Quan niệm của Đức Phật về tài sản
quan niem cua duc phat
QUAN
NIỆM CỦA ĐỨC PHẬT VỀ TÀI SẢN
Quảng
Luận
Cơn bão Yagi vừa qua là cơn bão khiến các
chuyên gia thời tiết đầy kinh nghiệm cũng phải run sợ vì dự báo được sức tàn
phá của nó. Diễn ra theo kịch bản xấu nhất khi càn quét nặng nề Hải Phòng và Quảng
Ninh, Yagi không chỉ đã đánh trực tiếp vào vùng kinh tế trọng điểm của miền Bắc
mà giờ đây hầu hết các tỉnh miền Bắc còn tiếp tục phải chịu những hệ lụy khác
sau bão. Mưa, lũ quét, ngập lụt, sạt lở đất, vỡ đê… đã đưa đến những thiệt hại
nghiêm trọng về người và của.
Là Phật tử, chúng ta không khỏi xót
xa và đồng cảm với những nỗi đau thương và mất mát của đồng bào. Nhưng giữ gìn
sự bình an nội tâm trước những biến động bên ngoài là một trong những cách mà
người tu, xuất gia cũng như tại gia, có thể làm để cống hiến cho xã hội. Thiết
nghĩ, giữa thời đại vật chất lên ngôi, lũng đoạn đời sống đạo đức tinh thần của
phần lớn các tầng lớp xã hội như hiện nay, chúng ta càng phải nên xác định một thái
độ đúng đắn và phù hợp với đạo Phật về vấn đề tài sản mới mong tìm được sự bình
an đó mà không bị cơn bão của vật dục cuốn đi quá xa.
Lời
dạy của Đức Phật về tài sản đối với Phật tử tại gia
Trong Tăng
chi bộ, chương Một pháp, phẩm Làm bạn với thiện, Đức Thế Tôn dạy: “Ít có giá trị, này các Tỷ-kheo, là những mất
mát này, như mất mát tài sản. Cái này là khốn cùng giữa các mất mát, này các Tỷ-kheo,
tức là mất mát trí tuệ. Ít có giá trị, này các Tỷ-kheo, là những tăng trưởng
này, như tăng trưởng tài sản. Cái này là tối thượng giữa các tăng trưởng, này
các Tỷ-kheo, tức là tăng trưởng trí tuệ”. Cũng trong Tăng chi bộ, chương Năm pháp, phẩm Du
hành dài, Đức Phật dạy thêm: “Tiền bạc, của
cải là tài sản của năm nhà: lửa, nước, vua quan, trộm cướp, vợ con phá tán”. Điều đó cho thấy rằng tiền của
không đồng nghĩa với uy lực thực sự hay bình an thực sự như người đời vẫn tưởng.
Tuy nhiên, không dễ để người thế gian nhận ra
chân lý trong lời dạy của Đức Phật. Thực tế họ làm ngược lại. Tài sản với họ
không bao giờ là đủ. Tích chứa cho tôi, cho con tôi, cho về sau và đời sau… Người
thế gian coi đồng tiền là máu thịt, “đồng tiền liền khúc ruột”, nên khi mất mát
họ khóc than đau đớn, có người bị phá sản tuyệt vọng đến tự vẫn…
Đức Phật không phủ nhận giá trị của tài sản đối
với người đời. Dẫn theo tác giả Thích nữ Quảng Hiền trong bài viết “Vấn đề tài
sản của người tại gia”, Tạp chí Nghiên cứu
Phật học thì: “Tài sản có giá trị vô
cùng to lớn, nó không những giúp bản thân, gia đình có đời sống ấm no mà còn là
phương tiện thuận lợi để làm phước thiện, tạo phước đức cho kiếp sau. Khi tài sản
làm ra đúng pháp sẽ luôn được khả lạc, khả hỷ, khả ý, tiếng tốt về bản thân được
vang xa và người thân được thơm lây. Vị ấy sẽ được sống lâu, thọ mạng kéo dài,
sau khi thân hoại mạng chung được sinh lên cõi thiện. Có bốn loại an lạc mà người
tại gia thọ hưởng khi tài sản làm ra đúng pháp là: Vị ấy được giữ nó, đây gọi
là lạc sở hữu. Gia chủ thọ hưởng và làm việc phước hoan hỷ đây gọi là lạc thọ dụng
tài sản. Không mắc nợ ai nên gọi là lạc không mắc nợ. Tài sản làm ra đúng pháp
nên vị ấy được lạc không sợ phạm tội”.
Đồng thời, Đức Phật dạy người Phật tử cách sử
dụng tài sản sao cho hợp lý nhất. Trong Trường
bộ, kinh Giáo thọ Thi-ca-la-việt,
Đức Thế Tôn dạy:
Người tích trữ tài sản,
Như cử chỉ con ong.
Tài sản được chồng chất,
Như ụ mối đùn cao,
Người cư xử như vậy,
Chất chứa các tài sản,
Vừa đủ để lợi ích
Cho chính gia đình mình.
Tài sản cần chia bốn
Ðể kết hợp bạn bè:
Một phần mình an hưởng,
Hai phần dành công việc,
Phần tư, phần để dành,
Phòng khó khăn hoạn nạn.
Với
nội dung có khác một chút nhưng ý nghĩa vẫn tương đồng, kinh số 1283, kinh Tạp A-hàm chép:
Một
thời, Đức Phật ở trong vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có
một Thiên tử tướng mạo tuyệt vời, vào lúc cuối đêm, đến chỗ Phật, đảnh lễ sát
chân Phật, ngồi lui qua một bên, từ thân tỏa ánh sáng chiếu khắp vườn Cấp Cô Độc,
rừng cây Kỳ-đà. Thiên tử kia nói kệ hỏi Phật:
Người tạo tác thế nào
Trí tuệ để cầu tài
Cùng nhiếp thọ tài sản
Hoặc hơn, hoặc lại kém?
Bấy
giờ, Thế Tôn nói kệ đáp:
Mới học nghề nghiệp khéo
Tìm cách gom tài vật
Được tài vật kia rồi
Phải nên phân làm bốn.
Một phần tự nuôi thân
Hai phần cho doanh nghiệp
Phần còn lại để dành
Nghĩ đến người thiếu thốn.
Người kinh doanh sự nghiệp
Làm ruộng hay buôn bán
Chăn trâu, dê phồn thịnh
Nhà cửa dùng cầu lợi
Tạo phòng ốc giường nằm
Sáu thứ đồ nuôi sống
Phương tiện tạo mọi thứ
An lạc sống suốt đời.
Khéo tu nghiệp như vậy
Trí tuệ dùng cầu tài
Của báu theo đó sinh
Như các dòng về biển.
Tài sản nhiều như vậy
Như ong gom vị ngọt
Ngày đêm của tăng
dần
Như kiến dồn đống
mồi.
Không giao của người
già
Không gửi người
bên cạnh
Không tin người
gian xảo
Cùng những người
keo lẫn (…).
Qua những bản kinh trên, có thể
thấy được cách sử dụng tài sản đúng đắn cho người tại gia là chia tài sản kiếm
được làm bốn phần: một phần cho cuộc sống hàng ngày của bản thân, hai phần để
tiếp tục công việc làm ăn, phần còn lại để dành khi hoạn nạn và nghĩ đến người
thiếu thốn.
Người có trí tuệ biết nhìn mọi
thứ với tuệ quán vô thường mới mong tránh được khổ đau khi mất mát những gì
mình trân quý và những người mình thương yêu. Bởi vì:
Con ta, tài sản ta
Kẻ ngu mãi lo xa
Chính ta còn không có
Tài sản, con đâu ra?
(Pháp cú 62, phẩm Ngu si)
Bảy tài sản của bậc Thánh
Khi đã trở thành đệ tử xuất gia của
Đức Phật, tài sản của người tu chỉ là ba y và một cái bình bát. Xuất gia thì phải
“tâm hình dị tục”, lẽ nào chúng ta dễ dàng để cho đồng tiền hay các thứ của cải
vật chất khác chi phối rồi trở thành một “hội chúng tôn trọng tài vật, không
tôn trọng diệu pháp”? Giới luật vốn dĩ không cho phép người tu nắm giữ tài vật.
Ngày nay phần nhiều gọi là “phương tiện”, thậm chí “phương tiện trong phương tiện”,
đôi khi không tránh khỏi chất chứa tiền của. Đó là một trong những lý do khiến
người tu bớt đẹp trong mắt tín đồ, cũng không còn đẹp trong mắt các đồng tu phạm
hạnh: “Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo ưa muốn lợi dưỡng, ưa muốn tôn
kính, ưa muốn được tán thán, không xấu hổ, không sợ hãi, ác dục và tà kiến.
Thành tựu bảy pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không được các đồng Phạm hạnh
ái mộ, không được khả ý, không được kính trọng, không được bắt chước tu tập
theo”. (Tăng chi bộ, chương Bảy pháp, phẩm Tài sản).
Đức Phật dạy rõ có bảy tài sản của
vị Thánh đệ tử:
Này
các Tỷ-kheo, có bảy tài sản này. Thế nào là bảy?
Tín
tài, giới tài, tàm tài, quý tài, văn tài, thí tài, tuệ tài. Và này các Tỷ-kheo,
thế nào là tín tài?
Ở đây,
này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử có lòng tin, tin tưởng ở sự giác ngộ của Như Lai:
“Ðây là Thế Tôn, bậc A-la-hán… Phật, Thế Tôn”. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tín
tài.
Và này
các Tỷ-kheo, thế nào là giới tài?
Ở đây,
này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử từ bỏ sát sinh…, từ bỏ đắm say rượu men rượu nấu.
Này các Tỷ-kheo, đây gọi là giới tài.
Và này
các Tỷ-kheo, thế nào là tàm tài?
Ở đây,
này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử có xấu hổ, xấu hổ đối với thân làm ác, miệng nói
ác, ý nghĩ ác, xấu hổ vì đã thành tựu các pháp ác, bất thiện. Này các Tỷ-kheo,
đây gọi là tàm tài.
Và này
các Tỷ-kheo, thế nào là quý tài?
Ở đây,
này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử có lòng sợ hãi, sợ hãi đối với thân làm ác, miệng
nói ác, ý nghĩ sợ hãi vì thành tựu các pháp ác, bất thiện. Này các Tỷ-kheo, đây
gọi là quý tài.
Và này
các Tỷ-kheo, thế nào là văn tài?
Ở đây,
này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử nghe nhiều, gìn giữ những gì đã nghe, chất chứa
những gì đã nghe, những pháp ấy, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, nghĩa văn
đầy đủ, đề cao đời sống phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh; những pháp ấy,
vị ấy nghe nhiều, đã nắm giữ, đã ghi nhớ tụng đọc nhiều lần, chuyên ý quán sát,
khéo thành tựu nhờ chánh kiến. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là văn tài.
Và này
các Tỷ-kheo, thế nào là thí tài?
Ở đây,
này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử với tâm từ bỏ cấu uế của xan tham, sống tại gia
phóng xả, với bàn tay rộng mở, ưa thích xả bỏ, sẵn sàng để được yêu cầu, ưa
thích san sẻ vật bố thí. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là thí tài.
Và này
các Tỷ-kheo, thế nào là tuệ tài?
Ở đây,
này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử có trí tuệ, có trí tuệ về sinh diệt, thành tựu
Thánh thể nhập (quyết trạch) đưa đến chơn chánh đoạn diệt khổ đau. Này các
Tỷ-kheo, đây gọi là tuệ tài.
Này
các Tỷ-kheo, đây gọi là bảy tài sản.
Tín tài và giới
tài,
Tàm tài và quý tài,
Văn tài và thí tài,
Và tuệ, tài thứ bảy.
Ai có những tài này,
Nữ nhân hay nam nhân,
Ðược gọi không nghèo khổ,
Mạng sống không trống rỗng,
Do vậy tín và giới,
Tịnh tín và thấy pháp,
Bậc trí chuyên chú tâm,
Ức niệm lời Phật dạy.
(Tăng chi bộ, chương Bảy
pháp, phẩm Tài sản)
Đây mới là những tài sản đích thực của người tu Phật. Bảy tài sản này
không bị lửa, nước, vua chúa, ăn trộm, các kẻ thừa tự, thù địch chi phối. Ai có
bảy tài sản này, người đó chân chính được gọi không nghèo khổ.
Thừa tự pháp, không thừa tự tài vật
Đức Phật mong muốn các đệ tử sẽ là những người thừa tự pháp của Ngài mà
không phải là người thừa tự tài vật: “Này các Tỷ-kheo, hãy là người thừa tự
pháp của Ta, đừng là những người thừa tự tài vật. Ta có lòng thương tưởng các
người và Ta nghĩ: ‘Làm sao những đệ tử của Ta là những người thừa tự pháp của
Ta, không phải là những người thừa tự tài vật’”. (Trung bộ, kinh Thừa
tự pháp thứ ba).
Nếu như khoa học hướng ra bên ngoài để khám phá, thì đạo Phật dạy con
người hướng vào bên trong. Nếu không xác định được thái độ và mục đích đúng đắn
trong tu học thì người xuất gia rất dễ rơi vào cạm bẫy của ngũ dục thế gian,
trong đó có tiền của vật chất. Ăn, ngủ, sắc đẹp, tiền tài, danh vọng, tất cả chỉ
là “khúc xương trần, là miếng thịt sống, là bó đuốc rơm bay ngược gió, là hố
than hồng, là con rắn độc, là một giấc mộng, là cây sai trái” (kinh Người bắt
rắn). Ngày nay mạng xã hội với cuộc sống ảo là địa ngục, là cạm bẫy mà người
tu có thể rơi vào bất cứ lúc nào. Đủ cô gái đẹp ăn mặc hở hang làm loạn thị
giác, đủ loại thực phẩm và những trò mukbang lôi kéo vị giác, đủ loại nhạc từ
du dương đến gào thét lay động tâm thức người nghe, đủ loại tin tức phần nhiều
là giật gân tiêu cực mà chỉ cần “online” thôi là hồn xiêu phách tán, những phim
ma truyện ma gieo rắc nỗi sợ hãi, chưa kể những thông tin và hình ảnh đồi trụy
lúc nào cũng sẵn sàng xuất hiện khơi gợi sự tò mò và dục vọng bản năng của con
người. Kể cả khi đã có lý tưởng mà thiếu quyết tâm, thiếu ý chí, thiếu tỉnh táo
thì người tu luôn có nguy cơ trở thành một phiên bản lỗi của chính mình, chạy
theo trần cảnh lúc nào không hay.
Chỉ cần sống theo giới luật và uy nghi thì người xuất gia không bao giờ
phải lo lắng về việc nuôi thân mạng, vì phước và trí của Đức Như Lai để lại là
rất lớn. Do đó, hãy là người thừa tự pháp mà đừng là người thừa tự tài vật của Đấng
Cha lành. “Thỉ ư xuất gia thọ giới, tận kỳ chung thân thọ mạng, thường đương thời
khắc hệ ức Tam bảo”, “hằng tồn tàm quý, khởi tri túc niệm” là những tâm niệm
luôn bảo hộ cho người tu trên con đường tu học. Bên cạnh đó, còn có mười điều
mà Đức Thế Tôn dạy người xuất gia phải luôn quán sát:
Này các Tỷ-kheo, có mười pháp này,
người xuất gia phải luôn luôn quán sát. Thế nào là muời?
1. Người xuất
gia phải luôn luôn quán sát: “Ta nay đi đến tình trạng là
người không giai cấp”.
2. Người xuất
gia phải luôn luôn quán sát: “Đời sống của ta tùy thuộc vào
người khác”.
3. Người xuất
gia phải luôn luôn quán sát: “Nay cử chỉ oai
nghi của ta cần phải thay đổi”.
4. Người xuất
gia phải luôn luôn quán sát: “Không biết tự ngã có chỉ
trích ta về giới hạnh không?”.
5. Người xuất
gia phải luôn luôn quán sát: “Không biết các đồng Phạm
hạnh có trí, sau khi tìm hiểu, có chỉ trích ta về giới
hạnh không?”.
6. Người xuất
gia phải luôn luôn quán sát: “Mọi vật khả ái, khả
ý của ta bị đổi khác, bị biến hoại”.
7. Người xuất
gia phải luôn luôn quán sát: “Ta là chủ nhân của nghiệp, là thừa
tự của nghiệp, là thai tạng của nghiệp, là bà con của nghiệp, là chỗ
quy hướng của nghiệp; phàm nghiệp gì ta sẽ làm, thiện hay ác, ta sẽ thừa tự nghiệp
ấy”.
8. Người xuất
gia phải luôn luôn quán sát: “Thời gia trôi qua bên ta
và nay ta đã là người như thế nào?”.
9. Người xuất
gia phải luôn luôn quán sát: “Ta có hoan hỷ trong ngôi
nhà trống hay không?”.
10. Người xuất gia phải luôn
luôn quán sát: “Ta có chứng được các pháp
thượng nhân, tri kiến thù thắng xứng đáng Bậc Thánh không,
để đến những ngày cuối cùng, các đồng Phạm hạnh có hỏi, ta sẽ
không có xấu hổ?”.
Này các Tỷ-kheo, mười pháp này,
người xuất gia phải luôn luôn quán sát.
(Tăng chi bộ, chương
Mười pháp, phẩm Mắng nhiếc)
Kết luận
Kinh Pháp hoa nói “Tam giới bất an do như hỏa
trạch”. Thiền sư Nhất Hạnh đã diễn tả lại lời Đức Phật bằng một cách khác: “Này
các vị khất sĩ, tất cả vạn pháp đều đang bốc cháy. Cái gì đang cháy? Sáu loại
giác quan là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý đang bốc cháy. Sáu loại đối tượng của
giác quan là sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp đang bốc cháy. Sáu loại nhận thức
là cái thấy, cái nghe, cái ngửi, cái nếm, cái xúc chạm và cái suy tư cũng đang
bốc cháy. Bốc cháy bằng thứ lửa nào? Bốc cháy bằng lửa tham dục, lửa hận thù, lửa
ảo vọng. Tất cả đang bốc cháy theo với những cái khổ của sinh, già, bệnh chết,
với đau thương, phiền muộn, lo lắng, sợ hãi, và thất vọng”. (Đường
xưa mây trắng)
Nhưng dù là giữa cảnh lửa cháy, đại hồng thủy hay cuồng phong, thì tìm về
với những lời dạy của Đức Phật luôn là cách để chúng ta sống bình an và mang
bình an đến cho mọi người.