Ước vọng nào cho xuân Ất Tỵ
uoc vong nao
Ước
vọng nào cho xuân Ất Tỵ
Nguyên
Cẩn
Mùa
xuân luôn là mùa của những khởi đầu, nơi đất trời như được hồi sinh sau những
ngày đông lạnh giá. Trong tiết trời ấm áp, giữa sắc hoa đua nở và bầu không khí
rộn ràng của ngày Tết, mỗi chúng ta dường như cũng cảm nhận được sự chuyển mình
mạnh mẽ, khao khát vươn tới những điều tốt đẹp hơn.
Mùa
xuân mang theo những tia sáng hy vọng, thắp lên trong lòng người những ước mơ
và khát vọng mới. Với mỗi cá nhân, mùa xuân không chỉ là sự thay đổi của đất trời
mà còn là lúc để lắng đọng, nhìn lại hành trình đã qua và đặt ra những mục tiêu
mới. Đó có thể là ước muốn về một sức khỏe dồi dào, một công việc ổn định, hay
đơn giản chỉ là những ngày tháng bình yên bên gia đình.
Khát
vọng mùa xuân không chỉ nằm ở những điều riêng lẻ mà còn là niềm hy vọng chung
về một năm đầy hứa hẹn. Và chúng ta ai cũng mong mọi chuyện đều “thông”, nghĩa
là không gặp trở ngại. Trong niềm mơ ước ấy hãy cùng nghĩ đến:
Một
nền kinh tế tri thức và khai thông
Năm
2024 sắp qua đi mà như dự báo đầu năm là một năm khó khăn cho kinh tế toàn cầu,
đặc biệt là các nền kinh tế lớn. Các sự kiện xảy ra gần đây từ xung đột địa
chính trị đến thiên tai càng khiến cho các nhận định trở nên thuyết phục. Trong
một thế giới ngày càng “VUCA” (Volatility, Uncertainty, Complexity, and
Ambiguity) - một thuật ngữ đề cập đến hiện tượng có nhiều biến động, sự không
chắc chắn, phức tạp, và không rõ ràng của thế giới ngày nay. Sau đại dịch
Covid-19, cuộc chiến Nga-Ukraine; xung đột ở dải Gaza, ở châu Phi; thảm họa
thiên nhiên; lạm phát; căng thẳng giữa các nền kinh tế lớn (Mỹ - Trung Quốc)… tạo
ra sự phân cực, các nền kinh tế tăng trưởng chậm lại và bế tắc trong việc tìm
ra mô hình tăng trưởng mới, xu hướng dân túy và cực hữu là những nguyên nhân
chính tạo ra VUCA.
Tại
diễn đàn Nhịp đập kinh tế Việt Nam 2024 tổ chức sáng 1-11, các chuyên gia trong
nước và quốc tế nhận định, năm 2024 dù khó khăn, nền kinh tế Việt Nam với sự nỗ
lực điều hành của Chính phủ với những chính sách phù hợp, sự cố gắng của cộng đồng
doanh nghiệp và người dân, tăng trưởng kinh tế Việt Nam 2024 ước đạt từ 6,8 -
7%. Kết quả này cho thấy nền kinh tế Việt Nam đã lấy được đà tăng trưởng trước
Covid-19 dù nông lâm thủy sản vì thiên tai nên tăng hơi chậm nhưng gạo vẫn xuất
hơn 8 triệu tấn với giá cao. Giá trị toàn ngành công nghiệp tăng 8,34%, xuất nhập
khẩu 11 tháng đến 15-11 là 681 tỷ USD, riêng xuất khẩu là 352 tỷ.
Nhận
định về giai đoạn sắp tới, TBT Tô Lâm nhấn mạnh, đó sẽ là kỷ nguyên phát triển,
kỷ nguyên giàu mạnh, thịnh vượng, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Đích đến là dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh, phát triển theo chế độ xã hội chủ nghĩa, sánh vai
với các cường quốc năm châu. Cũng theo Tổng Bí thư, trong tổ chức hoạt động của
chúng ta vẫn còn có những tồn tại, hạn chế cần sớm được khắc phục. Trong 3 điểm
nghẽn lớn nhất hiện nay là thể chế, hạ tầng và nhân lực, thì thể chế là điểm
nghẽn của điểm nghẽn. Thế nên chúng ta cần khai
thông. Song song với cải cách thể chế, thu hút FDI, phát triển hạ tầng giao
thông, hạ tầng số tiếp tục được nhận định sẽ là điểm sáng trong bức tranh tăng
trưởng kinh tế Việt Nam 2025.
Chúng ta phải hướng đến một nền kinh tế tri thức, nghĩa là một hệ thống
kinh tế trong đó sản xuất hàng hóa và dịch vụ chủ yếu dựa trên các hoạt động sử
dụng tri thức, thông tin và sự đổi mới. Kinh tế tri thức nhấn mạnh tầm quan trọng
của vốn con người, tài sản trí tuệ và công nghệ thông tin trong việc tạo ra giá
trị kinh tế. Lao động cần có kỹ năng cao, sản xuất ít phụ thuộc vào vật chất và
tài nguyên thiên nhiên, mà chủ yếu dựa vào việc sử dụng tri thức và thông tin.
Ở
đây chúng ta có thể áp dụng những nguyên tắc của kinh tế học Phật giáo bao gồm
sự phát triển bền vững (sustainability),
trong đó phải tính đến yếu tố bảo vệ môi trường, sự phụ thuộc lẫn nhau (interdependence) theo nguyên lý Duyên khởi
khi mà các nước, các vùng trong một quốc gia, các ngành phải có sự tương liên,
tương tức và tương trợ. Và sau cùng là sự tiết chế (moderation), không sản xuất thừa mứa hay khai thác cạn kiệt. Đề cao
trạng thái hạnh phúc toàn diện (well-being),
cả về vật chất lẫn tinh thần, xã hội, và tâm linh, là nguyên tắc cuối cùng.
Các
chính sách theo hướng kinh tế học Phật giáo cũng nhằm phân phối công bằng hơn,
bình đẳng hơn các nguồn lực và các cơ hội, giải quyết những nhu cầu căn bản,
đói rét, cơm áo, bệnh hoạn, nhu cầu giáo dục, và công ăn việc làm cho người
dân. Nói cách khác, xã hội Phật giáo là xã hội theo nguyên lý Trung đạo. Nói
cách khác, Trung đạo là con đường nhân bản, dẫn dắt con người hướng thượng trong
tâm trí.
Một
xã hội kết nối, tương thông
Mùa
xuân người ta thường ngồi lại bên nhau, nói chuyện để hiểu nhau hơn vì mùa xuân
là mùa đoàn tụ. Chúng ta gặp gỡ những người thân yêu, bè bạn con cái từ nhiều
nơi, hay từ phương xa về, quây quần sum họp, bên mâm cơm, tách trà, ly rượu hàn
huyên. Vậy mà trong thời đại internet này, chúng ta rất thường bắt gặp hình ảnh
cha con chồng vợ vào quán, hay ngồi trong nhà, đối diện nhau mà mạnh ai nấy “quẹt”
iPhone, iPad, chả nói với nhau câu nào (!). Vậy làm sao kết nối yêu thương? Nói
theo Thiền sư Nhất Hạnh, chúng ta đã bỏ qua cơ hội “thiết lập truyền thông” với
nhau. Làm sao mà tương tác (interact), lấy gì mà chia sẻ, cảm thông. Thiền sư
Nhất Hạnh dạy rằng “Chúng ta truyền thông để hiểu người khác và để người khác
hiểu ta. Nếu ta nói mà không ai nghe ta thì ta không thực sự truyền thông. Có
hai điều kiện căn bản để truyền thông có hiệu quả là: Thứ nhất là nghe sâu và
thứ nhì là ái ngữ. Nghe sâu là nghe với ý muốn giúp người khác bớt khổ. Khi lắng
nghe với tâm thương yêu thì ta không bị kẹt vì óc phán xét”. (TNH -The Art of Communicating). Người nói thêm
rằng “nghe với tâm thương yêu là trở về với mái ấm”. Vậy thì mùa xuân chính là
cơ hội cho chúng ta ngồi lại lắng nghe, chia sẻ và động viên nhau, tiếp thêm sức
mạnh đi tiếp cuộc hành trình cam go của cá nhân, của cộng đồng hay đất nước nhất
là trong giai đoạn còn nhiều khó khăn phía trước.
“Tâm
bình, thế giới bình”. Theo nhà Phật, ai cũng nghe lời cầu nguyện về một mùa
xuân bao dung, xuân Di Lặc. Chữ Di Lặc (Maitreya)
bắt nguồn từ gốc Maitri có nghĩa là lòng từ ái, sự êm dịu. Nếu nhân loại biết sống
với lòng khoan dung, từ ái, và cuộc sống này đầy đủ ý nghĩa tương sinh tương tức
và tương dung thì ngày ấy xuân Di Lặc sẽ hiện thế giữa lòng nhân gian.
Trời với đất tụ về
chung một góc
Một đêm nào đời đứng lại
nghe xuân. (Bùi Giáng)
Một
xã hội mà người dân có quyền chia sẻ những phúc lợi, hưởng những thành quả văn
hóa, kinh tế mà thành phố mình, đất nước mình đã đạt được thì xem như một xã hội
bền vững. Làm thế nào dẫn dắt toàn dân đến một xã hội hài hòa cả Thiên - Địa -
Nhân, trong đó sự phát triển tâm linh và nền tảng văn hóa là yêu cầu tất yếu. Đó
là con đường phục hưng Phật giáo trong xã hội hôm nay, hướng đến ngày mai.
Những
con người thông tuệ, tỉnh thức
Từ
lúc sinh ra, con người luôn bị ám ảnh về những cái “của tôi”, “của anh” từ ý tưởng
của mình đến thành công của mình, nhà của mình, con của mình... Chúng ta không
ngừng phát triển tư duy tư hữu… Nhưng cái gọi là tài sản của ta hôm nay có thể
bị đánh cắp hay bị tai họa, bão lũ, động đất cuốn đi, thậm chí nó vẫn tồn tại
nhưng chúng ta sẽ mất nó theo thời gian, ví dụ ngôi nhà, của cải không còn thuộc
về ta nữa sau khi ta qua đời. Các thiền sư Phật giáo muốn chúng ta quán chiếu về
cái mất chứ không phải cái được.
Cần
minh bạch và tỉnh thức trong hoạt động hàng ngày, trong kế hoạch bản thân, làm
rõ nhu cầu, động lực sống và hoạt động tài chính bản thân vì mục tiêu hay vì lợi
nhuận. Kai Romhardt trong We are the
Economy viết, “Đức Phật đã đề ra giới
luật rõ ràng: bất cứ Phật tử nào cũng được phát ba bộ y, một đồ lọc nước, một
bát khất thực và những đồ vật hàng ngày. Việc các Phật tử sống không màng đến của
cải truyền đi một thông điệp rõ ràng đến phần còn lại của thế giới rằng: Ta có
thể sống một cuộc đời hạnh phúc mà không cần đến tài sản hay tiền bạc. Đó cũng
chính là cơ hội, là con đường mà các nhà du tăng khất sĩ trao tặng cho các
thương nhân, chính trị gia và nhà buôn để họ có thể chọn ra một hướng khác để hạnh
phúc”. (Kai Romhardt, sđd).
Để
đạt được tâm tỉnh thức, phải sống trong chánh niệm
Chúng ta nghe nói đến thiền Vipassanā, trong
đó chánh niệm (sati) được dịch là
"sự quán sát thuần khiết": thức tỉnh với cái mà mình đang làm; điều
này khuyến khích sự nhận thức về tính vô thường của cơ thể, của cảm xúc và của
tâm trí, cũng như trải nghiệm năm thủ uẩn (skandhas),
năm triền cái, bốn thực tại và bảy giác chi.
Nhiều
doanh nhân đi tìm cách chữa trị các “sang chấn tâm lý” gây ra do khó khăn trong
công việc kinh doanh, những thất bại dẫn đến căng thẳng, gia đình lục đục, bằng
cách tìm đến những khóa tu ngắn ngày trong những ngôi chùa hay “Trung tâm chữa
lành”. Còn về hiệu quả thì có khi “chỉ như những liều thuốc giảm đau nhất thời
khi quay lại với công việc, với áp lực thương trường, những khó khăn khiến
doanh nhân trước đó vẫn còn ở đó. Vì sao? Vì những người trị liệu (coach hay
mentor) chưa hẳn là những vị thiền sư nhiều năm tu tập, mà có khi họ chỉ là những
KOL (Key Opinion Leader), một anh diễn viên lợi khẩu tư vấn khoác áo “chuyên
gia”. “Chữa lành” đang trở thành "trend" và là một từ thời thượng.
Người ta bắt gặp từ này ở những cụm từ “về quê chữa lành", "du lịch
chữa lành", "đọc sách chữa lành", " xem phim chữa
lành", "âm nhạc chữa lành", “múa trị liệu”, “ngồi thiền chữa
lành”, thậm chí “ăn kiêng” để thải độc cơ thể, ăn uống theo recipe đặc trị để
ngừa các bệnh ung thư, truyền nhiễm…
Được gọi là "chữa lành”, tiếng Anh là
healing, bất cứ phương pháp nào khiến tâm hồn thư thái, an nhiên; quên đi những
nỗi đau, sự tổn thương; dập tắt những cảm xúc tiêu cực, những âu lo, phiền muộn,
thấy cuộc đời đáng sống hơn, là quá trình điều trị nhằm giảm nhẹ các tình trạng
có liên quan đến các rối loạn sức khỏe tinh thần hoặc tình trạng thể chất liên
quan để đạt trạng thái an yên, mãn nguyện. Trong hội thảo “Thiền Vipassana
trong đời sống hiện đại” diễn ra tại tổ đình Bửu Long ngày 24-11-2024 có tới
hơn 50 bài tham luận về công dụng thiền Vipassana trong việc đối trị cảm xúc,
chữa lành tâm lý… Vipassana giúp chúng ta thanh lọc tư tưởng, để quán xét và giảm
thiểu những tâm sở bất thiện như sân hận, tham lam, ích kỷ, v.v., bằng cách tự quan
sát chính mình, giúp chúng ta nhìn thấy sự vật như "nó là", chứ không
phải “nó sẽ trở nên là” hay “nó cần là”...
Phật
dạy chúng ta phải đối diện với thực tế chứ không phải chạy trốn nó vì những vướng
mắc hay phức tạp không thể giải quyết. Trong thực hành Vipassana, người ta cần
thực hiện ba bước. Bước đầu tiên, quan sát và tuân thủ ngũ giới. Tuân thủ những
giới này giúp chúng ta có chánh nghiệp, chánh niệm và chánh ngữ. Bước sau đó là
làm chủ cái tâm lộn xộn, “tâm viên ý mã “của chính mình. Hãy bắt đầu với
Anapanasati - Chánh niệm hơi thở. Chúng
ta nhận biết về hơi thở của chính mình một cách tự nhiên. Chỉ bằng con đường thực
hành Vipassana chúng ta mới thoát khỏi tất cả những tâm sở bất tịnh. Trong một
thời gian dài hay ngắn tùy công phu tu tập, sự thay đổi trong con người chúng
ta sẽ cảm nhận rõ ràng. Cũng xin mở ngoặc nói thêm: phương thức này không có
bóng dáng thần linh hay giáo chủ, nói như Đức Phật “Hãy tự thắp đuốc soi đường
cho chính mình”, chính bạn phải vạch ra lộ trình và kiên trì đi theo nó.
Người
ta nhận thấy sau quá trình điều trị, cá nhân hành giả sẽ có sức khỏe tim mạch tốt
hơn, có khả năng kéo dài tuổi thọ hơn, giảm nồng độ cortisol máu (hormone căng
thẳng), tim đập chậm và đều hơn, ít có khả năng bị nhiễm trùng đường hô hấp
trên khi bị cảm lạnh hoặc cúm thông thường… Ngoài ra, quá trình ấy cũng giúp khắc
phục những bệnh thái tâm lý: trầm cảm, lo âu, hay rối loạn cảm xúc. Trong một
nghiên cứu, thiền được chứng minh là một trong những lựa chọn của nhân viên để
giảm bớt căng thẳng. Kết quả chỉ ra hiệu quả của Vipassana đối với sự khỏe mạnh
tâm lý (psychological well-being - PWB) và sự hài lòng cuộc sống (Satisfaction
with Life Scale - SWLS)
Thiền
Vipassana đem lại lợi ích nhiều mặt cho doanh nhân và lãnh đạo, làm tăng độ
minh triết trong tư duy, ra quyết định sáng suốt, và tăng EI (Emotional
Intelligenge - trí tuệ cảm xúc). Thiền sư Nhất Hạnh, có lần được mời đến trụ sở
Google (Hoa Kỳ) để giảng về chánh niệm (tháng 9-2013). Ngài dạy họ thực hành
chánh niệm (mindfulness) và thực hành
ngay trong môi trường làm việc. Mỗi hai tháng Google tổ chức “Bữa trưa chánh niệm”,
khi đó mọi người ăn trong yên lặng trừ tiếng chuông. Quân đội Hoa Kỳ tại Hawaii
(2019), Hải quân Hoàng gia Anh và Lực lượng Phòng vệ New Zealand cũng tổ chức
rèn luyện chánh niệm cho các binh sĩ. Sau đại dịch Covid-19, thế hệ gen Z (sinh
1990-2010) cũng quan tâm đến thực hành chánh niệm trong việc duy trì sức khỏe
tinh thần và cảm xúc. 32% người trả lời trong độ tuổi 13-39 cho biết họ đã thực
hành thiền và chánh niệm thường xuyên để xua tan lo âu (theo khảo sát của công
ty nghiên cứu thị trường YPulse). Trong các doanh nghiệp, 36% tin rằng chủ lao
động nên cung cấp các khóa dạy thiền hoặc chánh niệm tại nơi làm việc để giúp
nhân viên tránh tình trạng kiệt sức. (Ở Việt Nam, những công ty lớn như FPT,
Vinamilk… cũng bước đầu tập cho nhân viên “tĩnh tâm”).
Nhìn
mùa xuân qua tâm “tỉnh thức”
Trong
những bài thơ xuân như Xuân vãn, thiền
sư đã nhìn mùa xuân bằng cáí nhìn thiền học, khi bậc giác ngộ đã hiểu rõ quy luật
của tự nhiên, hiểu được tính chất căn bản của “đông hoàng diện” (mặt của chúa
xuân), thì khi đó việc ngắm cảnh mùa xuân đôi khi chỉ đơn giản là ngồi trên thảm
cỏ ngắm nhìn hoa rụng nhận diện vô thường trong tâm thức lạc quan.
Xuân vãn
Niên thiếu hà tằng liễu
sắc không,
Nhất xuân tâm tại bách
hoa trung.
Như kim khám phá đông
hoàng diện,
Thiền bản bồ đoàn khán
trụy hồng. (Trần Nhân Tông)
Tạm
dịch:
Xuân muộn
Ngày trẻ ta nào hiểu sắc
không,
Trăm hoa xuân nở rộn
trong lòng
Chúa xuân nay đã nhìn tỏ
mặt
Nệm cỏ ngồi xem rụng cánh hồng. (NC)
Hay
trong đoạn cuối bài thơ The World-Soul,
thi hào Ralph Waldo Emerson bày tỏ cái nhìn lạc quan về thế giới không khác gì
một thiền sư.
Spring still makes spring
in the mind
When sixty years are
told;
Love wakes anew this
throbbing heart,
And we are never old.
Over the winter
glaciers,
I see the summer glow,
And though the
wild-piled snowdrift
The warm rose buds
below.
(By Ralph Waldo Emerson)
(1803-1882)
Tạm dịch:
Xuân vẫn bừng nở giữa
lòng người
Dù hôm nay ta đã 60
Tình đánh thức trái tim
rộn rã
Chúng ta không bao giờ
già cả
Trên mùa đông lạnh giá
như băng
Vẫn thấy hè lấp lánh
long lanh
Dưới bao lớp tuyết dày
bao phủ
Đóa hồng xinh ấm nồng
hé nụ. (NC)
Chúng
ta chợt nhớ khoảng 800 năm trước, vào thời nhà Lý, Thiền sư Mãn Giác trong bài Cáo tật thị chúng cũng đã viết 2 câu cuối:
Mạc vị
xuân tàn hoa tận lạc
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
Dịch:
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng
hết
Đêm qua sân trước một cành mai.
(HT.Thích Thanh Từ)
Hành
trình của mùa xuân cũng là hành trình gieo mầm hy vọng. Như những hạt giống được
vun trồng, khát vọng của chúng ta cần sự chăm chỉ, kiên trì và niềm tin để vươn
mình, kết trái. Mỗi bước nhỏ mà ta cố gắng hôm nay chính là nền móng để xây dựng
một tương lai rực rỡ. Dù đôi lúc khó khăn, hãy nhớ rằng mỗi mùa xuân đều là cơ
hội để bắt đầu lại, để làm mới chính mình và sống trọn vẹn hơn từng khoảnh khắc.
Mùa
xuân, chúng ta hãy thả hồn trên đôi cánh của trí tưởng tượng bay vào vùng trời
thênh thang ấy. Nói như Steve Jobs, “Hãy cứ khát khao, hãy cứ dại khờ”. Để rồi
mong sao chúng ta và quanh ta là những tâm hồn tràn đầy khí phách và nhiệt huyết,
những con người thông tuệ, “tỉnh thức” để là chính mình. Nói cách khác, theo
ngôn ngữ thời đại, là những kẻ thiện tâm cùng xây dựng một xã hội kết nối yêu
thương, tương thông, với một nền kinh tế tri thức, phát triển bền vững, khai
thông mọi điểm nghẽn, tập trung nguồn lực, vì mục tiêu của kỷ nguyên mới, chuyển
mình trở thành một quốc gia cường thịnh, đáng sống, và xây dựng một thể chế công
bình. Chúc cho những khát vọng mùa xuân của bạn, của tôi, và của tất cả chúng
ta đều sẽ thành hiện thực. Một mùa xuân mới, Ất Tỵ, đang chờ phía trước - hãy
cùng nhau đón chào, với tràn đầy năng lượng và nhiệt huyết!