Vĩnh Hựu thứ 6 do gia đình trai chủ Đinh Văn Lộc cầu siêu cho cha đã ấn thí 300 quyển, cung thỉnh Trưởng lão Tánh Ban chùa sắc tứ Linh Phong chứng minh. Cùng mặt khắc đó, phía sau có ghi thêm hai lần ấn thí. Lần thứ nhất do thiện nam Phan Tấn Bình cùng gia quyến in 100 quyển cúng dường chúng Tăng thập phương để cầu siêu cho mẹ, vợ và con. Vị này người phường Phước Thành, thuộc Tân Lập, huyện Tuy Viễn đã: Cung thỉnh Sắc tứ Phổ Bảo Hoằng Truyền tự tông sư Đại lão Hòa thượng Nguyệt Ân Minh Lượng chứng minh”. Dòng tiếp theo ghi năm: “Cảnh Hưng nhị thập bát niên thất nguyệt nhị thập nhị nhật ký”, tức ghi chép vào ngày 22 tháng 7 năm Cảnh Hưng thứ 28 (1767). Năm này, ngài đã lớn tuổi nên ghi là Đại lão Hòa thượng. Chùa Phổ Bảo Hoằng Truyền được ban biển sắc tứ giống với chùa Linh Phong và Thập Tháp.

Lần thứ hai, do Võ Thị Trung cùng con cháu ở thôn Bình An, thuộc Thời Tú, huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn tín cúng 100 quyển, mỗi chùa 1 quyển để hồi hướng cho cha mẹ quá cố, cung thỉnh tông sư Đại lão Hòa thượng Minh Lượng chùa sắc tứ Phổ Bảo Hoằng Truyền chứng minh. Lời ký thực hiện vào ngày 15 tháng 7 năm Cảnh Hưng thứ 27 (1766), tức sau một năm đối với lần in trước. Mấy hàng gần cuối, ván bị sờn nên tự dạng chữ Hán khó nhận diện.

Vậy, bộ ván khắc kinh Kim cang do chùa Thập Tháp khắc bản năm Vĩnh Khánh thứ 5 mà thông tin từ tấm ván cuối, chúng ta biết đã có ba lần ấn tống, dưới sự chứng minh của Trưởng lão Tánh Ban chùa sắc tứ Linh Phong và Hòa thượng Minh Lượng Nguyệt Ân chùa Phổ Bảo. Lúc này, Hòa thượng Minh Lượng đã lớn tuổi, và chùa Phổ Bảo được ban biển sắc tứ. Sắc tứ Phổ Bảo Hoằng Truyền lần đầu tiên xuất hiện trên mộc bản, còn trước đó chỉ Phổ Bảo tự hoặc Phổ Bảo Hoằng Truyền tự.

Thư viện Huệ Quang sưu tầm được bản in Đại phương tiện Phật báo ân kinh (kinh xếp) gồm 7 quyển được đóng thành 7 tập do Thiền sư Thiệt Tĩnh 實靖 trụ trì chùa Phước An thôn Tân Phú Lâm, huyện Tân Bình, phủ Gia Định, nước Đại Việt đứng khắc ván có cung thỉnh “Phổ Bảo lão Hòa thượng Nguyệt Ân húy Thành Đẳng chứng minh[6]. Tiếc là bản in không đề năm khắc ván. Dựa vào thông tin trên, chúng ta đoán bản in thực hiện vào niên hiệu Cảnh Hưng (1740-1780), lúc này dùng từ “lão Hòa thượng” đối với Hòa thượng Nguyệt Ân, cho thấy năm khắc ván cũng tương đương hoặc sau năm ấn thí Kim cang kinh tại chùa Thập Tháp, tức sau năm Cảnh Hưng thứ 26 (1765). Bộ kinh ghi tên húy ngài là Thành Đẳng, ghi tên húy theo kệ phái Đạo Mân Mộc Trần, giống với bản in Vu lan bồn tân sớ tại chùa Hương Tích, Phú Yên.

Nhìn chung, dấu ấn Hòa thượng Nguyệt Ân xuất hiện trên mộc bản và bản in kinh sách khá nhiều. Điều đó cho thấy, ngài là vị Hòa thượng đương thời nổi tiếng. Sau khi Hòa thượng Minh Giác Kỳ Phương viên tịch (1744), các Phật sự khắc ván in kinh tại chùa Thập Tháp hoặc các chùa ở Bình Định, trong tông môn đều cung thỉnh Hòa thượng Nguyệt Ân chứng minh. Hòa thượng Nguyệt Ân có vai trò rất lớn đối với tông môn Thập Tháp cũng như Phật giáo phủ Quy Nhơn.

3. Xác định niên đại Hòa thượng Nguyệt Ân và vị trí chùa Phổ Bảo

Về niên đại của Hòa thượng Minh Lượng Nguyệt Ân, hầu như các học giới đều căn cứ lạc khoản ở bài vị tại chùa Thập Tháp, tỉnh Bình Định. Để đổi năm can chi sang năm dương lịch, chúng tôi sử dụng thông tin từ các bản kinh sách thuộc niên hiệu Cảnh Hưng triều Lê mà Hòa thượng tham gia. Đó là cứ liệu chính xác để biết, Hòa thượng sinh năm Bính Dần chính là năm 1686 và tịch năm Kỷ Sửu tức là năm 1769, suy ra ngài thọ 83 tuổi. Tuổi thọ khá cao đối với các vị đệ tử của Hòa thượng Nguyên Thiều như Thiền sư Minh Trí Thiện An (1676-1740),  Minh Giác Kỳ Phương (1682-1744), Minh Hải Pháp Bảo (1670-1746), Minh Dung Pháp Thông (1691-1749), Thành Nhạc Ẩn Sơn (?-1751)[7]. Do vậy, trong các tư liệu, nhất là các long vị, bài vị đề “lão Hòa thượng” hoặc “Đại lão Hòa thượng”. Xét năm sinh, ngài nhỏ tuổi hơn Hòa thượng Minh Hải Pháp Bảo, Minh Giác Kỳ Phương, nhưng lớn tuổi hơn Hòa thượng Minh Dung Pháp Thông.

Các tư liệu trích dẫn ở trên đều ghi Hòa thượng Minh Lượng Nguyệt Ân với ngôi chùa Phổ Bảo (bài vị chùa Quốc Ân, Bửu Phong, Đại Giác) hay Phổ Bảo Hoằng Truyền (bài vị chùa Thập Tháp, mộc bản kinh Kim cang) hoặc Hoằng Truyền Phổ Bảo (bản in Vu lan bồn kinh tân sớ). Nhìn xuyên suốt thì đó chỉ về một ngôi chùa, Phổ Bảo tự. Hiện nay tại huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định có ngôi chùa Phổ Bảo, vốn là tổ đình của Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh. Theo các nguồn tư liệu, chùa Phổ Bảo không có quan hệ gì với Hòa Thượng Minh Lượng Nguyệt Ân. Trong số các tư liệu hiện biết về Hòa thượng Nguyệt Ân có bản in Vu lan bồn kinh và Vu lan bồn tân sớ có ghi địa điểm ngôi chùa tọa lạc. Vu lan bồn kinh, tờ 3a, hàng cuối nội dung như sau: “Bản tại Quy Nhơn phủ, Thời Đôn thuộc, Hoằng Truyền Phổ Bảo tự 板在歸仁府時敦属弘傳普寳寺”. Nghĩa là ván ở chùa Hoằng Truyền Phổ Bảo, thuộc Thời Đôn, phủ Quy Nhơn. Đây là vị trí chùa Phổ Bảo, chùa đó nằm về thuộc Thời Đôn của huyện Tuy Viễn. Thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, thuộc Thời Đôn gồm nhiều xã thôn, diện tích khá rộng, khó mà định rõ vị trí ngôi chùa Phổ Bảo. May mắn cho chúng tôi khi tiếp cận bản in Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh (gọi tắt Hoa nghiêm kinh). Bản in theo lối kinh xếp, gồm 82 quyển do Đại sư Phật Chứng Huyền Cơ (1707-1758)[8] chùa Sắc tứ Quảng Phong ở Quảng Nam khắc ván trùng san vào năm Mậu Dần (1758) niên hiệu Cảnh Hưng thứ 19. Quyển 21, sau bài tán kinh cuối quyển có ghi thông tin như sau: “Lão Hòa thượng Minh Lượng Nguyệt Ân, Sa-môn chùa Phổ Bảo chánh hộ xã Thời Đôn, huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn vui vẻ giúp đỡ san khắc -歸仁府綏遠縣時敦社正户普寳弘傳寺沙門明亮玥殷老和上喜勸助刻[9]. Gần tên húy và hiệu của Hòa thượng có hai triện vuông đóng giáp bên, phía sau là danh sách thiện tín cúng dường khắc kinh. Hàng cuối ghi niên đại lời chí là ngày mùng 6 tháng 2 năm Ất Hợi (1755), Cảnh Hưng thứ 16. Vu lan bồn kinh (1750) ghi chùa Phổ Bảo ở “thuộc Thời Đôn huyện Tuy Viễn”; Hoa nghiêm kinh (1755) ghi rõ hơn “chánh hộ xã Thời Đôn huyện Tuy Viễn”. Vậy, chánh hộ xã Thời Đôn nằm trong thuộc Thời Đôn, huyện Tuy Viễn. Cùng bộ Hoa nghiêm kinh cũng cho biết, chùa Thập Tháp Di Đà nằm về chánh hộ xã Thời Đôn, tức cùng thôn làng với chùa Phổ Bảo. Nhờ tiếp cận bản in Hoa nghiêm kinh, thông qua các thông tin cuối mỗi quyển, giúp chúng ta đoán định được vị trí chùa Phổ Bảo xưa, chùa cùng thôn làng với chùa Thập Tháp, tức vị trí cách chùa Thập Tháp không xa, mà nay, chùa Thập Tháp tọa lạc thôn Vạn Thuận, phường Nhơn Thành, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định.  

Chùa Phổ Bảo hiện nay không còn và đã mất tích khá lâu, có thể thời Tây Sơn chăng? Kiểm chứng các tư liệu mộc bản và kinh sách thì chùa xuất hiện với Hòa thượng Minh Lượng đầu tiên trong mộc bản Kim cang kinh do Thiền sư Tánh Thiện ở thiền viện Bảo Quang khắc bản năm Cảnh Hưng 10 (1749). Tấm cuối mộc bản Kim cang kinh do chùa Thập Tháp khắc ván, có ghi niên đại hai lần ấn thí vào năm Cảnh Hưng thứ 27 (1766), và năm Cảnh Hưng 28 (1767) thì chùa Phổ Bảo hoặc Phổ Bảo Hoằng Truyền được ban biển Sắc tứ, tức chùa thuộc diện chùa công của phủ Quy Nhơn. Hai năm sau thì Hòa thượng viên tịch (năm 1769). Các tư liệu gắn kết thì Hòa thượng Minh Lượng, từ khi trụ trì chùa Phổ Bảo cho đến khi gần viên tịch, ngài đều hành đạo ở chùa Phổ Bảo, chứ không kiêm nhận chùa nào khác. Do vậy, Hòa thượng phải viên tịch tại chùa Phổ Bảo và lập tháp ở ngôi chùa này. Tiếc thay, Phổ Bảo tự không còn, chúng ta chưa xác định vị trí chính xác hiện nay, nên việc tìm ngôi tháp của Hòa thượng Nguyệt Ân vẫn chờ Phật giáo địa phương công bố. Hoặc có thể chùa Phổ Bảo gần Thập Tháp nên tháp mộ được di dời về khuôn viên tổ đình Thập Tháp chăng?

Tóm lại, nhờ tiếp cận mộc bản Kim cang kinh tại chùa Thập Tháp cùng các bản in kinh sách, chúng ta xác định rõ niên đại Hòa thượng Minh Lượng Nguyệt Ân là 1686-1769. Cũng trên nền tảng đó xác định được vị trí chùa Phổ Bảo, nơi Hòa thượng trụ trì và hành đạo. Phổ Bảo nay không còn nhưng được biết chùa nằm ở chánh hộ xã Thời Đôn, huyện Tuy Viễn, cùng một thôn làng với tổ đình Thập Tháp, tức nằm trong địa phận thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định bây giờ.

Hòa thượng Minh Lượng Nguyệt Ân là một vị cao tăng có sự ảnh hưởng khá lớn, nhất là sự truyền thừa, làm hưng thịnh Thiền phái Lâm Tế ở miền Trung và miền Nam. Trong phái Nguyên Thiều thì chi nhánh Minh Lượng Nguyệt Ân hình thành và phát triển mạnh, lan tỏa rộng tại các chùa Nam Bộ hiện nay. Do vậy, công tác sưu tầm tư liệu về Hòa thượng Minh Lượng Nguyệt Ân là công việc đáng trân trọng. Nghiên cứu hành trạng về Hòa thượng sẽ góp phần vào công việc nghiên cứu Phật giáo Đàng Trong, cũng như sự truyền thừa Thiền phái Lâm Tế tại nước ta. Nhiều vấn đề liên quan đến Hòa thượng Minh Lượng Nguyệt Ân vẫn còn nhiều tranh luận, nhất là việc khai sơn lập tự, mà một số chùa ở miền Trung và miền Nam tôn Hòa thượng làm Tổ khai sơn. Trong khi đó, sử liệu chúng ta tìm được trong kinh sách thì không như vậy. Việc thẩm định những thông tin trên phải cần tìm thêm các tư liệu Hán Nôm khác chăng?

 


 

[1] Dẫn lại công trình Những ngôi chùa tiêu biểu trong tỉnh Bình Định (bản thảo) của Lộc Xuyên Đặng Quý Địch. Tập sách này chỉ xuất bản được tập thượng.

[2] Theo long vị tại chùa Giác Lâm thì Thành Đẳng là một tên húy, tên theo kệ phái Đạo mân mộc trần. Điều này cần đính chính cách ghi tại long vị chùa Vạn Đức, Hội An.

[3] Thông tin từ bản in Diệu pháp liên hoa kinh, bản lưu tại chùa Hương Tích và Bảo Sơn, Phú Yên.

[4] Tham khảo Sa-môn nhật dụng, bản in từ mộc bản, sách của Hòa thượng Hoằng Tán, chùa Bảo Sơn Phú Yên.

[5] Chúng tôi tham khảo bản in do thư viện Huệ Quang thực hiện năm 2015.

[6] Đại phương tiện Phật báo ân kinh (kinh xếp), bản lưu tại thư viện Huệ Quang và còn một bộ lưu tại chùa Bảo Sơn, Phú Yên. Thông tin nằm trong long bài sau quyển 7.

[7] Dựa theo tấm bia tháp của Hòa thượng Ẩn Sơn tại chùa Long Thiền (Biên Hòa) thấy đề năm Nhâm Thân (1752) do ba vị đệ tử lập tháp.

[8] Căn cứ theo long vị Hòa thượng Phật Chứng Huyền Cơ phụng thờ tại chùa Linh Sơn, Phù Cát, Bình Định.

[9] Theo sự cung cấp của thầy Không Hạnh, thư viện Huệ Quang mà thư viện chụp từ Hoa nghiêm kinh (kinh xếp) tại tổ đình Báo Quốc, Huế.

Chia sẻ: facebooktwittergoogle
Các bài viết khác