Sự tương quan giữa Đức Phật Tỳ-lô-giá-na và Đức Phật A-di-đà

su tuong quan giua

SỰ TƯƠNG QUAN GIỮA ĐỨC PHẬT TỲ-LÔ-GIÁ-NA VÀ ĐỨC PHẬT A-DI-ĐÀ

Thích Đồng Thuận

Đức Phật Tỳ-lô-giá-na và Đức Phật A-di-đà là hai trong năm vị Phật tối quan trọng trong Mật tông. Trong giáo lý Tam thân thì Phật Tỳ-lô-giá-na được xem là bản thể, là pháp thân Phật, còn Phật A-di-đà được xem là báo thân Phật. Hết thảy chư Phật trong thế giới này, kể cả Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, đều được xem là hóa thân của bổn tôn Tỳ-lô-giá-na.

Hình tượng Đức Phật Tỳ-lô-giá-na và Đức Phật A-di-đà xuất hiện khá sớm trong văn điển Phật giáo Đại thừa, đặc biệt là vào thời kỳ giáo lý Tam thân thịnh hành khoảng thế kỷ II-III TL. Các bản kinh tiêu biểu nói về Đức Phật Tỳ-lô-giá-na và Đức Phật A-di-đà Phật thuyếtlượng thọ kinh (TK I TL), Ban châu tam muội kinh (TK II TL), Đại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh (TK II-III TL), Phật thuyết A-di-đà tam da tam Phật tát lâu Phật đàn quá độ nhân đạo kinh (TK III TL), Phạm võng kinh (TK IV TL)...

Đến thế kỷ thứ VII TL, khi các ngài Thiện Vô Úy, Kim Cương Trí và Bất Không Kim Cương đem kinh Đại nhật truyền sang Trung Hoa thì tín niệm về Phật Tỳ-lô-giá-na phát triển cực thịnh, sau đó lan rộng ra các nước Phật giáo Đại thừa. Ở Nhật Bản, Đức Phật Tỳ-lô-giá-na được đông đảo tu sĩ và Phật tử hết mực tôn thờ và sùng bái.

Chúng ta thấy giữa Đức Phật Tỳ-lô-giá-na và Đức Phật A-di-đà có nhiều điểm tương đồng, như sự tương quan về ý nghĩa danh hiệu, cõi nước, tính biến hóa cùng khắp...

1.      Sự tương quan về ý nghĩa danh hiệu

Về danh hiệu, Phật Tỳ-lô-giá-na còn được gọi là Đại Nhật Như Lai hay Quang Minh Biến Chiếu Tôn, đây là một vị Phật rất nổi tiếng của Phật giáo Đại thừa, đặc biệt đối với Hoa nghiêm tông và Mật tông.

Theo kinh Phạm võng, Phật Tỳ-lô-giá-na vốn là bản nguyên của mọi vật, là nguồn gốc của vũ trụ, là pháp thân thanh tịnh của trăm ngàn ức hóa Phật: “吾已為本原, 名為盧舍那佛” (Vì ta là bản nguyên, nên gọi là Phật Lô-xá-na)[1].

 Theo Phật Quang đại từ điển,Đại Nhật Như Lai dịch âm: Ma-ha Tỳ-lô-giá-na. Đức Phật bản tôn tối thượng của Mật giáo. Cũng gọi là Tỳ-lô-giá-na Phật, Tối cao hiển quảng nhãn tạng, Biến chiếu vương Như Lai, Quang minh biến chiếu, Đại nhật biến chiếu, Biến nhất thiết xứ, Biến chiếu tôn. Tên hiệu của Ngài có ba nghĩa: 1. Ánh sáng soi khắp đánh tan bóng tối; 2. Thành tựu mọi việc; 3. Ánh sáng không sinh diệt[2].

Từ điển Phật học của Đạo Uyn giải thích ý nghĩa danh hiệu của Phật Tỳ-lô-giá-na như sau: “Đại Nhật Phật, một trong ngũ Phật, hiện thân của Pháp giới. Khoảng thế kỷ X, trong giáo pháp Đại thừa người ta nói thêm về quan điểm Phật chuyển hóa siêu việt và các vị Bồ-tát chuyển hóa liên hệ. Đại Nhật Phật là vị Phật đầu tiên được xem là chuyển hóa từ pháp thân[3].

Trong Phật học từ điển, Đoàn Trung Còn cũng giải thích với nội dung tương tự: “Tỳ-lư-xá-na Phật dịch nghĩa Đại Nhật Phật. Một Đức Như Lai hào quang chiếu khắp các nơi như ánh sáng mặt trời. Ngài làm Pháp vương ở cõi Tịnh độ Liên hoa đài tạng thế giới, thường có Văn Thù Bồ-tát và Phổ Hiền Bồ-tát theo chầu hai bên[4].

Trong Vũ trụ quan Phật giáo triết học & nguồn gốc, Akira Sadakata đứng trên bình diện ngôn ngữ học đã giải thích danh hiệu của Phật Tỳ-lô-giá-na như sau: “Từ Vairocana có nghĩa là chiếu sáng khắp nơi. Từ tố roc- có cùng xuất xứ giống như từ lux (ánh sáng) trong tiếng La-tinh. Khi Phật giáo Đại thừa đang phát triển, các tín ngưỡng về thần Mặt trời phổ biến khắp Ấn Độ, phương Đông và châu Âu. Đức Tỳ-lô-giá-na được miêu tả như một vị thần thái dương, và vào khoảng thế kỷ VII TL, Ngài được triển hóa thành Đức Phật bí mật Đại Tỳ-lô-giá-na, vị Phật trừu tượng, căn bản, siêu việt hình dung, sắc tướng[5].

Tựu trung, đa phần các nhà Phật học đều đồng nhất giải thích ý nghĩa danh hiệu Tỳ-lô-giá-na hay Đại Nhật Như Lai có nghĩa gốc là mặt trời hoặc liên quan đến các đặc tính của mặt trời. Vị Phật này cũng gắn liền với các đặc tính của ánh sáng. Chúng ta nên hiểu theo nghĩa đây là vị Phật có trí tuệ như ánh sáng của mặt trời, có thể phá trừ mọi phiền não u ám và soi sáng cùng khắp hơn là nghĩa gốc ban đầu của nó.

Về danh hiệu Phật A-di-đà, tiếng Sanskrit Amitābha-Buddha, dịch nghĩa là Vô lượng Phật. Về sau, dựa vào nghĩa gốc này các vị Tổ sư lại phát triển thêm và gọi Phật A-di-đà với những tên gọi khác như là Vô Lượng Thọ (量壽) và Vô Lượng Quang (量光), cũng có khi được biết đến với tên Vô Lượng Thanh Tịnh (清淨). Điều này được nói đến rất nhiều trong các kinh sách Tịnh độ:

舍利弗!彼佛光明無量,照十方國無所障礙,是故號為阿彌陀。又舍利弗!彼佛壽命及其人民,無量無邊阿僧祇劫,故名阿彌陀” (Xá-lợi-phất! Đức Phật đó vì sao hiệu là A-di-đà? -lợi-phất! Đức Phật đó hào quang sáng chói vô lượng, soi suốt các cõi nước trong mười phương không bị chướng ngại vì thế nên có hiệu là A-di-đà. Xá-lợi-phất! Đức Phật đó và nhân dân của Ngài sống lâu vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, nên hiệu là A-di-đà)[6].

Phật Quang đại từ điển giải thích: “A-dià Phật cũng gọi A-di-đa Phật, A-nhị-đá Phật, A-nhị-đả Phật. Gọi tắt Di-đà. Amita dịch ý: Vô lượng. Ngoài ra còn có tên Phạn Amitābha, dịch âm A-di-đa-bà, A-di-đả-bà, dịch ý Vô lượng quang. Về lý do tại sao gọi là Phật A-di-đà, cứ theo kinh A-di-đà do ngài Cưu-ma-la-thập dịch thì Đức Phật này có vô lượng ánh sáng và tuổi thọ vô lượng, cho nên gọi là Phật A-di-đà[7].

Trong Tịnh độ Đại thừa tư tưởng luận, Thích Đức Niệm cũng ghi với nội dung tương tự: “A-di-đà thường được giải thích là Vô lượng quang và Vô lượng thọ... Nghĩa căn bản của chữ A-di-đà dịch theo văn tự Trung Hoa là Vô lượng. Thế cho nên A-di-đà Phật là Vô lượng Phật. Vô lượng có nghĩa là cứu cánh, viên mãn, biến khắp không có hạn lượng, hàm nhiếp tất cả công đức lành. Chỉ cho ánh sáng Phật, thọ mạng, trí tuệ, nguyện lực, thần thông tất cả phước đức nhiều vô lượng”[8].

Ngoài danh hiệu Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang và Vô Lượng Thanh Tịnh thì Phật A-di-đà còn có những tên gọi khác như Vô Biên Quang, Vô Ngại Quang, Vô Đối Quang, Diệm Vương Quang, Thanh Tịnh Quang, Hoan Hỷ Quang, Trí Tuệ Quang, Bất Đoạn Quang, Nan Tư Quang, Vô Xưng Quang, Siêu Nhật Nguyệt Quang. Đây đều là những danh hiệu xuất hiện về sau và dựa vào các phẩm chất của Phật A-di-đà được diễn giải trong các bản kinh mà đặt tên. Nhìn chung, các danh hiệu của Phật A-di-đà luôn gắn liền với các đặc tính của ánh sáng.

Như vậy, ý nghĩa danh hiệu của Phật Tỳ-lô-giá-na và Phật A-di-đà đều liên quan đến mặt trời hoặc các đặc tính của ánh sáng. Một vị là Vô Lượng Quang tức ánh sáng vô lượng, một vị là Quang Minh Biến Chiếu tức ánh sáng soi rọi cùng khắp. Xét về mặt ý nghĩa danh hiệu thì giữa hai danh hiệu này tương đối giống nhau.

Tại sao ý nghĩa danh hiệu của hai vị Phật này lại liên quan đến mặt trời hoặc các đặc tính của ánh sáng? Akira Sadakata trong Vũ trụ quan Phật giáo triết học & nguồn gốc đã nhận định rằng, vào thời kỳ đầu của Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng thờ lửa hay thờ thần Mặt trời phát triển cực thịnh. Tín niệm về Phật Tỳ-lô-giá-na và Phật A-di-đà cũng ra đời trong khoảng thời gian này. Có thể trong bối cảnh lúc bấy giờ, niềm tin về thần Mặt trời đã phát triển rất mạnh và ảnh hưởng cùng khắp trong đời sống xã hội. Quần chúng nhân dân có đức tin về thần Mặt trời mãnh liệt, họ hướng về thần Mặt trời để cầu nguyện được ban phước lành, tiêu trừ tật bệnh, đẩy lùi ma quỷ..., cho nên việc Phật giáo trong giai đoạn này sử dụng danh hiệu của các vị Phật có liên quan đến ánh sáng cũng là một cách để dễ dàng phổ hóa quần chúng. Điều này cũng được thấy rõ trong lời nguyện của Phật A-di-đà trước khi thành Vô thượng chánh đẳng chánh giác:

設我得佛,光明有能限量,下至不照百千億那由他諸佛國者,不取正覺。設我得佛,十方無量不可思議諸佛世界眾生之類,蒙我光明觸其體者,身心柔軟超過人天;若不爾者,不取正覺. (Khi con thành Phật, nếu ánh sáng còn có hạn lượng, chẳng chiếu đến trăm ngàn na-do-tha cõi Phật con nguyện không thành chánh giác. Khi con thành Phật, nếu có vô lượng các loại chúng sinh ở khắp mười phương cõi Phật nào được ánh sáng của con chiếu đến, thân tâm liền được nhu nhuyến vượt hơn cõi người, cõi trời. Nếu không được như vậy con nguyện không thành chánh giác)[9].

Với lời nguyện như trên, chúng ta có thể thấy tín niệm về ánh sáng có một sức mạnh rất lớn, chỉ cần chúng sinh nào thấy hay chạm vào ánh sáng liền được an lạc, khởi tâm làm điều lành và đặc biệt là được sinh về cõi nước an lạc.

Trong kinh Quán Vô lượng thọ chúng ta cũng thấy các yếu tố liên quan đến mặt trời.

佛告韋提希:汝及眾生應當專心,繫念一處,想於西方。云何作想?凡作想者,一切眾生自非生盲,有目之徒,皆見日沒。當起想念,正坐西向,諦觀於日,令心堅住,專想不移。見日欲沒,狀如懸鼓。既見日已,閉目開目皆令明了。是為日想,名曰初觀作是觀者,名為正觀。若他觀者,名為邪觀[10].

(Đức Phật bảo Vi-đề-hi: Bà và chúng sinh nên phải chuyên tâm buộc niệm một chỗ, tưởng nơi phương Tây. Tưởng niệm thế nào? Tất cả chúng sinh, những người có mắt sáng mà chẳng phải là kẻ sanh manh thì đều thấy mặt trời lặn cả. Phàm người tu tập quán tưởng nên phát khởi tưởng niệm, ngồi quay thẳng hướng về phía Tây, quán kỹ chỗ mặt trời sắp lặn, khiến tâm niệm trụ vững chuyên tưởng nhớ chẳng dời. Thấy mặt trời sắp lặn, dạng như mặt trống đồng treo. Ðã thấy mặt trời rồi, nhắm mắt, mở mắt đều khiến phải sáng tỏ. Ðây là Nhật tưởng, gọi là pháp quán ban đầu).

Nói tóm lại, thông qua việc tìm hiểu về ý nghĩa danh hiệu của hai vị Phật này, chúng ta thấy được danh hiệu ở hai vị Phật đều liên quan đến mặt trời hay các đặc tính của ánh sáng mặt trời.

2.      Tính biến hóa cùng khắp

Mặc dù Phật giáo Đại thừa quan niệm có nhiều vị Phật cùng tồn tại, thế nhưng hiếm có vị Phật nào được xem là pháp giới thân như Phật Tỳ-lô-giá-na và Phật A-di-đà. Ví dụ, Phật Dược Sư dường như chỉ nhắc đến ở thế giới Tịnh Lưu Ly, Phật Thích-ca ở cõi Ta-bà, Phật A-súc ở thế giới Diệu Hỷ, Bồ-tát Di-lặc cõi Tịnh độ Đâu-suất...; riêng Phật Tỳ-lô-giá-na và Phật A-di-đà lại có thể biến hóa cùng khắp.

Có thể nói pháp thân của Phật Tỳ-lô-giá-na và Phật A-di-đà bao trùm cả vũ trụ. Hai vị này lấy pháp giới làm thân, vũ trụ pháp giới tới đâu thì pháp thân Phật tới đó. Do vậy, một vị được xưng tụng là Thanh tịnh pháp thân Tỳ-lô-giá-na Phật, một vị là Pháp giới tạng thân A-di-đà Phật.

Kinh Hoa nghiêm và kinh Phạm võng cho rằng vũ trụ này là do pháp thân Tỳ-lô-giá-na hóa hiện ra, có tên gọi là Liên hoa đài tạng hay Hoa tạng thế giới. Đây là một khái niệm bao quát nhất về vũ trụ quan Phật giáo Đại thừa. Trong đó, tam thiên đại thiên thế giới, kể cả thế giới Ta-bà cũng chỉ là một phần rất nhỏ trong thế giới Liên hoa đài tạng này. Và Đức Phật Thích-ca Mâu-ni cũng là hóa thân do Tỳ-lô-giá-na Phật hiện ra.

我化為千釋迦據千世界後就一葉世界,復有百億須彌山、百億日月、百億四天下、百億南閻浮提、百億菩薩釋迦坐百億菩提樹下”. (Ta hóa thành nghìn vị Phật Thích-ca trong nghìn thế giới. Sau đó, một thế giới lại có trăm ức núi Tu-di, trăm ức mặt trời, mặt trăng, trăm ức bốn châu thiên hạ, trăm ức cõi Nam Diêm-phù-đề, trăm ức B-tát Thích-ca ngồi dưới trăm ức cội bồ-đề)[11].

佛身普遍諸大會, 充滿法界無窮盡...

寂靜解天人主, 十方無處不現前.

(Thân Phật phổ biến các đại hội/ Đầy khắp pháp giới không cùng tận,

Như Lai tịch tĩnh bậc giải thoát/ Hiện khắp mười phương không chỗ sót)[12].

Tất cả thế giới hải đều là do pháp thân Tỳ-lô-giá-na hóa hiện ra, thậm chí ngài có thể hóa hiện ra ngàn vị Phật Thích-ca đang nói pháp ở cõi Nam Diêm-phù-đề. Tại sao Đức Phật Tỳ-lô-giá-na lại có năng lực siêu việt như vậy?

Về điều này, chúng ta nên đứng trên lập trường của Hoa nghiêm tông mà giải thích. Hoa nghiêm tông cho rằng vũ trụ pháp giới này là do duyên sinh, do vậy chủ trương pháp giới duyên khởi. Tất cả mọi sự vật, sự việc trong thế giới này đều có tính liên đới với nhau theo công thức do cái này có mặt cho nên cũng dẫn tới sự có mặt của cái kia.

Nhưng tinh thần duyên sinh ở Hoa nghiêm lại có sự đặc biệt hơn khi cho rằng pháp giới này là tịnh tâm duyên khởi chứ không phải do vọng tâm duyên khởi. Do vậy, bản thể của thế giới vốn là thanh tịnh, hay nói cách khác thế giới này là do chơn tâm thanh tịnh lưu xuất, mà chơn tâm thanh tịnh ấy cũng chính là Phật tánh và Phật tánh đó chính là tánh thanh tịnh của Tỳ-lô-giá-na Phật. Do vậy mới nói tất cả thế giới này là do tánh biến hóa cùng khắp của Phật Tỳ-lô-giá-na hóa hiện ra, điều này cũng được giải thích bằng Thập huyền môn.

Mười pháp môn này nương tựa nhau tạo thành sự biểu hiện của thế giới lý tưởng và duyên khởi luận như vậy được gọi là Thập huyền duyên khởi. Duyên khởi luận này được gọi khác, như ta đã thấy ở trên, là Pháp giới duyên khởi. Duyên khởi ấy thật ra là duy tâm duyên khởi, nghĩa là duy tâm thuần túy. Nhưng lý thuyết duyên khởi đặc biệt của tông này chỉ cho sự tương y toàn diện, tương quan phổ quát, nhân và quả kết dệt lẫn nhau khắp mọi nơi. Như thế từ khởi thủy nó tạo thành một thể toàn vẹn không có một sự thể đơn độc cô lập nào cả. Tất cả mạn-đà-la bao quát và chu kỳ của làn sóng thường hằng đều hoàn toàn rực sáng do đức đại bi Đại Nhật Như Lai[13].

Như vậy, Tỳ-lô-giá-na là Phật bản thể bất sanh bất diệt, là pháp giới thân biến nhất thiết xứ tức biến hóa cùng khắp không hạn lượng và ở trong tất cả mọi hiện hữu quanh ta: “Tỳ-lô-giá-na là Phật pháp giới, thân của ngài thì lớn vô cùng và đời sống của ngài thì dài vô tận... Tỳ-lô-giá-na là Đại Nhật Như Lai, mà ánh sáng của ngài chiếu sáng vào khắp mọi nơi trong vũ trụ”[14].

Về tính biến hóa cùng khắp của Phật A-di-đà, như phần ý nghĩa danh hiệu đã nói, sở dĩ gọi là Phật A-di-đà vì ngài có hào quang vô lượng và thọ mạng vô lượng. Pháp thân của Phật A-di-đà bao trùm cả không gian và thời gian. Không gian thì biểu hiện qua quang minh vô lượng vô biên, thời gian thì biểu hiện qua thọ mạng vô cùng vô tận.

Trong kinh Quán Vô lượng thọ ghi rằng: “諸佛如來是法界身, 遍入一切眾生心想中;是故汝等心想佛時,是心即是三十二相、八十隨形好。是心作佛,是心是佛. (Vì chư Phật Như Lai là thân pháp giới vào khắp trong tâm tưởng của tất cả chúng sinh. Cho nên, lúc tâm ngươi quán tưởng Phật, tâm ấy tức là ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, tâm ấy làm Phật, tâm ấy là Phật)[15].

Qua đoạn kinh trên, chúng ta thấy pháp thân Phật biến hóa cùng khắp pháp giới và khắp trong tâm tưởng của chúng sinh. Đoạn kinh đã truyền tải một thông điệp triết lý sâu sắc của Phật giáo Đại thừa, đặc biệt là Tịnh độ tông. Với triết lý tức tâm tức Phật, niệm Phật thành Phật, Phật giáo Đại thừa đã đưa Đức Phật trở lại thế gian và gần gũi với tất cả chúng sinh. Đức Phật của Phật giáo Đại thừa đã không còn thuộc về phạm trù vật lý, bị giới hạn trong một thân thể sinh học, mà Đức Phật đã hóa thành tánh đức thiêng liêng và biểu hiện ở trong tất cả mọi người, mọi loài. Chỉ cần trong tâm tưởng có Phật là ngay khi đó Đức Phật hiện diện. Chúng ta nên hiểu tính biến hóa cùng khắp ở nghĩa này sẽ phù hợp hơn. Như Phật hoàng Trần Nhân Tông trong Cư trần lạc đạo phú đã viết:

“Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương

Dià là tánh sáng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực lạc”[16].

Nhìn chung, giữa Phật Tỳ-lô-giá-na và Phật A-di-đà đều có tính biến hóa cùng khắp như nhau. Với Phật Tỳ-lô-giá-na cũng gọi là Biến nhất thiết xứ hay Phật A-di-đà cũng được biết đến với tôn xưng Pháp giới tạng thân. Về mặt ý nghĩa cơ bản thì Biến nhất thiết xứ và Pháp giới tạng thân đều mang nội hàm ý nghĩa như nhau. Do vậy mới nói Tỳ-lô-giá-na dịch là khắp tất cả chỗ. Khắp tất cả chỗ cũng là biểu hiện nghĩa Vô lượng thọ[17]. Xét theo nghĩa này thì hai vị Phật hoàn toàn giống nhau.

3.      Cõi nước

Kinh Hoa nghiêm đã trình bày về cõi nước của Phật Tỳ-lô-giá-na vô cùng chi tiết, và dường như chưa có bản kinh nào trong Phật giáo trình bày về vũ trụ quan Phật giáo một cách tường tận, cụ thể như kinh Hoa nghiêm.

Cõi nước của Phật Tỳ-lô-giá-na có tên gọi là Hoa tạng thế giới hải hay Liên hoa đài tạng. Cõi nước này được hình thành là do nhân địa tu tập và nguyện lực của Phật Tỳ-lô-giá-na từ vô lượng kiếp tạo thành. 諸佛子! 此華藏莊嚴世界海, 是毘盧遮那如來往昔於世界海微塵數劫修菩薩行時, 一一劫中親近世界海微塵數佛, 一一佛所淨修世界海微塵數大願之所嚴淨. (Chư Phật tử! Hoa tạng thế giới hải này được nghiêm tịnh là do Đức Tỳ-lô-giá-na Như Lai thuở xưa lúc tu hạnh B-tát trải qua thế giới hải vi trần số kiếp, trong mỗi kiếp gần gũi vi trần số Phật, nơi mỗi Phật tu tập vô số đại nguyện thanh tịnh)[18].

Hoa tạng thế giới được miêu tả có nhiều lớp phong luân. Phong luân dưới cùng tên Bình đẳng trụ, phong luân kế tiếp bên trên tên Xuất sanh chủng chủng bửu trang nghiêm..., và phong luân trên cùng tên Thù thắng oai quang tạng. Đặc biệt trong số các phong luân thì phong luân trên cùng có biển Hương thủy, trong biển này có một hoa sen lớn tên Chủng chủng quang minh nhụy hương tràng và Hoa tạng thế giới nằm bên trong đóa sen này.

諸佛子!彼須彌山微塵數風輪, 最在上者, : 殊勝威光藏, 能持普光摩尼莊嚴香水海; 此香水海有大蓮華, : 種種光明蘂香幢. 華藏莊嚴世界海, 住在其中, 四方均平, 清淨堅固 (Chư Phật tử! Lần lượt đến Tu-di sơn vi trần số phong luân trên hết tên Thù thắng oai quang tạng có thể nhiếp trì biển Hương thủy phổ quang ma-ni trang nghiêm. Biển Hương thủy này có liên hoa lớn tên Chủng chủng quang minh nhụy hương tràng. Hoa tạng thế giới hải trụ trong tràng đó, bốn bên bằng thẳng thanh tịnh kiên cố)[19].

Như vậy, cõi nước của Phật Tỳ-lô-giá-na là một đóa sen nằm giữa biển Hương thủy. Đóa sen này có nghìn cánh và trên mỗi cánh sen là một thế giới và mỗi thế giới đều có một vị hóa Phật do Tỳ-lô-giá-na hóa hiện ra. Điều này cũng được ghi lại trong kinh Phạm võng: “初捨凡夫成等正覺, 號為盧舍那, 住蓮花臺藏世界海其臺周遍有千葉, 一葉一世界為千世界”. (Ban đầu Ta xả bỏ phàm phu liền thành chánh giác, hiệu là Lô-xá-na trụ nơi biển thế giới Liên hoa đài tạng. Đài này chung quanh có nghìn cánh, mỗi cánh là một thế giới, làm thành nghìn thế giới)[20].

Thế giới Liên hoa đài tạng này cũng được diễn tả như các thế giới Tịnh độ khác trong Phật giáo Đại thừa. Thế giới ấy hoàn toàn trong sạch, thơm tho, đất đai được làm từ thất bảo trang nghiêm, cây báu, ao hồ, hoa trời, mưa pháp và dân chúng đều là các bậc Thánh giả.

香水分流無量色, 散諸華寶及栴檀,

眾蓮競發如衣布, 珍草羅生悉芬馥.

無量寶樹普莊嚴, 開華發蘂色熾然,

種種名衣在其, 光雲四照常圓滿

無量無邊大菩薩, 執蓋焚香充法界.

(Hương thủy chảy xen vô lượng sắc/ Rưới những bửu hoa và chiên đàn

Hoa sen đua nở khắp mọi nơi/ Cỏ thơm trải đất hương ngào ngạt.

Vô lượng cây báu khắp trang nghiêm/ Hoa nở nhị đơm màu sáng rỡ.

Y phục xinh đẹp ở trong đó/ Mây sáng bốn phương thường viên mãn.

Vô lượng vô biên đại B-tát/ Cầm lọng, thắp hương đầy pháp giới)[21].

Hình ảnh về Hoa tạng thế giới được hình thành từ một đóa hoa sen nổi lên trên mặt biển, có vẻ đây là một mô-típ khá quen thuộc trong vũ trụ quan tôn giáo Ấn Độ. Theo truyền thống Vệ-đà thì Phạm thiên cũng được sinh ra từ một đóa hoa sen mọc trên rốn của Thần Vishnu. Phạm thiên đã ngồi trên hoa sen và tạo lập nên thế giới. Điều này cũng khá tương đồng với quan niệm Phật Tỳ-lô-giá-na tạo lập nên Hoa tạng thế giới, và thế giới ấy nằm trong một đóa sen nổi lên trên mặt biển.

Về cõi nước của Phật A-di-đà được giới thiệu ở phương Tây, cách thế giới Ta-bà mười muôn ức cõi Phật. Thế giới này được hình thành cũng do nhân địa tu hành của Phật A-di-đà, tiền thân là Tỳ-kheo Pháp Tạng đã phát ra 48 lời nguyện trong khi tu hành để tạo nên cõi Tây phương Cực-lạc. Điều này cũng giống như thế giới Liên hoa đài tạng do công đức và nguyện lực tu hành của Phật Tỳ-lô-giá-na tạo nên.

Thế giới Cực lạc của Phật A-di-đà cũng được diễn tả khá giống như cõi Liên hoa đài tạng. Trong cõi ấy đất đai bằng phẳng, được làm từ thất bảo như vàng bạc, lưu ly, trân châu, mã não...; cây cối, chim muông diễn nói pháp màu và Thánh chúng số nhiều vô lượng.

又舍利弗! 極樂國土有七寶池, 八功德水充滿其中, 池底純以金沙布地. 四邊階道, , , 琉璃, 頗梨合成 上有樓閣, 亦以金, , 琉璃, 頗梨, 𤦲, 赤珠, 馬瑙而嚴飾之. 池中蓮花, 大如車輪, 青色青光, 黃色黃光, 赤色赤光, 白色白光, 微妙香潔. (Xá-lợi-phất! Cõi nước Cực lạc có ao bằng bảy chất báu, trong ao đầy dẫy nước đủ tám công đức, đáy ao thuần dùng cát vàng trải làm đất. Vàng bạc, lưu ly, pha lê hợp thành những thềm, đường ở bốn bên ao; trên thềm đường có lầu gác, cũng đều nghiêm sức bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não. Trong ao có hoa sen lớn như bánh xe: hoa sắc xanh thời ánh sáng xanh, sắc vàng thời ánh sáng vàng, sắc đỏ thời ánh sáng đỏ, sắc trắng thời ánh sánh trắng, mầu nhiệm thơm tho trong sạch)[22].

Điểm đặc biệt là thế giới Cực lạc này được diễn tả giống như một hồ nước rộng có những đóa sen nổi lên trên mặt nước (liên trì) và chúng sinh đều được sinh ra từ hoa sen. Chi tiết này cũng khá giống với hình ảnh Hoa tạng thế giới được bao bọc bởi biển Hương thủy. Có thể thấy hình ảnh hoa sen được xem như hình ảnh chủ đạo của thế giới Cực lạc.

Trong phép tu của người tu Tịnh độ, có một phép quán về hoa sen. Hành giả liên tục quán tưởng về hình ảnh hoa sen, từ tổng thể đến chi tiết, từ bên ngoài vào sâu bên trong, chuyên tâm nhất ý, dần dà hành giả sẽ đạt được tam muội và thấy Phật A-di-đà cùng Tây phương Thánh chúng và đặc biệt khi lâm chung sẽ được vãng sinh.

佛告韋提希: 欲觀彼佛者, 當起想念於七寶地上作蓮花想, 令其蓮花一一葉作百寶色. 有八萬四千脈, 猶如天畫 一一脈有八萬四千光, 了了分明, 皆令得見. (Phật bảo bà Vi-đề-hi: Muốn thấy Đức Phật kia cần nên khởi niệm quán tưởng, ở trên mặt đất thất bảo tưởng có hoa sen, trên mỗi mỗi cánh hoa tưởng màu bá bảo, có tám vạn bốn ngàn đường gân dường như bức họa cõi trời, mỗi đường gân có tám vạn bốn ngàn ánh sáng tỏ rõ rành rẽ đều được thấy cả)[23].

Tóm lại, cõi nước của Phật Tỳ-lô-giá-na và Phật A-di-đà có nhiều điểm tương đồng như đều từ nguyện lực mà hình thành, các cõi nước đều liên quan đến hoa sen, các đặc điểm diễn tả như đất đai, cây cối, ao hồ, nhân dân... đều giống nhau. Rất có thể, do sự giao thoa qua lại giữa các truyền thồng Phật giáo với nhau, và sự ảnh hưởng giữa Phật giáo với các tôn giáo đương thời với nhau, cho nên việc diễn tả các cảnh giới của chư Phật cũng rất giống nhau: “Thuyết của Tịnh độ thì căn cứ vào luận Tịnh độ của ngài Thế Thân mà chủ trương rằng thế giới Cực lạc của Đức Phật A-di-đà tức là Liên hoa tạng thế giới. Còn thuyết của tông Đông mật ở Nhật Bản thì lấy Tịnh độ của Báo thân Phật A-di-đà làm thế giới Liên hoa tạng của thân Gia trì, lấy trú xứ của pháp thân Đại Nhật Như lai làm thế giới Liên hoa tạng của thân Bản địa, lấy Hãn-lật-đà của chúng sinh làm thế giới Liên hoa tạng của thân hành giả[24].

Từ những phân tích trên, phần nào chúng ta có thể thấy được sự tương quan mật thiết giữa hai vị Phật này. Một vị là giáo chủ cõi Liên hoa đài tạng, một vị là giáo chủ cõi Cực lạc cũng lại gắn liền với hình ảnh của hoa sen (liên trì). Một vị với danh hiệu có ý nghĩa là Biến nhất thiết xứ, và một vị là Pháp giới tạng thân. Một vị dịch nghĩa là Vô lượng quang còn vị kia lại là Quang minh biến chiếu. Quả thực, sự tương quan này không hề nhỏ nếu không muốn nói là hoàn toàn giống nhau.

 Phật Tỳ-lô-giá-na ở trong chẳng ở ngoài.

Chân thật Tỳ-lô-giá-na, tự tánh tâm,

Trí pháp giới thể tánh lìa hý luận phân biệt,

Bản tánh vô minh, hằng thanh tịnh...

Phật A-di-đà ở trong chẳng ở ngoài,

Chân thật A-di-đà, trí diệu quan sát

Không tánh, đại lạc, đồng hư không

Bản tánh tham dục, hằng thanh tịnh[25].


 

[1] CBETA, T.24, No.1484, p.997c13-14, 梵網經, 1.

[2] Thích Quảng Độ dịch, Phật Quang đại từ điển, tập 2, NXB.Phương Đông, 2014, tr.1685.

[3] Đạo Uyn, Từ điển Phật học, NXB.Tôn Giáo, Hà Nội, 2006, tr.175.

[4] Đoàn Trung Còn, Phật học từ điển, NXB.Thành phố Hồ Chí Minh, 1997, tr.142.

[5] Akira Sadakata, Vũ trụ quan Phật giáo triết học & nguồn gốc, Trần Văn Duy dịch và chú thích (2020), NXB.Tri Thức, Hà Nội, tr.225.

[6] CBETA, T.12, No.366, p.347a26-29. 阿彌陀經, 1.

[7] Thích Quảng Độ (dịch), Phật Quang đại từ điển, tập 1, NXB.Phương Đông, 2014, tr.75.

[8] Thích Đức Niệm, Tịnh độ Đại thừa tư tưởng luận, NXB.Tôn Giáo, Hà Nội, 2006, tr.119.

[9] CBETA, T.12, No.360, tr.268a13-14, 無量壽經卷上.

[10] CBETA, T.12, No.365, pp.341c28-342a5, 觀無量壽佛經.

[11] CBETA, T.24, No.1484, tr.997c7-10, 梵網經, 1.

[12] CBETA, T.10, No.279, pp.5c22-6a9, 大方廣佛華嚴經, 2.

[13] Junjiro Takakusu, The essentials of Buddhist philosophy, Tuệ Sỹ (dịch) Tinh hoa triết học Phật giáo, NXB.Phương Đông, 2019, tr.188.

[14] Francis H. Cook, Lưới trời Đế Thích, Thanh Lương Thích Thiện Sáng (dịch), NXB.Tôn Giáo, 2006, tr.208.

[15] CBETA, T.12, No.365, p.343a19-21, 觀無量壽佛經.

[16] Thích Thanh Từ, Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm, NXB.Tôn Giáo, Hà Nội, 2002, tr.31.

[17] Thích Đức Niệm, Tịnh độ Đại thừa tư tưởng luận, NXB.Tôn Giáo, Hà Nội, 2006, tr.35.

[18] CBETA, T.10, No.279, p.39a16-20, 大方廣佛華嚴經, 8.

[19] Sđd, tr.39b4-8.

[20] CBETA, T.24, No.1484, p.997c5-7, 梵網經, 1.

[21] Sđd.

[22] CBETA, T.12, No.366, pp.346c16-347a5, 阿彌陀經, 1.

[23] CBETA, T.12, No.365, p.342c22-26, 觀無量壽佛經.

[24] Thích Quảng Độ, Sđd, tr.3168.

[25] Mạnh Thát, Tuệ Sỹ (chủ biên), Phật điển phổ thông, Đường vào tuệ giác Phật, NXB.Hồng Đức, 2019, tr.240.

 

Chia sẻ: facebooktwittergoogle
Các bài viết khác