Kinh Phật Đã Nói Về Dân Chủ Từ Ngàn Năm Xưa? | Phan Tấn Hải

kinh phat

Chỉ vài ngày nữa, là Ngày Bầu Cử của Hoa Kỳ. Cử tri Hoa Kỳ trong ngày 5 tháng 11/2024 sẽ bầu phiếu để chọn lên một tân Tổng Thống, từ hai ứng cử viên của hai Đảng Cộng Hòa và Dân Chủ với hai chính sách dị biệt nhau. Lựa chọn này có thể sẽ định hình những chuyển biến tương lai cho cả thế giới khi cách nhìn của hai ứng cử viên, bà Kamala Harris và ông Donald Trump, đã lộ rõ trái nghịch nhau hoàn toàn về cuộc chiến ở Ukraine, trái nghịch nhau một phần về cuộc chiến Trung Đông, xung khắc nhau về cách kềm chế Trung Quốc, và về cam kết ở Biển Đông.

Đó là chưa nói tới trong lá phiếu cũng kèm theo các cuộc trưng cầu dân ý về chính sách thuế, giáo dục, tư pháp… tại các tiểu bang. Nghĩa là, năm 2025, nước Mỹ sẽ không giống năm 2024, dù là bà Harris thắng cử, hay ông Trump lên ngôi. Nơi đây, chúng ta nêu câu hỏi, rằng từ rất là xa xưa, đã có những lựa chọn dân chủ nào chưa?

Thực tế, bầu cử trong hình thức dân chủtự do và công bằng ở Hoa Kỳ có lẽ chưa từng xảy ra ở đâu trong thời cổ sử của nhân loại. Vì ở Mỹ, lá phiếu các công dân có giá trị bình đẳng nhau, tuy sức mạnh thực tế có khác; thí dụ, nếu bạn đang cư trú trong 7 tiểu bang chiến trường, lá phiếu của một cử tri gốc Việt chắc chắn có sức mạnh hơn lá phiếu của một cử tri gốc Việt ở California (nơi biết chắc rằng bà Harris sẽ thắng áp đảo) và mạnh hơn lá phiếu của một cử tri gốc Việt ở Texas (nơi Cộng Hòa ảnh hưởng lớn). Nhưng rải rác, trong truyện cổ tích Việt Nam và thế giới, và cả trong Kinh Phật, cũng có một số hình thức phần nào gần như bầu cử dân chủ, hoặc là trưng cầu dân ý.

Nổi bật nhất trong lịch sử dân tộc là Hội nghị Diên Hồng, một hội nghị được tổ chức năm 1284 tại kinh thành Thăng Long do Thượng hoàng Trần Thánh Tông triệu họp các bô lão trong cả nước về trước thềm điện Diên Hồng để trưng cầu dân ý, hỏi về chủ trương hòa hay đánh khi quân Nguyên Mông sang xâm lược Việt Nam lần thứ 2. Thực tế, lòng dân là muốn chống quân phương Bắc, vì đã thoát được ngàn năm lệ thuộc, nay không cớ gì phải chịu nô dịch lần nữa.

Đại Việt sử ký toàn thư, bản kỷ toàn thư quyển 5, viết: "Thượng hoàng triệu phụ lão trong nước họp ở thềm điện Diên Hồng, ban yến và hỏi kế đánh giặc. Các phụ lão đều nói "đánh", muôn người cùng hô một tiếng, như bật ra từ một cửa miệng."

Như thế, Hội nghị Diên Hồng là cuộc trưng cầu dân ý lớn nhất của dân tộc, để hỏi về chính sách, về cách đối phó với quân Nguyên Mông, thể hiện sự đồng thuận và tham gia của người dân (các bô lão) về hướng đi của đất nước. Nhưng Hội nghị không phải là một cuộc bầu cử dân chủ vì không bầu chọn ai, cũng không phải trưng cầu dân ý như chúng ta hiểu theo khái niệm hiện đại. Vì không có bỏ phiếu kín như thời nay. Nhà vua và triều đình lắng nghe và tôn trọng ý kiến của các bô lão, thể hiện tinh thần hòa hợp giữa vua và dân, dù quyết định cuối cùng vẫn thuộc về vua và triều đình. Người dân tin tưởng và trao toàn quyền cho vua.

Chúng ta nhìn thấy một thực tế trong lịch sử nhân loại rằng các vị vua minh quân rất hiếm. Cứ ngay như chuyện Sơn Tinh và Thủy Tinh là thấy rồi, hễ bị thất cử hay thua phiếu là giận dữgầm thét, gọi mưa, hú gió, gây bạo loạn, đưa binh tôm, tướng cá quậy phá. Không biết là có cô Mỵ Nương nào trong sự thực lịch sử đã từng bị quý ông chồng bạo hành hay không, nhưng hiển nhiên là tìm một người quân tửchính trực, rất là hiếm.

 

Cốt truyện kể về một con heo rừng muốn làm vua. Heo rừng này nói dối để cảm thấy mình to lớn. Những lời nói dối của heo rừng này lúc đầu rất nhỏ nhặt. Khi trời mưa, heo rừng này nói rằng trời khô ráo. Heo quá tự phụ đến nỗi nói rằng mình giỏi bất cứ việc gì. Và heo rừng này bắt nạt những con thú khác để khiến mình cảm thấy tốt.

Mặc dù những con vật khác nhìn thấu hành vi vô lý của con heo rừng, chúng vẫn im lặng và không làm gì để ngăn cản con heo rừng trở thành vua. Khi đã nắm quyền, vua này đã ăn cắp để làm đầy túi và gọi những con thú lương thiệntrung thực nhất là bọn gian lận. Heo rừng này biến những thần dân trung thành của mình chống lại nhau cho đến khi không con thú nào tin vào con thú nào nữa.... Đọc sơ như thế, là chúng ta giựt mình rồi. Xin nhắc lại, nơi đây không muốn nói chuyện thời nay. Thêm nữa, truyện thiếu nhi của Beard chủ yếu là những bài học về sự chính trựctrung thựcđáng tin cậy và công bằng. Và cho trẻ em thấy, nói dối là điều không thể chấp nhận được.

Dĩ nhiênchúng ta không hài lòng với các vị vua bất tài và kém đức, nhưng vẫn có những trường hợp nhà vua biết “quay đầu là bờ” để lắng nghe các vị đại thần can gián để chọn cách làm việc thực sự là vì dân. Trường hợp này cũng nhiều. Như được kể trong Truyện Bổn Sanh thứ 396, về một kiếp xa xưa của Đức Phật. Truyện này do Đức Phật kể khi ngự tại tu viện Jetavana, về những lời khuyên răn cần thiết cho một vị vua.

Truyện rằng ngày xửa ngày xưa, khi Quốc Vương Brahmadatta đang trị vì ở Benares, Bồ tát (tiền thân của Phật) là cố vấn của vua về những vấn đề thế tục và tâm linh. Nhà vua đã đi theo con đường tà đạo, cai trị vương quốc của mình một cách bất chính và thu thập của cải bằng cách áp bức dân chúng. Bồ tát muốn khuyên răn vua bằng chuyện ngụ ngôn. Lúc đó, phòng ngủ của nhà vua chưa hoàn thành và mái nhà chưa hoàn thành: những thanh xà đỡ một đỉnh nhưng chỉ vừa mới được đặt vào đúng vị trí. Nhà vua đã đi và vui chơi trong công viên: khi về đến nhà, vua nhìn lên và thấy đỉnh tròn: vua sợ nó sẽ đổ xuống mình, ông đi ra ngoài, rồi nhìn lên lần nữa, ông nghĩ "Đỉnh đó nằm như thế nào? và các thanh xà thế nào?" và hỏi ý Bồ tát.

Bấy giờ, Bồ tát nghĩ rằng bây giờ là lúc đưa ra một câu chuyện ngụ ngôn để khuyên răn nhà vua, đọc một bài thơ, giải thích rằng ba mươi thanh gỗ làm xà uốn cong, bằng gỗ sāra, đặt đều nhau, bao quanh đỉnh, giữ chặt, được dựng thẳng và vững chắc. Cũng y như người khôn ngoan được bạn bè trung thành bảo vệ, được cố vấn kiên định và trong sạch, như các xà nhà giữ cho đỉnh mái nhà an toàn. Nhà vua tỉnh ngộ, nghĩ rằng đỉnh nóc không đứng vững nếu không được xà nhà giữ; nếu xà nhà gãy, đỉnh sẽ sụp đổ: và cũng vậy, một vị vua tệ hại, không giữ được bạn bè và bộ trưởng, quân đội, và sẽ rơi khỏi quyền lực của mình.

Câu chuyện thêm một số diễn tiến nữa, và cuối cùng, sau khi nghe lời khuyên răn của Bồ tát, nhà vua đã cai trị vương quốc của mình một cách chính trực, và làm những việc thiện, làm từ thiện và những việc khác, phù hợp luật nhân quả để sẽ lên cõi trời. Kể xong, Đức Phật nói rằng nhà vua Brahmadatta là kiếp xa xưa của Ananda, và quan cận thần cố vấn đó chính là tiền thân của Đức Phật.

Tuy nhiênchúng ta thường thấy rằng, trong các cuộc tranh cử, hầu hết (nếu không phải tất cả) các ứng cử viên đều nói dối, không nhiều thì ít. Vấn đề là, vua chúa thời xưa thì không ai chất vấn, vì vua luôn luôn được miễn truy tố, dù là lúc đó không hề có Tòa Tối Cao nào và cũng không có Hiến Pháp nào cho miễn tố.

Do vậy, nhiệm vụ nhà văn là phải đóng vai bước ra can gián. Như câu chuyện về vị vua và chiếc áo mới trong chuyện cổ tích nổi tiếng của nhà văn người Đan Mạch Hans Christian Andersen. Ông là một trong những nhà văn viết truyện cổ tích nổi tiếng nhất thế giới, và câu chuyện này được ông sáng tác vào năm 1837. Câu chuyện này đã được dịch ra nhiều ngôn ngữ và được yêu thích bởi người đọc ở mọi lứa tuổi trên khắp thế giới. Nó không chỉ là một câu chuyện giải trí mà còn mang nhiều ý nghĩa sâu sắc về sự thậtlòng can đảm để nói lên sự thật, và sự phù phiếm của con người.

Chuyện này kể về một vị vua rất thích những bộ quần áo đẹp. Hai kẻ lừa đảo đã lợi dụng điều này để lừa vua mặc một bộ quần áo hoàn toàn vô hình, nhưng lại vô cùng đắt tiền. Mọi người xung quanh đều giả vờ thấy bộ quần áo đẹp để không bị cho là ngu ngốcCuối cùng, một thiếu niên đã thật thà nói rằng vua đang không mặc gì cả, sexy 100%. Vị vua lúc này mới nhận ra mình đã bị lừa dối và những kẻ lừa đảo đã bị trừng phạt. Bài học cho thấy là, gần như luôn luôn có sự nguy hiểm của việc nói dối và gần như luôn luôn có tầm quan trọng của sự thật. Khi mọi người xung quanh đều nói dối, rất khó để nhận ra sự thật.

Đó chính là nan đề của tin giả, tức Fake News, hiện nay. Và trong mùa bầu cử nào cũng thế, tin giả thường trực xuất hiện để chê đối thủ và để khen phe ta.

Tuy nhiênbi thảm là có những người bị nói dối liên tục mà vẫn bênh vực kẻ nói dối. Đúng vậy, rất nhiều người biết là mình bị nói dối, nhưng vẫn liên tục bênh vực kẻ nói dối vì mình đã bị huấn luyện như thế.

Như truyện "The Liar" (Kẻ Nói Dối) -- một truyện ngắn của nhà văn Henry James, lần đầu tiên xuất hiện trên Tạp chí The Century Magazine ấn bản vào tháng 5–tháng 6 năm 1888, và rồi in  dưới dạng sách vào năm sau (NXB Macmillan and Co., London).

Đây là câu chuyện về tình thế tiến thoái lưỡng nan của một chàng họa sĩ trẻ khi anh gặp lại người phụ nữ mà anh đã từng yêu thương, và nhận ra rằng cô đã kết hôn với một người đàn ông có bản chất đê tiện, không trung thựcLo lắng rằng sự trong trắng thơ mộng của cô đã bị ông chồng thô bỉ vùi dập... và anh họa sĩ đã bị sốc khi thấy rằng cô sẽ không bao giờ thừa nhận bản chất thô bỉ của chồng cô.

 
 

Oliver Lyon, một họa sĩ tài năng, đang trọ tại nhà của một nam tước lớn tuổi, Sir David, người mà anh được thuê để vẽ chân dung. Vào bữa tối anh đến, anh nhận ra trong số những người ở đó có một người phụ nữ mà anh đã từng yêu say đắm. Anh đã không gặp nàng trong mười hai năm và biết rằng cô đã kết hôn. Chồng cô là Đại tá Clement Capadose, một người quý tộc thông minh và đẹp trai, người mà nàng có vẻ rất yêu thương, và Lyon, đã chấp nhận rằng nàng như một điều gì đó không thể với cao tới được đối với anh. Nhưng anh không cảm thấy ghen tị chút nào, anh hài lòng với hạnh phúc lộ rõ của nàng.

Lúc đầu, anh ngưỡng mộ Đại tá, nhưng trong suốt bữa tối, khi Đại tá này kể lại rất nhiều câu chuyện khó tin mà họa sĩ Lyon không thể tin được, thì ý kiến ​​của họa sĩ về Đại tá kia đã thay đổi khá nhiều. Nhưng, họa sĩ giựt mình trước những gì có vẻ là lời nói dối trắng trợn khi Đại tá kể cho anh về một sự việc gần đây trong ngôi nhà, mà chủ nhà Arthur Ashmore, con trai của Sir David, giải thích là hoàn toàn sai sự thật.

Sau đó, khi đang vẽ chân dung Sir David, nam tước giải thích với họa sĩ rằng Đại tá Capadose là một kẻ nói dối bệnh hoạn. Sir David giảm nhẹ bệnh nói dối của Đại tá kia, nói rằng người nói dối đó không có ý định xấu, nhưng chỉ vì không thể đưa ra câu trả lời thẳng thắn, và không cưỡng nổi thói quen nói dối. Họa sĩ Lyon nhận ra rằng vợ Đại tá cố gắng che chở ông chồng bằng cách không lộ sự thật các lời nói dối của ông chồng, và thậm chí còn bao che, ủng hộ những gì ông chồng biạ đặt. Chàng họa sĩ kinh hoàng tự hỏi bản chất của nàng đã bị tha hóa đến mức nào. Để tìm hiểu xem nàng sẽ đi xa đến đâu để cứu vãn tên tuổi của ông chồng ưa nói dối, họa sĩ Lyon dành nhiều thời gian nhất có thể cho họ, đầu tiên là vẽ chân dung cô con gái chín tuổi Amy của họ, và sau đó là vẽ chính ông Đại tá ưa nói dối đó.

Trong bức chân dung, Lyon cố gắng thể hiện bản chất gian dối của Đại tá một cách trọn vẹnhy vọng rằng nét vẽ có thể đánh thức được ý thức đạo đức của người mà họa sĩ từng yêu thương. Họa sĩ cố gắng gợi ý cho bà Capadose nói về tính cách của ông chồng của nàng, nhưng nàng chỉ nói rằng bản chất của ông chồng là cao quý, và hy vọng rằng họa sĩ Lyon sẽ không thể hiện nhiều hơn thế trong bức tranh chân dung. Để nắm bắt được tinh thần của Đại tá nói dối không ngừng đó một cách trọn vẹn hơn, họa sĩ Lyon khuyến khích Đại tá nói nhiều nhất có thể trong các buổi gặp, và họa sĩ được nghe đủ thứ giai thoại bịa đặt. Có lần, một cô người mẫu nghèo khó, tên là Geraldine, đến xưởng vẽ để tìm việc. Họa sĩ Lyon bảo cô rời đi, nhưng Đại tá Capadose đã nói dối với họa sĩ rằng cô không phải là người mẫu, mà là một người phụ nữ điên khùng có mối thù với Đại tá và đã theo đuổi Đại tá trong nhiều năm.

Một lúc nào đó về sau, ông bà Đại tá Capadoses rời xưởng vẽ với bức chân dung gần hoàn thành. Họa sĩ Lyon cũng rời khỏi thị trấn, nhưng quay lại một lúc để xem bức tranh còn dang dở của mình, tình cờ thấy rằng ông bà Capadoses đã đến phòng của anh mà không báo trước. Khi đến nơi mà không ai để ý, họa sĩ Lyon nhận ra rằng vợ của Đại tá Capadose đã nhìn thấy trong bức tranh những gì anh hy vọng nàng sẽ thấy, bản chất đê tiện của chồng nàng, và nàng xấu hổ về ông chồng. Nàng gọi bức chân dung là 'tàn nhẫn' nhưng nàng cố gắng rời đi trước khi chồng nàng, trong cơn tức giận, đã xé toạc bức tranh. Họ rời đi mà không biết rằng họa sĩ Lyon đã nhìn thấy họ, và anh cũng rời đi, sau khi nhìn thấy cô người mẫu Geraldine quanh nhà.

Họa sĩ Lyon đợi xem cặp vợ chồng Đại tá giải thích sự việc như thế nào. Khi hai vợ chồng trở về thị trấn ngay sau đó, họ hành động như thể không có chuyện gì xảy ra và yêu cầu họa sĩ bắt đầu vẽ lại. Khi họa sĩ Lyon kể cho họ nghe chuyện gì đã xảy ra mà anh tình cờ nhìn thấy, họ giả vờ không biết và Đại tá Capadose, người này cũng gặp cô người mẫu Geraldine vào ngày hôm đó, ngay lập tức vu khống cô về hành động xé bức tranh. Đây là giọt nước tràn ly đối với Lyon; mặc dù Sir David khẳng định rằng Kẻ nói dối kia sẽ không bao giờ làm hại bất kỳ ai, nhưng giờ đây Đại tá đã 'hy sinh một người vô tội', và vợ Đại tá là đồng phạm trong hành vi sai trái này. Sau khi cho nàng một cơ hội cuối cùng để thú nhận về sự lừa dối và thừa nhận rằng nàng chỉ che chở chồng mình vì tình yêu, điều mà Lyon có thể dễ dàng tha thứ, họa sĩ rời đi để nàng không phải chịu thêm đau khổ nữa, nhận xét rằng, "Nàng vẫn còn yêu Đại tá. Kẻ này đã huấn luyện nàng rất mực mê cuồng."

Than ôi, tin giả, tin vịt, Fake News có sức mạnh kinh hoàng như thế, biến những tâm hồn thơ mộng trong trắng thành những kẻ hung hăng biện hộ cho Kẻ nói dối.

 

Tuy nhiên, câu hỏi là, vào một thời rất là xa xưa, khi nhân loại chưa có giấy mực để làm phiếu bầu, có chuyện gì xảy ra gần gần như bầu cử dân chủ hay không? Kinh Phật có một chỗ giải thích rằng vào một thời rất xa xưa, cỡ vài chục ngàn năm về trước (cũng có thể là, vài chục ngàn kiếp về trước), nhân loại đã có bầu cử dân chủ (hay, một phần dân chủ) nhằm ổn định xã hội. Bầu cử hình thức rất là xa xưa đó, Kinh Phật gọi là, "được lựa chọn bởi đại chúng." Câu chuyện ghi lời Đức Phật trong Kinh DN 27, qua bản dịch của Thầy Minh Châu, nói với người Bà La Môn có tên là Vāsaṭṭha, trích như sau:

 

"Này Vāsaṭṭha, những loài hữu tình ấy hội họp lại và than khóc.

— Này Tôn giảác pháp đã khởi lên giữa các loài hữu tình, trong hình thức lấy của không cho xuất hiệnquở trách xuất hiện, nói láo xuất hiện, hình phạt xuất hiệnChúng ta hãy đề cử một người. Người ấy sẽ tức giận khi đáng phải tức giận, khiển trách khi đáng phải khiển trách, hay tẩn xuất khi đáng phải tẩn xuấtChúng tôi sẽ dành cho Người một phần lúa của chúng tôi.

- Xin vâng, các Tôn giả!

Này Vāsaṭṭha, vị hữu tình này vâng theo các vị hữu tình kia, tức giận khi đáng tức giận, khiển trách khi đáng khiển tráchtẩn xuất khi đáng tẩn xuất. Và các vị hữu tình kia chia cho vị này một phần lúa.

Này Vāsaṭṭha, được lựa chọn bởi đại chúng, tức là Mahà-sammato. Danh từ Mahà-sammato là danh từ đầu tiên được khởi lên. Này Vāsaṭṭha, “Vị chủ của ruộng vườn” tức là Khattiyà, là danh từ thứ hai được khởi lên” Làm cho các người khác hoan hỷ bởi Pháp”, tức là Rāja (vị vua). Rāja là danh từ thứ ba được khởi lên. Này Vāsaṭṭha, như vậy là sự khởi lên nguồn gốc giới vức xã hội của Khattiya theo danh từ truyền thống cổ xưa." (1)

Trong Kinh Phật và các câu chuyện Jataka (chuyện tiền thân Đức Phật), các khái niệm bầu cử dân chủ trực tiếp không được đề cập như trong bối cảnh chính trị hiện đạiTuy nhiên, một số kinh và chuyện Jataka có thể gián tiếp thể hiện các yếu tố về sự lựa chọn lãnh đạotư tưởng đồng thuận tập thể, và việc tôn trọng ý kiến chung, gần với nguyên tắc bầu cử dân chủ.

Nơi đây, chúng ta có thể dẫn ra Kinh Đại Bát Niết Bàn (Mahāparinibbāna Sutta – DN 16), trong Tụng Phẩm I, khi Đức Phật nói về sự quản trị của người Vajjī (dòng tộc Lichchavi ở thành Vaishali). Người Vajjī là một ví dụ về một cộng đồng có cách tổ chức xã hội tương đối dân chủ vào thời đó. Họ có hội đồngthường xuyên họp để thảo luận về các vấn đề chung, và quyền quyết định được chia sẻ qua các buổi họp tập thể.

Đức Phật đã khen ngợi sự tổ chức của người Vajjī và nói rằng chừng nào người Vajjī vẫn còn thường xuyên hội họp, tôn trọng các quy định chung và hành xử trong tinh thần đồng thuận, họ sẽ tiếp tục thịnh vượng và không bị suy tàn. Điều này có thể được coi là sự khuyến khích cho tinh thần dân chủ, vì cộng đồng được tổ chức theo cách dựa trên sự đồng thuận và tham gia của các thành viên. Trích Kinh DN 16, bản dịch của Thầy Minh Châu, như sau:

“- Này Ānanda, khi nào dân Vajjì thường hay tụ họp và tụ họp đông đảo với nhau, thời này Ānanda, dân Vajjì sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm...

- Này Ānanda, khi nào nghe dân Vajjì tụ họp trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết, và làm việc trong niệm đoàn kết, này Ānanda dân Vajjì sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm...

- Này Ānanda khi nào dân Vajjì, không ban hành những luật lệ không được ban hành, không hủy bỏ những luật lệ đã được ban hành, sống đúng với truyền thống của dân Vajjì như đã ban hành thuở xưa thời, này Ānanda, dân Vajjì sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm...” (2)

Bây giờ, trở về đời thường. Nếu bạn chưa bầu bằng thư, hãy nhớ đi bầu vào ngày 5 tháng 11/2024. Vào phòng phiếu, bạn hãy suy nghĩ kỹ về lựa chọn khi điền phiếu bầu, để tránh bầu nhằm Kẻ nói dối. Nếu bạn đã bầu qua thư xong, hãy bình tỉnh ngồi nhà, xem truyền hình để theo dõi thế sự. Chuyện gì xảy ra cũng đều là do nhân duyênphước đức. Nếu chuyện xảy ra không như ý của bạn, hãy nghĩ rằng, thôi thì chờ 4 năm sau nữa. Nếu chuyện xảy ra như ý, hãy chờ xem những lời hứa nào sẽ trở thành hiện thực. Không có gì để phiền não.

 

GHI CHÚ:

(1) Kinh DN 27: https://suttacentral.net/dn27/vi/minh_chau

(2) Kinh DN 16: https://suttacentral.net/dn16/vi/minh_chau

TVHS

Chia sẻ: facebooktwittergoogle
Các bài viết khác