Sử liệu về Hòa thượng THÀNH ĐẲNG MINH LƯỢNG NGUYỆT ÂN (1686-1769)
su lieu ve
SỬ LIỆU VỀ HÒA THƯỢNG
THÀNH ĐẲNG MINH LƯỢNG NGUYỆT ÂN (1686-1769)
Thích Đồng Dưỡng
Năm 1558, Đoan Quốc công
Nguyễn Hoàng vào trấn nhậm xứ Thuận Hóa. Sau đó, chúa được kiêm trấn thủ xứ
Quảng Nam. Khi đã ổn định chính quyền, cũng như ổn định đời sống cho nhân dân
địa phương, chúa Tiên tiến hành xây dựng một số chùa tiêu biểu như Thiên Mụ,
Sùng Hóa, Hưng Long, Bửu Châu… Quốc chúa ý thức được vai trò của Phật giáo đối
với vùng đất mới. Các vị chúa kế nghiệp đều có tinh thần ủng hộ Phật giáo. Phật
giáo theo dòng di dân được truyền bá khắp xứ. Các thiền sư Trung Hoa bắt đầu
theo thuyền buôn ghé các thương cảng lớn tại Đàng Trong. Thầy trò Hòa thượng
Chuyết Công và hai vị thầy của Hòa thượng Hương Hải là những Tăng sĩ đến hành
đạo sớm nhất hiện biết. Năm 1677, Hòa thượng Nguyên Thiều dong thuyền đến phủ
Quy Ninh lập chùa Thập Tháp. Hòa thượng lại ra Thuận Đô lập chùa Quốc Ân, kiêm
trụ trì chùa sắc tứ Hà Trung. Hòa thượng Nguyên Thiều đào tạo nhiều môn nhân,
chia nhau khai lập nhiều ngôi chùa, làm nền tảng phát triển đạo Phật. Trong số
đó phải tính đến các vị Hòa thượng như Minh Giác Kỳ Phương, Minh Lượng Nguyệt
Ân, Minh Trí Thiện An, Minh Dung Pháp Thông, Minh Vật Nhất Tri… Bài khảo cứu của
chúng tôi muốn tìm hiểu Hòa thượng Minh Lượng Nguyệt Ân trên nền tảng tư liệu
Hán Nôm Phật giáo. Sử liệu về Hòa thượng khá hiếm, còn đâu đó trong các ấn bản
kinh sách xưa, lưu dấu Phật sự của Hòa thượng. Thông qua đó cũng thấy được vai
trò của Hòa thượng đối với tông môn và Phật giáo. Một vị Tổ sư mà có vai trò
lớn, có sự ảnh hưởng đến Phật giáo Nam Bộ hiện nay nên cũng cần được nghiên
cứu.
1. Bài vị Hòa thượng Minh
Lượng Nguyệt Ân tại chùa Thập Tháp
Trong số các long vị, bài vị
thờ Hòa thượng Minh Lượng Nguyệt Ân tại các chùa, chúng tôi chọn bài vị được thờ
tại tổ đường chùa Thập Tháp, Bình Định với đầy đủ thông tin, niên đại xưa nhất.
Bài vị được làm bằng gỗ, thân bài vị trang trí hoa văn đơn giản, gắn với phần đế
thông qua chốt mộng. Trong lòng khung có 3 hàng chữ Hán, hàng giữa khắc chữ Hán
lớn, lạc khoản hai bên khắc chữ nhỏ. Xin cung lục như sau:
普
寶
弘
傳
堂
上
嗣
祖
臨
濟
正
宗
三
十
四
世
諱
明
亮
上
玥
下
殷
大
老
和
尚
蓮
座
丙
寅
年
四
月
二
十
六
日
午
時
來
己
丑
年
七
月
十
五
日
巳
辰
去
Phiên âm:
Phổ Bảo Hoằng Truyền đường
thượng, tự tổ Lâm Tế chính tông tam thập tứ thế húy Minh Lượng thượng Nguyệt hạ
Ân lão Hòa thượng liên tòa.
Bính Dần niên tứ nguyệt
nhị thập lục nhật ngọ thời lai;
Kỷ Sửu niên thất nguyệt
thập ngũ nhật tỵ thần khứ.
Tạm dịch: Tòa sen của lão Hòa
thượng húy Minh Lượng trước Nguyệt sau Ân, vị thầy lớn kế thừa đời 34 tông Lâm
Tế chính tông, đường thượng [chùa] Phổ Bảo Hoằng Truyền.
Sinh giờ Ngọ ngày 26 tháng 4
năm Bính Dần;
Tịch giờ Tỵ ngày 15 tháng 7
năm Kỷ Sửu.
Đây là bài vị xưa, có khắc
lạc khoản năm sinh, năm tịch rõ ràng. Dựa theo thông tin từ bài vị xác định, Hòa
thượng huý là Minh Lượng, hiệu Nguyệt Ân, đời 34 Lâm Tế chính tông. Phổ Bảo
Hoằng Truyền được viết trên cùng, cho thấy đây là ngôi chùa mà Hòa thượng sinh
thời trụ trì và gắn bó cuộc đời hành đạo. Hòa thượng sinh giờ Ngọ ngày 26 tháng
4 năm Bính Dần, viên tịch giờ Tỵ ngày 15 tháng 7 năm Kỷ Sửu. Bài vị không cho
biết tuổi thọ và hạ lạp.
Bài vị thờ Hòa thượng tại tổ
đường chùa Quốc Ân, Huế có nội dung tương tự, chỉ ghi “Phổ Bảo đường thượng”,
lược đi chữ “Hoằng Truyền”, và lạc khoản chỉ ghi ngày kỵ là ngày 15 tháng 7, tức
ghi ngày tháng viên tịch, mà không ghi năm. Bài vị thờ tại chùa Bửu Phong (Ninh
Hòa) thì lược “Lâm Tế chính tông”, ghi “huý thượng Minh hạ Lượng Nguyệt Ân”, và
đặc biệt cho ngày kỵ là ngày 24 tháng 4. Ngày kỵ ở bài vị này viết khác với các
long vị thờ ở các chùa? Xét ra Hòa thượng sinh ngày 26 tháng 4, còn ghi ngày kỵ
là 24 tháng 4, tức làm giỗ trước hai ngày của ngày sinh chăng? Long vị thờ tại
chùa Vạn Đức, Hội An thì khắc chung hai vị: Minh Hải Đắc Trí Pháp Bảo và Minh
Lượng Nguyệt Ân Thành Đẳng. Hai vị đều thuộc đời 34 phái Lâm Tế và Hòa thượng
Minh Lượng có thêm “Tặng Thành Đẳng”.
Ba bài vị thờ tại chùa Đại Giác (Biên Hòa), Từ Ân, Giác Lâm (Thành phố Hồ Chí
Minh) thì ghi tên huý là Thành Đẳng, hiệu Nguyệt Ân. Bài vị tại chùa Giác Lâm do
Hòa thượng Thành Đạo lập ghi thêm thời gian viên tịch “Kỷ Sửu niên thất
nguyệt thập ngũ nhật Tỵ thời”.
Phân tích các bài vị và long
vị thờ Hòa thượng Minh Lượng tại các chùa, xác định Hòa thượng có hai tên húy.
Một tên húy Minh Lượng theo kệ phái Tổ định tuyết phong và một tên húy
khác là Thành Đẳng, theo kệ phái Đạo mân mộc trần. Dù theo kệ nào, ngài
thuộc đời 34 phái Lâm Tế. Ngôi chùa ngài gắn bó được long vị ghi chép là Phổ Bảo
hoặc là Phổ Bảo Hoằng Truyền, hai tên nhưng thực chất chỉ có một ngôi chùa.
2. Dấu ấn Hòa thượng
Nguyệt Ân qua mộc bản và kinh sách
Trong quá trình tiếp cận tư
liệu Hán Nôm Phật giáo, chúng tôi được kế thừa từ việc công bố kho ván chùa Thập
Tháp. Trong đó có hai bộ mộc bản kinh Kim cang có liên quan đến Hòa
thượng Minh Lượng Nguyệt Ân. Mở rộng sang các bản in kinh sách thì tìm thêm bốn
bản in Vu lan bồn kinh và Vu lan bồn tân sớ, Đại phương quảng Phật hoa nghiêm
kinh và Đại phương tiện Phật báo ân kinh. Đối với Vu lan bồn kinh
do chính Hòa thượng trùng san, tư liệu này khá quý, có ghi vị trí ngôi chùa Phổ
Bảo tọa lạc, sẽ giúp chúng ta biết về nơi hành đạo của Hòa thượng Minh Lượng.
Sau đây, xin giới thiệu từng kinh sách và mộc bản.
Bản in Vu lan bồn kinh và
Vu lan bồn tân sớ được đóng chung thành một tập, lưu tại chùa Viên Giác, Hội
An (gọi tắt là bản Viên Giác). Vu lan bồn kinh có 4 tờ, tờ đầu khắc tranh
(biến tướng đồ), mặt trước là tranh Đức Phật với Tôn giả Mục Kiền Liên. Mặt sau
khắc tranh Tôn giả Mục Liên cúng dường chư Tăng trong lễ Tự tứ. Ba tờ sau là nội
dung toàn văn kinh Vu lan bồn. Mỗi tờ hai trang, mỗi trang có 9 hàng, mỗi
hàng có 19 chữ, chữ khắc theo lối Khải thư, nét chữ đẹp. Hàng cuối tờ 3a có ghi:
“Bản tại Quy Nhơn phủ, Thời Đôn thuộc, Hoằng Truyền Phổ Bảo tự -
板在歸仁府時敦属弘傳普寳寺”,
nghĩa là ván tại chùa Hoằng Truyền Phổ Bảo, thuộc Thời Đôn, phủ Quy Nhơn. Đây là
vị trí toạ lạc của chùa Phổ Bảo, được kinh ghi rõ. Tờ 3b có khắc hình long bài,
bên trong hàng chữ Hán lớn
“Tam thập tứ thế thượng
Nguyệt hạ Ân Hòa thượng
三十四世上玥下殷和尚”, góc bên
phải ghi hai chữ nhỏ “trùng san”, tức khắc in lại. Hai chữ Nguyệt Ân đều có bộ
Ngọc
玉. Thực tế thì chữ
Ân
殷 không có bộ Ngọc, bộ
Ngọc thêm vào theo lối chơi chữ. Đời 34 tức tỉnh lược bốn chữ Lâm Tế chính tông.
Bản in tiếp theo Vu lan
bồn kinh tân sớ do Bồ-tát Sa-di Trí Húc ở Cổ Ngô chú sớ, Bồ-tát Tỳ-kheo Đạo
Phương ở Ôn Lăng tham đính. Quy cách kết cấu số hàng, số chữ, khuôn in của bản
Vu lan bồn kinh tân sớ giống với bản in Vu lan bồn kinh. Tờ 34a có
hai hàng cuối cho biết: “Ngày hè năm Canh Ngọ niên hiệu Cảnh Hưng thứ 11
trùng khắc ở chùa thiền Hội Tông, Tỳ-kheo Tâm Châu hiệu chính”. Mặt sau
trang trí long bài cho biết, Thiền sư Vĩnh Hưng húy Tâm Châu chùa Hội Tông đứng
trùng khắc bản Vu
lan bồn tân sớ, có
lời cầu nguyện cùng niên đại viết lời chí. Vậy, cả hai bản in thực hiện ngày
mùng 8 tháng Chạp năm Canh Ngọ (1750) do hai vị Nguyệt Ân và Vĩnh Hưng khắc ván
trùng san. Thiền sư Vĩnh Hưng có tên húy Tâm Châu là vị sư thuộc kệ phái Đột
không trí bản, chữ Tâm mà xuất hiện vào năm 1750 thì chữ trong phái truyền
xuống khá nhanh.
Thật bất ngờ, mới đây chúng
tôi tiếp cận tủ sách tại chùa Hương Tích, Phú Yên. Trong đó có bản in Vu lan
bồn kinh và Vu lan bồn tân sớ rất giống với bản chùa Viên Giác. Tờ 3b của
bản ở Hương Tích khắc long bài với hàng chữ lớn “Đương kim vương thượng vạn
vạn tuế”. Trong khi bản Viên Giác lại khắc nội dung tôn danh Hòa thượng Minh
Lượng Nguyệt Ân, đời 34. Cuối bản Vu lan bồn tân sớ, tờ 34a có ghi niên
đại: “Ngày Hoán tháng giữa hạ năm Tân Mùi trùng san. Ván tại chùa Phổ Bảo
Hoằng Truyền, thuộc Thời Đôn, huyện Tuy Viễn, Phủ Quy Nhơn”. Bản in này từ
ván chùa Phổ Bảo Hoằng Truyền thuộc Thời Đôn vào năm Tân Mùi (1751), tức sau bản
trên một năm. Mặt b còn có thông tin: “Lão Tăng húy Thành Đẳng hiệu Nguyệt Ân
nối Tổ đời thứ 34 trùng san, lưu hành. Trên đền bốn ân nặng, dưới cứu giúp ba
cõi. Nguyện khắp hữu tình trong pháp giới cùng đạt chủng trí”. Phía sau là
danh sách tín cúng. Bản này ghi Hòa thượng húy là Thành Đẳng, chứ không phải
Minh Lượng như bản trên. Qua sơ bộ so sánh hai bản in, chúng tôi nhận ra cả hai
bản in thực tế in ra từ một bộ mộc bản Vu lan bồn tân sớ. Những phần
thông tin sai khác là do người chủ san muốn thay đổi nên những tờ đó khắc thêm
ván mới đảm bảo đủ thông tin về người san khắc bản kinh. Chúng ta biết bản in
trước ghi mùa đông năm Canh Ngọ, so với bản in chùa Hương Tích thì chỉ cách hơn
3 tháng. Chúng tôi cho rằng, ván chùa Phổ Bảo được khắc thêm thông tin về Hòa
thượng Minh Lượng cho đúng người chủ san. Phát hiện hai bản in Vu lan bồn tân
sớ, qua thông tin người san khắc là Hòa thượng Nguyệt Ân, mà Hòa thượng đề
mỗi bản mỗi tên khác nhau: Minh Lượng và Thành Đẳng, cho thấy sinh tiền, Hòa
thượng vẫn dùng hai pháp danh.
Diệu pháp liên hoa kinh
(kinh xếp) 7 quyển do Đại sư Tâm Duy Tánh Thiện thiền viện Bảo Quang, thôn An
Mỹ, thuộc Thời Đôn, huyện Tuy Viễn tổ chức san khắc năm Bính Tý (1756) niên hiệu
Cảnh Hưng. Cuối quyển 1, ngài cung thỉnh Hòa thượng Minh Lượng Nguyệt Ân chứng
minh, cùng với Thiền sư Thiệt Kiến Liễu Triệt, chùa Thập Tháp.
Hiện nay, chùa Thập Tháp là nơi bảo quản bộ mộc bản Diệu pháp liên hoa kinh
và Kim cang Bát-nhã ba-la-mật-đa kinh (gọi tắt Kim
cang kinh) do Thiền sư Tâm Duy Tánh Thiện san khắc thuộc thế kỷ XVIII. Bộ
ván Kim cang kinh thuộc loại ván dài, khổ nhỏ, khắc theo lối Phạn
giáp (kinh xếp), thường dùng trong việc tụng đọc hành trì. Bản ván do Tỳ-kheo
Tánh Thiện chùa Bảo Quang thực hiện năm Kỷ Tỵ (1749), Cảnh Hưng thứ 10. Tờ cuối
phía trước phần công đức niên đại có kẻ khung theo lối “hà diệp bài ký” với nội
dung: “Phổ Bảo Minh Lượng Hòa thượng chứng minh
普寶明亮和上證明”. Cách viết
khá ngắn gọn, chúng ta hiểu “Phổ Bảo” là ngôi chùa, “Minh Lượng Hòa thượng” là
vị thầy được mời chứng minh. Chữ “Hòa thượng” các văn bản chữ Hán ghi
和尚, ở đây thì lại dùng
和上. Bia tháp Tổ sư
Nguyên Thiều (1728), Hải ngoại kỷ sự cũng viết là
和上. Chữ Hòa thượng vốn
là từ phiên âm, nên chọn chữ đồng âm cũng thích hợp.
Thế kỷ XVIII, trong các văn bản Phật giáo, chữ Hòa thượng được ghi bằng chữ Hán
là
和上.
Bộ ván Kim cang kinh
do chính chùa Thập Tháp tổ chức san khắc. Bộ ván này kích thước lớn hơn bộ ván
của thiền viện Bảo Quang mà chúng tôi giới thiệu phía trước. Ván khắc thực hiện
tháng 8 năm Vĩnh Khánh 5 (1733), cũng khắc theo lối Phạn giáp (kinh xếp).
Một mặt cuối, trước tiêu đề kinh (kẻ khung) có ghi thời gian ấn thí là năm Vĩnh
Hựu thứ 6 do gia đình trai chủ Đinh Văn Lộc cầu siêu cho cha đã ấn thí 300
quyển, cung thỉnh Trưởng lão Tánh Ban chùa sắc tứ Linh Phong chứng minh. Cùng
mặt khắc đó, phía sau có ghi thêm hai lần ấn thí. Lần thứ nhất do thiện nam Phan
Tấn Bình cùng gia quyến in 100 quyển cúng dường chúng Tăng thập phương để cầu
siêu cho mẹ, vợ và con. Vị này người phường Phước Thành, thuộc Tân Lập, huyện
Tuy Viễn đã: “Cung
thỉnh Sắc tứ Phổ Bảo Hoằng Truyền tự tông sư Đại lão Hòa thượng Nguyệt Ân Minh
Lượng chứng minh”. Dòng tiếp theo ghi năm: “Cảnh Hưng nhị thập bát niên
thất nguyệt nhị thập nhị nhật ký”, tức ghi chép vào ngày 22 tháng 7 năm Cảnh
Hưng thứ 28 (1767). Năm này, ngài đã lớn tuổi nên ghi là Đại lão Hòa thượng.
Chùa Phổ Bảo Hoằng Truyền được ban biển sắc tứ giống với chùa Linh Phong và Thập
Tháp.
Lần thứ hai, do Võ Thị Trung
cùng con cháu ở thôn Bình An, thuộc Thời Tú, huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn tín
cúng 100 quyển, mỗi chùa 1 quyển để hồi hướng cho cha mẹ quá cố, cung thỉnh tông
sư Đại lão Hòa thượng Minh Lượng chùa sắc tứ Phổ Bảo Hoằng Truyền chứng minh.
Lời ký thực hiện vào ngày 15 tháng 7 năm Cảnh Hưng thứ 27 (1766), tức sau một
năm đối với lần in trước. Mấy hàng gần cuối, ván bị sờn nên tự dạng chữ Hán khó
nhận diện.
Vậy, bộ ván khắc kinh Kim
cang do chùa Thập Tháp khắc bản năm Vĩnh Khánh thứ 5 mà thông tin từ tấm ván
cuối, chúng ta biết đã có ba lần ấn tống, dưới sự chứng minh của Trưởng lão Tánh
Ban chùa sắc tứ Linh Phong và Hòa thượng Minh Lượng Nguyệt Ân chùa Phổ Bảo. Lúc
này, Hòa thượng Minh Lượng đã lớn tuổi, và chùa Phổ Bảo được ban biển sắc tứ.
Sắc tứ Phổ Bảo Hoằng Truyền lần đầu tiên xuất hiện trên mộc bản, còn trước đó
chỉ Phổ Bảo tự hoặc Phổ Bảo Hoằng Truyền tự.
Thư viện Huệ Quang sưu tầm
được bản in Đại phương tiện Phật báo ân kinh (kinh xếp) gồm 7 quyển được
đóng thành 7 tập do Thiền sư Thiệt Tĩnh
實靖 trụ trì chùa Phước
An thôn Tân Phú Lâm, huyện Tân Bình, phủ Gia Định, nước Đại Việt đứng khắc ván
có cung thỉnh “Phổ Bảo lão Hòa thượng Nguyệt Ân húy Thành Đẳng chứng minh”.
Tiếc là bản in không đề năm khắc ván. Dựa vào thông tin trên, chúng ta đoán bản
in thực hiện vào niên hiệu Cảnh Hưng (1740-1780), lúc này dùng từ “lão Hòa
thượng” đối với Hòa thượng Nguyệt Ân, cho thấy năm khắc ván cũng tương đương
hoặc sau năm ấn thí Kim cang kinh tại chùa Thập Tháp, tức sau năm Cảnh
Hưng thứ 26 (1765). Bộ kinh ghi tên húy ngài là Thành Đẳng, ghi tên húy theo kệ
phái Đạo Mân Mộc Trần, giống với bản in Vu lan bồn tân sớ tại chùa Hương
Tích, Phú Yên.
Nhìn chung, dấu ấn Hòa thượng
Nguyệt Ân xuất hiện trên mộc bản và bản in kinh sách khá nhiều. Điều đó cho
thấy, ngài là vị Hòa thượng đương thời nổi tiếng. Sau khi Hòa thượng Minh Giác
Kỳ Phương viên tịch (1744), các Phật sự khắc ván in kinh tại chùa Thập Tháp hoặc
các chùa ở Bình Định, trong tông môn đều cung thỉnh Hòa thượng Nguyệt Ân chứng
minh. Hòa thượng Nguyệt Ân có vai trò rất lớn đối với tông môn Thập Tháp cũng
như Phật giáo phủ Quy Nhơn.
3. Xác định niên đại Hòa
thượng Nguyệt Ân và vị trí chùa Phổ Bảo
Về niên đại của Hòa thượng
Minh Lượng Nguyệt Ân, hầu như các học giới đều căn cứ lạc khoản ở bài vị tại
chùa Thập Tháp, tỉnh Bình Định. Để đổi năm can chi sang năm dương lịch, chúng
tôi sử dụng thông tin từ các bản kinh sách thuộc niên hiệu Cảnh Hưng triều Lê mà
Hòa thượng tham gia. Đó là cứ liệu chính xác để biết, Hòa thượng sinh năm Bính
Dần chính là năm 1686 và tịch năm Kỷ Sửu tức là năm 1769, suy ra ngài thọ 83
tuổi. Tuổi thọ khá cao đối với các vị đệ tử của Hòa thượng Nguyên Thiều như
Thiền sư Minh Trí Thiện An (1676-1740), Minh Giác Kỳ Phương (1682-1744), Minh
Hải Pháp Bảo (1670-1746), Minh Dung Pháp Thông (1691-1749), Thành Nhạc Ẩn Sơn
(?-1751).
Do vậy, trong các tư liệu, nhất là các long vị, bài vị đề “lão Hòa thượng” hoặc
“Đại lão Hòa thượng”. Xét năm sinh, ngài nhỏ tuổi hơn Hòa thượng Minh Hải Pháp
Bảo, Minh Giác Kỳ Phương, nhưng lớn tuổi hơn Hòa thượng Minh Dung Pháp Thông.
Các tư liệu trích dẫn ở trên
đều ghi Hòa thượng Minh Lượng Nguyệt Ân với ngôi chùa Phổ Bảo (bài vị chùa Quốc
Ân, Bửu Phong, Đại Giác) hay Phổ Bảo Hoằng Truyền (bài vị chùa Thập Tháp, mộc
bản kinh Kim cang) hoặc Hoằng Truyền Phổ Bảo (bản in Vu lan bồn kinh
tân sớ). Nhìn xuyên suốt thì đó chỉ về một ngôi chùa, Phổ Bảo tự. Hiện nay
tại huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định có ngôi chùa Phổ Bảo, vốn là tổ đình của
Thiền phái Lâm Tế Chúc Thánh. Theo các nguồn tư liệu, chùa Phổ Bảo không có quan
hệ gì với Hòa Thượng Minh Lượng Nguyệt Ân. Trong số các tư liệu hiện biết về Hòa
thượng Nguyệt Ân có bản in Vu lan bồn kinh và Vu lan bồn tân sớ có
ghi địa điểm ngôi chùa tọa lạc. Vu lan bồn kinh, tờ 3a, hàng cuối nội
dung như sau: “Bản tại Quy Nhơn phủ, Thời Đôn thuộc, Hoằng Truyền Phổ Bảo tự
板在歸仁府時敦属弘傳普寳寺”. Nghĩa
là ván ở chùa Hoằng Truyền Phổ Bảo, thuộc Thời Đôn, phủ Quy Nhơn. Đây là vị trí
chùa Phổ Bảo, chùa đó nằm về thuộc Thời Đôn của huyện Tuy Viễn. Thế kỷ XVIII,
đầu thế kỷ XIX, thuộc Thời Đôn gồm nhiều xã thôn, diện tích khá rộng, khó mà
định rõ vị trí ngôi chùa Phổ Bảo. May mắn cho chúng tôi khi tiếp cận bản in
Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh (gọi tắt Hoa nghiêm kinh). Bản
in theo lối kinh xếp, gồm 82 quyển do Đại sư Phật Chứng Huyền Cơ (1707-1758)
chùa Sắc tứ Quảng Phong ở Quảng Nam khắc ván trùng san vào năm Mậu Dần (1758)
niên hiệu Cảnh Hưng thứ 19. Quyển 21, sau bài tán kinh cuối quyển có ghi thông
tin như sau: “Lão Hòa thượng Minh Lượng Nguyệt Ân, Sa-môn chùa Phổ Bảo chánh
hộ xã Thời Đôn, huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn vui vẻ giúp đỡ san khắc -歸仁府綏遠縣時敦社正户普寳弘傳寺沙門明亮玥殷老和上喜勸助刻”.
Gần tên húy và hiệu của Hòa thượng có hai triện vuông đóng giáp bên, phía sau là
danh sách thiện tín cúng dường khắc kinh. Hàng cuối ghi niên đại lời chí là ngày
mùng 6 tháng 2 năm Ất Hợi (1755),
Cảnh Hưng thứ 16.
Vu
lan
bồn kinh
(1750) ghi chùa Phổ Bảo ở “thuộc Thời Đôn huyện Tuy Viễn”; Hoa
nghiêm
kinh
(1755) ghi rõ hơn “chánh hộ xã Thời Đôn huyện Tuy Viễn”. Vậy, chánh hộ xã Thời
Đôn nằm trong thuộc Thời Đôn, huyện Tuy Viễn.
Cùng
bộ Hoa
nghiêm
kinh
cũng cho biết, chùa
Thập Tháp Di Đà nằm về chánh hộ xã Thời Đôn, tức cùng
thôn
làng với chùa Phổ Bảo. Nhờ
tiếp cận bản
in
Hoa nghiêm kinh,
thông qua các thông tin cuối mỗi quyển, giúp chúng ta đoán định được vị trí chùa
Phổ Bảo xưa,
chùa cùng thôn làng
với chùa Thập Tháp,
tức vị trí cách chùa Thập Tháp không xa, mà
nay,
chùa Thập Tháp tọa lạc thôn Vạn Thuận, phường Nhơn Thành,
thị xã An Nhơn, tỉnh Bình
Định.
Chùa Phổ Bảo hiện nay không
còn và đã mất tích khá lâu, có thể thời Tây Sơn chăng? Kiểm chứng các tư liệu
mộc bản và kinh sách thì chùa xuất hiện với Hòa thượng Minh Lượng đầu tiên trong
mộc bản Kim cang kinh do Thiền sư Tánh Thiện ở thiền viện Bảo Quang khắc
bản năm Cảnh Hưng 10 (1749). Tấm cuối mộc bản Kim cang kinh do chùa Thập
Tháp khắc ván, có ghi niên đại hai lần ấn thí vào năm Cảnh Hưng thứ 27 (1766),
và năm Cảnh Hưng 28 (1767) thì chùa Phổ Bảo hoặc Phổ Bảo Hoằng Truyền được ban
biển Sắc tứ, tức chùa thuộc diện chùa công của phủ Quy Nhơn. Hai năm sau thì Hòa
thượng viên tịch (năm 1769). Các tư liệu gắn kết
thì
Hòa thượng Minh Lượng,
từ khi trụ
trì chùa Phổ Bảo cho đến
khi gần viên tịch, ngài đều
hành đạo ở
chùa Phổ Bảo,
chứ không kiêm nhận chùa nào khác.
Do vậy, Hòa thượng phải viên tịch tại chùa Phổ Bảo và lập tháp ở ngôi chùa này.
Tiếc thay, Phổ Bảo tự không còn, chúng ta chưa xác định vị trí chính xác hiện
nay, nên việc tìm ngôi tháp của Hòa thượng Nguyệt Ân vẫn chờ Phật giáo địa
phương công bố. Hoặc có thể chùa Phổ Bảo gần Thập Tháp nên tháp mộ được di dời
về khuôn viên tổ đình Thập Tháp chăng?
Tóm lại, nhờ tiếp cận mộc bản
Kim cang kinh tại chùa Thập Tháp cùng các bản in kinh sách, chúng ta xác
định rõ niên đại Hòa thượng Minh Lượng Nguyệt Ân là 1686-1769. Cũng trên nền
tảng đó xác định được vị trí chùa Phổ Bảo, nơi Hòa thượng trụ trì và hành đạo.
Phổ Bảo nay không còn nhưng được biết chùa nằm ở chánh hộ xã Thời Đôn, huyện Tuy
Viễn, cùng một thôn làng với tổ đình Thập Tháp, tức nằm trong địa phận thị xã An
Nhơn, tỉnh Bình Định bây giờ.
Hòa thượng Minh Lượng
Nguyệt Ân là một vị cao tăng có sự ảnh hưởng khá lớn,
nhất là sự truyền thừa, làm hưng thịnh Thiền phái Lâm Tế ở miền Trung và miền
Nam. Trong phái Nguyên Thiều thì chi nhánh Minh Lượng Nguyệt Ân hình thành và
phát triển mạnh, lan tỏa rộng tại các chùa Nam Bộ hiện nay. Do vậy, công tác sưu
tầm tư liệu về Hòa thượng Minh Lượng Nguyệt Ân là công việc đáng trân trọng.
Nghiên cứu hành trạng về Hòa thượng sẽ góp phần vào công việc nghiên cứu Phật
giáo Đàng Trong, cũng như sự truyền thừa Thiền phái Lâm Tế tại nước ta. Nhiều
vấn đề liên quan đến Hòa thượng Minh Lượng Nguyệt Ân vẫn còn nhiều tranh luận,
nhất là việc khai sơn lập tự, mà một số chùa ở miền Trung và miền Nam tôn Hòa
thượng làm Tổ khai sơn. Trong khi đó, sử liệu chúng ta tìm được trong kinh sách
thì không như vậy. Việc thẩm định những thông tin trên phải cần tìm thêm các tư
liệu Hán Nôm khác chăng?