Thiên Lý Độc Hành | Hạnh Chi

thien ly doc hanh

Thời gian như bóng câu qua cửa, ngỡ thoáng chốc mà sáng rồi tối, ngày rồi qua tháng, tháng rồi qua năm, niên kỷ qua thiên niên kỷ, tưởng như:

Không năm, không tháng, không ngày.

Thời gian là hạt bụi bay vô thường …

Những hạt bụi vô thường lặng thầm đến rồi đi, nhưng cũng trong lặng thầm, vẫn ẩn hiện những dấu mốc thời gian mà hạt bụi khó phai mờ với lịch sử, với lòng người …

Một dấu mốc trong tháng 11 năm nay, cùng dấy lên trong lòng những người từng được thọ nhận sự quan tâm nhắc nhở, sự chỉ dạy, sự yêu thương từ vị Thầy khả kính. Ngày 12 tháng 11 năm 2024, là đúng một năm, từ ngày 12 tháng 10 năm Quý Mão, Hoà Thượng thượng Nguyên hạ Chứng, hiệu Tuệ Sỹ đã dời cõi tạm Ta-bà.

Hương án tưởng niệm Thầy được đặt tại chùa Phật Ân, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, nơi Thầy an trú những ngày tháng cuối.

Dường như những ai đủ duyên tới thắp nhangđảnh lễ trước di ảnh Thầy, lòng đều bồi hồi rung động trước ánh mắt dịu dàng mà như nhìn suốt muôn sự, muôn nơi.

 

Bốn chữ “Thiên Lý Độc Hành” trang trọng ghi trên di ảnh, toả xuống không gian ngạt ngào hương sắc của những cặp câu đối ẩn hiện bước chân thiên lý độc hành.

Một lần, được phước báu quỳ giữa không gian đó, bỗng nhiên một, trong những cặp câu đối quanh phòng chợt nhập tâm, rồi ở lại trong tâm như đã được khắc ghi trên đá:

“Hỏi gió Trường Sơn, mặc khách về đâu, Chỉ thấy trăng ngàn mơ huyễn thoại.

Gọi triều Đông Hải, cô thuyền ẩn tích! Nào hay vết nhạn lẫn từng không”

                Ôi, Trường Sơn uy vũ che chở tinh thần “năm mươi con theo cha lên núi” có thấy khách độc hành đã về đâu? Trường Sơn chỉ thấy trăng ẩn hiện ảo huyền !

          Ôi, triều Đông Hải muôn trùng sóng vỗ ôm ấp tinh thần “năm mươi  con theo mẹ xuống biển” có thấy bóng con thuyền đơn lẻ nơi nao? ngoài vết chim nhạn vẫn hoà cùng không gian!

          Giòng giống Tiên Rồng tiền nhân tạo dựng từ thuở sơ khai vẫn tiềm ẩn sâu xa, nên gió Trường Sơn không thấy mặc khách nhưng lại bảo cho biết là trăng còn đó, trăng chỉ ẩn hiện chứ có bao giờ mất!

          Triều Đông Hải cũng lắc đầu, vì con thuyền đơn lẻ đã mất dấu, nhưng lại nhắc cho rằng mất mà không mất đâu, vì như bóng chim nhạn, tuy chỉ bay ngang nhưng vẫn đang hoà nhập vào không gian.

          Như ngọn nến được thắp lên, bóng tối tự lui tan, cho niềm cảm xúc trào dâng hai hàng lệ, không gì cầm giữ được! Đây là những giòng lệ hạnh phúc nên hãy cứ khóc! Cứ khóc đi! Khóc trong chan hoà ân đức thọ nhận từ những bước thiên lý độc hành, lặng thầm mà toả rạng hào quang dẫn lối cho bao bước chân còn lao đao trong đêm tối!

          Khi xưa, do hoàn cảnh giặc giã ở quê nhà mà một chú điệu chùa Trang Nghiêm, tỉnh Palsé , là gốc Việt Nam, đã sinh trưởng tại Lào. Ngoài công việc của các chú điệu là lau chùi ban thờ, thỉnh chuông, quét lá … chú điệu thường chui dưới bệ thờ Phật để học kinh điển. Chú tự sưu tra mà hiểu nghĩa từ kinh, luật, luận, rồi ghi ghi, chép chép, lầm thầm học thuộc những bài chú từ nguyên bản tiếng Phạn. Chú học tới quên ăn, quên ngủ khiến vị trụ trì cảm thương, đã bàn với quý Thầy ở Huế để chú được về quê hương, hầu thuận lợi hơn trong việc học. Đó là cơ duyên chú điệu bé bỏng sinh Lào, trưởng Việt.

          Tại Việt Nam, chú được đưa ngay về Huế, nơi thời đó được coi là cái nôi Phật Giáo. Tại đây, chú được nhận Pháp danh Nguyên Chứng. Từ đây, chú điệu Nguyên Chứng như cá kình được thả về đại dương, như chim phượng hoàng được tung cánh trên không gian bao la, như gió, như mây, thong dong khắp mười phương ba cõi, và trí tuệ siêu việt toả sáng mênh mang. Với bản chất độc lập, chú đã một mình rong ruổi qua những giải quê hương gấm vóc, từ quê miền Trung rồi vào miền Nam, tới đâu thì tuỳ thuận tuỳ duyên tạm dừng am, miếu, xóm làng.

          Trên con đường tự học, chú rất kính ngưỡng và khâm phục ngài Tuệ Trung Thượng Sỹ, đến mức chú đã xin phép bổn sư để có tên hiệu là Tuệ Sỹ, lấy từ chữ đầu và chữ cuối tên vị thiền sư danh tiếng đời Trần.

          Từ khi mang danh hiệu này, chú không còn là chú điệu Nguyên Chứng năm xưa nữa vì Thầy Tuệ Sỹ đã là ngôi sao sáng trên các  Đại Học Phật Đườngphụ trách những chương trình gay go về giáo pháp như Triết Học Tánh KhôngTrung Quán LuậnA Tỳ Đạt MaĐại Cương Thiền Quán, rồi qua tư tưởng triết học Tây PhươngĐông Phươngvăn học Trung Hoa…v…v… và cả các bộ môn nghệ thuật như dương cầm, vĩ cầm, đàn tranh, sáo trúc …. Thầy đều an nhiên tự tìm hiểunghiên cứu tới đâu thì tự học tới đó! Vậy mà, ở bất cứ bộ môn nào, Thầy đều khiến người thưởng ngoạn sửng sốt như một nghệ nhân chuyên nghiệp!

          Phải chăng Thầy đã:

 
 

Độc Hành từ khi còn là một chú điệu, chui dưới gầm ban thờ Phật để tự học kinh điển?

          Độc Hành ở tuổi thành niên khi là giảng sư các Đại Học Phật Đường, thầm lặng đến mức có giai thoại khi Phật Học Viện Hải Đức ở Nha Trang báo tin với các tăng sinh là sẽ có một vị giảng sư mới trong niên khoá, mà buổi học đầu, Thầy đã đứng trên bục giảng, tăng sinh vẫn ngơ ngác nhìn quanh, chờ vị giảng sư!

Theo lời tâm sự của một tăng sinh năm xưa, mà nay là trụ trì một ngôi chùa ở Nam Cali thì tăng sinh không ngờ đó là vị giảng sư mới vì Thầy còn quá trẻ, quá đơn giản trong tấm áo nhật bình!

Độc Hành ở tuổi trung niên khi quê hương chìm trong oan nghiệt, bất công, đoạ đầy! Thầy đã bị nhà cầm quyền bắt giam, vì tội “Âm mưu lật đổ chính quyền” khi Thầy đã nói thay cho những người không còn được quyền nói! Làm thay cho những người không còn được quyền làm! Với trọng tội bị kết án như thế, Thầy đã phải nhận bản án tử hình!

Độc Hành ở lời khẳng khái sau hơn mười lăm năm lao tù, với sự tranh đấu quyết liệt của các cơ quan nhân quyền khắp thế giới, những kẻ tước đoạt nhân quyền của Thầy đã phải nhượng bộ. Họ  vào nhà giam, đưa Thầy bản văn xin khoan hồng đã soạn sẵn, bảo Thầy chỉ ký tên là được thả ngay! Thầy đã mỉm cười, lắc đầu: “Tôi không có tội gì để phải xin khoan hồng!” Và Thầy quay về phòng giam, tuyệt thực!

Thầy đã cúng dường lên Đức Thế Tôn bát cơm hiếm hoi nơi tù ngục, như lời trình tấu nỗi đau thương chốn thế gian:

Phụng thử ngục tù phạn

Cúng dường Tối Thắng Tôn

Thế gian trường huyết hận

Bình bát lệ vô ngôn! (*)

Với tâm từ bi mẫn ái, dù bao oan khiên ập xuống Thầy cũng không hề oán hận ai:

Tình chung không trả thù người

Khuất thân cho trọn một đời luân lưu! (*)   

Kể sao cho hết những bước độc hành trên muôn dặm trường thiên lý mà Thầy Tuệ Sỹ đã an nhiên, thầm lặng đi qua …

Phải chăng chính sự an nhiên, thầm lặng đó là sức mạnh vô song của khối nam châm, đã khai mở trí huệ, đã thu hút, đã dẫn dắt và đã khiến những ai đủ duyên thọ nhận, được là những Đoàn Đồng Hành với bước Độc Hành vi diệu của Thầy !

Lắng tâm quán sát những bối cảnh xã hội cận đại mà nhận diện Đoàn Đồng Hành qua tinh thần phẩm Tùng Địa Dũng Xuất trong Kinh Pháp Hoa để vững tin cất bước.

Nhìn xa hơn thì sau thời công phu, xả toạ thiền, rồi thầm lặng thành tâm, cơ may có thể thấy thấp thoáng đường lên Yên Tử, có một bóng người độc hành, vấp ngã nhiều lần vẫn gượng đứng dậy, cố bước nhanh hơn như bị thúc đẩy bởi quyết tâm nào trong lòng…Lên tới đỉnh núi, hai bàn chân người ấy đã sưng vù và rớm máu nhưng vẻ mãn nguyện hiện rõ trên gương mặt khi tiến vào thạch động. Đó là vua Trần Thái Tông âm thầm rời cung điện, lên núi Yên Tử tìm thiền sư Phù Vân với ý định đi tu. Thiền sư đã khai thị cho nhà vua là “Phật ở trong Tâm”.  Đất nước còn đang cần Ngài, muôn dân còn đang cần Ngài, chưa thể bỏ ngang trách nhiệm mà lên núi ẩn tu được.

Nhà vua đã dời Yên Tử với tín tâm vững chắc “Phật ở trong tâm” để trở về làm một vị vua anh minh, nhân hậu, đem lại thái bình cho đất nước, thịnh vượng cho muôn dân. Khi những gì cần làm, đã làm, vua Trần Thái Tông nhường ngôi ngay cho Thái Tử rồi về rừng Vĩ Lâm, đất Hoa Lư, lập am Thái Vi, dốc lòng tu học.

Trang sử vàng son đời Trần có được chính là nhờ vị vua đầu tiên đã biết đem trí huệ Bát Nhã gieo hạt Bồ Đề trong tâm kiên cố, dựng nên cả một triều đại huy hoàng, hưng pháp với những vị vua tâm thành mộ đạo; nhất là đời vua Trần Nhân Tông đã khai sáng giòng Thiền Trúc Lâm trên núi thiêng Yên Tử, như nguồn suối vi diệu chảy mênh mang bất tận đến ngày nay …

Xin muôn vàn tạ ơn những bước chân Độc Hành từ ngàn xưa đến ngày nay đã toả sáng soi đường cho bao bước nương theo, để được Đồng Hành, kịp tránh nẻo hiểm nguy xấu ác mà bình an đạo-lộ.

Riêng huynh đệ chúng con, dù kẻ đang trời Đông hay trời Tây, người đang hướng Nam hay nẻo Bắc, đều mong ngày giỗ kỵ Sư Phụ được hội ngộ để cùng nhau thắp nén nhang thơm bái vọng Sư Phụ, cùng ôn những lời được dạy dỗ, cùng ngắm “trăng ngàn mơ huyễn thoại”, cùng dõi nhìn “vết nhạn lẫn tầng không” mà thẩm thấu là Sư Phụ chưa từng rời xa đàn con dại.

  

 

Tạ ơn Thầy chỉ dạy

Lượng cả tựa non cao

Đệ tử trí hạn hẹp                                     

Đền đáp được là bao!                            

Chỉ nguyện xin y giáo

Phụng hành trước như sau

Nương nguồn Tuệ-Bất-Khả

Qua sông, một nhịp cầu

  

Đệ tử Hạnh Chi

Khể thủ cẩn bái

(Hạ chí, Giáp Thìn niên 2024

Ngày dời Tào-Khê tịnh thất, về Tịnh-Cư-Am)

 

(*) Thơ Thầy Tuệ Sỹ
 
Chia sẻ: facebooktwittergoogle