Thực hành 10 Hạnh Nguyện Phổ Hiền
thuc hanh 10 hanh
THỰC HÀNH 10 HẠNH
NGUYỆN PHỔ
HIỀN
Đỗ Hồng Ngọc
Nguyên Giác Phan Tấn Hải dịch ra Anh văn
Con đường “thay đổi hành vi” từ biết đến muốn,
rồi từ muốn đến làm không
dễ chút nào (KAP = Knowledge/ Attitude/ Practice), rồi từ làm đến… duy
trì… quả là gian khó. Mà tu thì
phải hành, chớ không thì chỉ là
cái “đãy sách”.
Nhưng, hành cách nào?
Phần lớn các chùa hiện nay thường thấy nơi chánh
điện có tượng
Phật Thích-ca đặt ở giữa, bên trái có Bồ
Tát Văn-thù-sư-lợi, cưỡi sư
tử, tay cầm kiếm; bên phải có Bồ
Tát Phổ Hiền, cưỡi voi sáu ngà, tay cầm đóa hoa
sen.
Ai đã nghĩ ra các hình
tượng tượng
trưng này thật là hay để nhắc học Phật là con
đường của từ
bi và trí
tuệ. Văn-thù (Manjusri) là Bồ
Tát của trí
tuệ, tay cầm kiếm chặt đứt phiền
não, tiếng rống sư
tử làm tắt ngấm vô
minh. Phổ
Hiền (Samantabhadra) là Bồ
Tát của từ
bi, cưỡi voi sáu ngà, chở bao nặng
nhọc của bước đường thực
hành và hoằng
pháp. Tại sao voi 6 ngà? Tượng
trưng cho Lục
Ba-la-mật: Bố
thí, Trì
giới, Nhẫn
nhục, Tinh
tấn, Thiền
định, Trí
tuệ. Thú
vị là tượng Văn-thù luôn ở bên trái còn Phổ
Hiền thì luôn ở bên phải Phật Thích-ca. Khoa học bây giờ cũng thấy não
trái là não của trí
tuệ, não phải là não của từ
bi. Hồi xa xưa đó không ngờ đã phát triển nền Khoa học não bộ (Neuro-
sciences) đến vậy!
Phổ là rộng, phổ quát (universal) còn Hiền là đức
hạnh (great conduct, virtue, goodness). Bồ
tát Phổ Hiền đã làm một bảng Hướng dẫn thưc hành (Guideline in Practising
Buddhism) gọi là Mười Hạnh Phổ
Hiền rất cụ
thể. Học 10 hạnh này, mỗi ngày một chút thôi cũng đủ rồi vậy.
1. Lễ
kính Chư Phật. (To pay homage and respect to all Buddhas)
“Chư” Phật, chớ chẳng phải chỉ có một vị Phật duy
nhất. Phật nhiều vô
kể. Phật khắp mười
phương. Khắp tam
thiên đại thiên thế giới, cả 3 thời quá
khứ hiện
tại vị
lai. Thời nào cũng có Phật, ở đâu cũng có Phật. Bởi ở đâu cũng có kẻ giác
ngộ, lúc nào cũng có kẻ giác
ngộ. Nhưng Phật Thích-ca vẫn là vị Phật lịch
sử, vị
đạo sư, kẻ dẫn
đường, “bổn sư” của ta…
Phật Thích-ca chẳng từng nói “Ta là
Phật đã thành, chúng
sanh là Phật sẽ thành” đó sao? Phật Thích-ca cũng đã… không quên giới
thiệu cho chúng
ta các vị Phật khác ở khắp đông tây nam bắc để ta lễ
kính.
Kinh Pháp Hoa có Bồ
Tát Thường Bất Khinh là vị Bồ
Tát rất dễ
thương, ông luôn vái lạy mọi
người và nói với họ rằng: “Xin kính
lễ Ngài, vị Phật tương lai.” Mặc cho người ta đánh mắng xua
đuổi, ông cũng cứ lễ
kính trân
trọng chân
thành như vậy, cho
đến một hôm người ta giật mình nhìn lại, ừ đúng, sao không nhỉ?
Nếu ta tu
tập đúng con
đường Phật dạy, ta cũng có thể trở
thành Phật lắm chứ?
2. Xưng
tán Như
Lai (To praise the Thus Come One- Tathagata).
Rất thú
vị ở đây là không có chuyện “lễ
kính” Như
Lai mà chỉ “xưng tán” (khen
ngợi) Như
Lai mà thôi. Nói khác đi, với Như
Lai không việc gì phải lễ kính! Phật thì “lễ
kính” còn Như
Lai chỉ “xưng tán”. Lý
do? Như
Lai là Như
Lai, không phải Phật. Như
Lai “vô sở tùng lai diệc vô
sở khứ” (chẳng từ đâu đến, chẳng đi về đâu!): Thus
come one-Tathagata. Nó vậy là nó vậy. Nhiều khi ta lầm tưởng Phật với Như
Lai. Nhìn con chim đầy màu sắc kia xem. Nhìn thiên
nga và bầy vịt kia xem. Nhìn mây trôi nước chảy kia xem. Như
Lai đó. Con ong cái kiến là Như
Lai. Đóa hoa muôn màu muôn sắc là Như
Lai. Và Phật cũng là… Như
Lai khi đã giác
ngộ, đã “thấy biết” và từ
đó sống trong Như
Lai, sống cùng Như
Lai, sống với Như
Lai. Ta vẫn gọi Phật bằng nhiều danh xưng với lòng tôn
kính: Như
Lai, Bậc Ứng
cúng, Thế
gian giải, Thiên
Nhân sư…
Kinh nói “vào nhà Như
Lai, mặc áo Như
Lai, ngồi tòa Như Lai” chớ không nói “vào
nhà Phật, mặc áo Phật…”, cũng nói “Như
Lai thọ lượng” chớ không nói “Phật
thọ lượng” (Pháp
Hoa).
Nhớ lễ
kính chư Phật mà xưng
tán Như
Lai nhé.
3. Quảng
tu cúng dường (To make abundant offerings. - e.g. give generously)
Quảng tu là rộng tu. Tu mà bó hẹp, bịt mắt chỉ thấy một góc, một phía thì
uổng lắm. Phật dạy lúc trước, lúc sau hay lúc giữa cũng chỉ có một, nhưng tùy
theo “căn cơ” của đối
tượng mà ứng
biến, gia
giảm cho phù
hợp, nên đôi khi dễ tưởng là khác, là “mâu
thuẫn”. Có lần trong một buổi thuyết
giảng của Phật cả mấy ngàn người đã bỏ đi. Trước khi nhập Niết-bàn, Phật
còn dặn dò “xưa nay ta chưa hề giảng
dạy điều gì cả, chưa hề giảng dạy cho ai cả”. Hình như Phật biết
trước, thời
đại Internet, AI, đầy những deepfakes. Cái thấy biết của Phật thì như
cánh rừng Simsapa kia mà điều nói ra chỉ là nhúm lá trong tay. Phần không nói
ra, rồi sẽ tự biết. Phật gợi ý để rồi tự ta phát hiện, tự
chứng, tự nội.
“Nhất thiết chủng trí” rồi thì đã
có Bình
đẳng tánh trí, Diệu
quán sát trí. Cúng
dường là bố
thí. Quảng
tu cúng dường là bố
thí rộng lớn. Bố
thí là hàng đầu trong Lục
độ (Bố
thí, Trì giới…). Bố
thí có tài
thí, pháp
thí và vô
úy thí. “Bố thí
thân mạng” (Thiền) mỗi ngày nhiều như cát sông Hằng… là tốt nhất. Dược
Vương Bồ Tát tự đốt cả thân mình, đốt cả hai cánh tay (đốt ở đây là dập
tắt tham
sân si, mạn, nghi, kiến… để có thân vô
ngã, pháp
vô ngã) được các vị Phật khen là “món
thí hạng nhứt!”
4. Sám
hối nghiệp chướng (To repent misdeeds and evil karmas).
Chướng là trở ngại, gây phiền
phức, gây rắc
rối, không trơn tru. Cái
gì gây trở ngại, gây chướng vậy? Nghiệp!
Nghiệp là gì? Phật dạy nghiệp là “tài sản” của ta. Ta là kẻ “thừa tự” của
nghiệp. Nói khác đi, ta “lãnh đủ” nếu
ta tạo nghiệp. Dĩ
nhiên đó là ác
nghiệp. Thiện
nghiệp thì sao? Thì ta không bị chướng, gì cũng thành
tựu, tốt
đẹp. Nhìn hôm nay biết nghiệp ngày
xưa. Nhân hôm nay biết quả ngày
sau. Nói khác đi, nó là kết quả, là nguyên
nhân của đời
sống ta, là hạnh
phúc, là khổ đau của kiếp sống ta. Cải nghiệp được không? Được. Nghiệp
do thân
khẩu ý mà sinh. Hành
vi chỉ là thân và khẩu. Có Thân
nghiệp, Khẩu
nghiệp, nguồn gốc của sanh sự. Nhưng Ý
nghiệp mới thật là ghê gớm. Ý dẫn
đầu các pháp. Nhưng Ý thường làm bộ vô can. “Tác
ý” là yếu
tố chính
xác định
nghiệp. Người ta có thể tha
thứ cho một sự vô tình, nhưng cố
ý thì rắc
rối to. “Như lý tác ý”,
nghĩa là theo “lý” mà làm. Lý
đây là cái thấy biết như thực, cái chánh
kiến, chánh
tư duy, từ đó mà có chánh
ngữ, chánh
nghiệp. Còn sám
hối là hối
lỗi, thấy biết chỗ sai quấy mà “từ
nay xin chừa”. Ta là chủ nhân của nghiệp. Sám
hối cái sai quấy thì không đi
vào ác
nghiệp và từ đó, nghiệp hết… chướng!
5. Tùy
hỷ công đức (To rejoice in others’ merits and virtues).
Là công
đức do tùy
hỷ mà có. Tùy
hỷ là cái “vui theo người”. Người có chuyện vui thì mình vui theo. Dĩ
nhiên chuyện vui đó phải là chuyện thiện. Nếu là chuyện xấu ác mà vui
theo thì nguy. Tùy
hỷ thực
chất là để chữa trị bệnh đố
kỵ, ghen
ghét, là một trong những “bản
năng” gốc của con
người. Đố
kỵ ghen
ghét cũng vì tham, vì thấy thua sút người ta. Khi không còn tham
sân si, khi biết vô
ngã rồi thì không còn ganh
ghét đố
kỵ nữa. Tùy
hỷ mà giả đò, tùy
hỷ mà không thực lòng, tùy
hỷ mà hùa theo thì không phải là tùy
hỷ. Sẽ chẳng có “công đức” gì
ở đây! Thứ tùy
hỷ giả, nói theo, làm vui
lòng người, khen bừa cho người vui thì chưa gọi là tùy
hỷ. “Nịnh” càng không phải là tùy
hỷ. Cho nên phải coi
chừng tùy
hỷ. Coi
chừng lời tùy
hỷ, kẻ tùy
hỷ. Ái
ngữ không phải là tùy
hỷ. Chánh
ngữ mới đúng. Có chánh
kiến, chánh
tư duy thì mới có chánh
ngữ.
6. Thỉnh
Phật chuyển pháp luân (To request theBuddhas to continue teaching).
Pháp luân là “Bánh xe pháp”.
Bánh xe pháp vẫn phải luôn chuyển không ngừng bởi đời
sống như dòng sông vẫn trôi
chảy. Cũng vẫn tham, sân, si, mạn, nghi, tà
kiến đó thôi, cũng vẫn thất
tình lục dục đó thôi, nhưng đã mỗi thời mỗi khác. Xưa cung tên giáo mác,
nay hỏa tiễn hạt nhân… Xưa bệnh tật khu trú từng vùng, nay lan tràn trong nháy
mắt… Thế
giới trong lòng bàn tay. Trái đất nóng lên. Môi trường chết
ngạt. Thức
ăn đầy độc chất. Tin
tức đầy fake news, deepfakes… Xưa, lên núi cao tìm thầy, vào hang sâu tìm
kinh sách, chỉ một câu một chữ thôi đủ ngộ. Nay bấm cái nút, thiên kinh vạn
quyển, tẩu hỏa nhập ma! Sinh học tạo con
người từ ADN, công nghệ gắn thêm AI (trí
thông mình nhân
tạo), robot điều khiển con
người từ xa…
Duy-ma-cật nói: Phải nắm bắt thật đúng đối tượng thì “thuyết
pháp” mới có hiệu
quả. Phật dạy “Ta chẳng có
pháp gì để thuyết cả!”, vì “Pháp
thuận với không, tùy
theo vô
tướng, ứng với vô
tác. Pháp lìa khỏi tốt và xấu, thêm và bớt, sinh và diệt… há thuyết diễn
được sao?”.
Lục tổ Huệ Năng nói: “Thiện tri
thức, đạo cần
phải linh
động, chớ nên làm cho ngăn trệ. Tâm chẳng trụ pháp thì đạo được linh
động, tâm nếu trụ pháp, gọi là tự trói.”
Cho nên vẫn phải thỉnh
Phật chuyển pháp luân thôi.
7. Thỉnh
Phật trụ thế (To request the Buddhas to remain in the world).
Người có “chứng ngộ” thường dễ
thấy “phạm hạnh đã tròn đầy”,
muốn “đặt gánh
nặng xuống, bước vào cõi vô
sanh, niết-bàn tịch diệt…”. Nhưng, thế thì còn ai để lặn
lội trong cõi Ta-bà đầy ô
trược này mà “hóa độ” chúng
sanh? Cho nên phải thỉnh
Phật trụ thế.
Bồ Tát thì phải “bất tận hữu
vi, bất trụ vô vi”. Hữu
vi thì vô
thường, như mộng
huyễn bào ảnh, như lộ như điển, giả tạm, hư
vọng, dẫn đến nhàm
chán, buông
bỏ. Nhưng Bồ
Tát thì không. Phải chịu
khó ở lại giúp đời giúp người “hộ
trì chánh pháp”. “Vào sinh
tử luân hồi như vào vườn cảnh, đức tánh vô
niệm, trí
huệ thực
tướng, nhưng chẳng bỏ pháp thế
gian. Từ
bi hỷ
xả mà không phóng
dật, tu
học lẽ Không mà không
chấp Không, quán vô
thường mà không chán cội lành, quán phiền
não mà không đoạn phiền
não.”
8. Thường tùy Phật
học (To follow the teachings of the Buddhas at all times).
Phật không dạy nhiều và thậm chí còn nói “Ta
chẳng có pháp gì để thuyết cả!” Nhưng chư Phật đều nhắc nhở “Chư
ác mạc
tác, chúng thiện phụng
hành,tự tịnh kỳ ý, thị chư Phật giáo”. Nghĩa là việc ác đừng làm, việc
thiện thì làm. Quan trọng nhất là phải “tự
tịnh kỳ ý”. Cái mới khó! Thanh
tịnh bổn nhiên, tùy chúng
sanh tâm, chu
biến pháp giới, tòng
nghiệp phát hiện. Ấy chẳng qua vì nghiệp mà thấy vậy, ra vậy. Phải làm cho
tâm được trở
về với cái “thanh tịnh bổn
nhiên” ấy của mình vốn sẵn. Cái khó ở chỗ phải tự mình làm, tự mình “tịnh
cái ý” của mình chớ không thể nhờ ai giúp được. Chỉ có thể quay
về nương tựa chính mình thôi. Tuệ
giác, insight, là cái thấy
bên trong. Tìm
kiếm đâu xa. Gia trung
hữu bảo hưu tầm mích. Tóm
lại, thường tùy Phật
học là học chính mình, quay
về bên trong mình. Luôn tự hỏi mình đang tham đó ư? Đang sân (giận) rồi
sao? Mê
muội đến vậy hả? Thôi nhé.
“Có bốn thứ ma, tám vạn bốn ngàn thứ phiền
não làm cho chúng
sanh nhọc nhằn, mỏi mệt, chư Phật dùng chính những thứ ấy mà làm
Phật sự.” (kinh Duy-ma-cật).
Học Phật được vậy
thì “sự sự vô ngại”.
Thiện Tài đồng tử trải
qua 53 “cửa ải”, ở đâu
cũng học, cũng hành đúng pháp, sau cùng thì mới “thõng
tay vào chợ” được vậy!
9. Hằng
thuận chúng sanh (To accommodate and benefit all living beings).
Chúng sanh bệnh thì mình cũng bệnh như Duy-ma- cật. Đồng bệnh tương lân,
mới thấu cảm nhau. Bồ-đề-đạt-ma đã vội xua
đuổi, bỏ
rơi Lương
Võ Đế cũng đáng tiếc.
Huệ Năng khi đã giác
ngộ: “Bổn lai vô
nhất vật” rồi, đã thấy Pháp
thân rồi mà cũng mất 15 năm theo cùng nhóm thợ săn, săn thú, uống rượu,
bán buôn… Hay là… ông cố
tình xâm
nhập để quan
sát, học
hỏi, tu tập? Nghe nói tuy sống chung với nhóm thợ săn 15 năm như vậy, ông
chưa từng săn thú, ăn
thịt, uống rượu? Biết đâu ông cũng đã “độ” được
năm ba. Huệ
Năng nói: “Ngoài không dính
mắc là thiền, trong không lay động là định…”
Chúng sanh nào thì Bồ
Tát đó. Chúng
sanh ở trong Bồ
Tát, Bồ
Tát ở trong chúng
sanh. “Hòa nhi bất đồng.” Quán
Thế Âm có 32 ứng
hóa thân để biến hiện tùy
cơ. Gặp vua quan thì vua quan. Gặp ốm đau bệnh
hoạn thì ốm đau bệnh hoạn… Mà bên trong vẫn là Bồ
Tát Quán Thế Âm như
như bất động, với bình cam
lồ, với nhành dương liễu, với “vô
úy thí”…
Tham vấn viên trong công tác xã
hội ngày nay đóng vai kẻ mại dâm, người nghiện ma
túy để hòa nhập với đối tượng, giúp họ giải
thoát, bằng kỹ năng tham
vấn với tôn
trọng, chân
thành, thấu cảm, lắng nghe…
10. Phổ
giai hồi hướng (To transfer all merits and virtues to benefit all
beings).
“Hồi hướng” là chia sẻ. “Phổ” là
cùng khắp, rộng lớn. Chia sẻ cái gì? Cái công
đức. Phước
đức cũng chia sẻ được, nhưng phước
đức thì hữu
lậu, như Lương
Võ Đế đúc
chuông lớn, xây chùa to, nuôi tăng đoàn… cũng chẳng có tí “công
đức” nào, bị Bồ-đề-đạt-ma quở. Có thể ông vua còn vênh váo, tự mãn, với cái
ngã to đùng của mình thì càng đáng
trách, trong khi công
đức là cái tu bên trong, để có tuệ
giác, và thấy biết vô
ngã.
--
…. o ….
A pocketbook for the elderly
A PATH TO PEACE & JOY
Chapter 5
Practicing the Ten Universal Vows of
Samantabhadra
The journey of transforming behavior from knowledge to motivation, and then from
motivation to action, is quite challenging. Furthermore, progressing from action
to maintenance is particularly difficult. To truly practice, you must translate
your learning into action; otherwise, you risk becoming merely a bag of books.
But how to practice?
Most temples today typically feature a statue of Shakyamuni Buddha in the center
of the main hall, with Manjushri Bodhisattva riding a lion and wielding a sword
on the left, and Samantabhadra Bodhisattva riding a six-tusked elephant and
holding a lotus flower on the right.
Whoever created these symbolic images has done an excellent job of reminding us
that studying Buddhism is a path of compassion and wisdom. Manjushri, the
Bodhisattva of wisdom, wields a sword to sever afflictions and roars like a lion
to dispel ignorance. Samantabhadra, the Bodhisattva of compassion, rides a
six-tusked elephant, symbolizing the weighty responsibility of practicing and
propagating the Dharma. Why the six-tusked elephant? It represents the Six
Paramitas: Generosity, Precepts, Patience, Diligence, Meditation, and Wisdom.
Interestingly, the statue of Manjushri is always positioned on the left side,
while Samantabhadra is consistently on the right side of Shakyamuni Buddha.
Modern science also recognizes that the left brain is associated with wisdom,
while the right brain is linked to compassion. Who would have imagined that
neuroscience would advance to such an extent?
Samantabhadra is known as Phổ
Hiền in Vietnamese. Phổ means broad or universal, while Hiền means great
conduct, virtue, and goodness. The Bodhisattva Phổ
Hiền has established a specific guideline for practicing Buddhism known
as the Ten Conducts of Phổ
Hiền. Learning these ten conducts, even just a little each day, is
sufficient.
1. To pay homage and respect to all
Buddhas
There are not just one, but countless Buddhas present in every direction, across
the three thousand worlds, and throughout the past, present, and future.
Enlightened beings can be found everywhere and at all times. However, Shakyamuni
Buddha remains the historical Buddha—our teacher, guide, and master. He once
stated that he is the Buddha who has attained enlightenment, while sentient
beings are the Buddhas who are yet to realize their potential. Shakyamuni Buddha
also took the time to introduce us to other Buddhas in the east, west, south,
and north, encouraging us to pay homage to them.
In the Lotus Sutra, there is a beloved Bodhisattva named Never Disparaging. He
consistently bows to everyone and tells them, “I respectfully pay homage to you,
the future Buddha.” Despite being beaten, scolded, and chased away by some, he
continued to pay homage to them with sincerity and respect. One day, they
suddenly looked back and said, “Yes, that’s right, why not?”
If we follow the path taught by the Buddha, can we also attain Buddhahood? Is
that correct?
2. To Praise the Tathagata
What is interesting here is that there is no need to bow to or show respect to
Tathagata; one only needs to praise Tathagata. In other words, while one bows to
and respects Buddha, one only praises Tathagata. The reason for this distinction
is that Tathagata is Tathagata, not Buddha. Tathagata does not originate from
anywhere and does not go anywhere. It simply is what it is.
Sometimes, you may mistake Buddha for Tathagata. Observe that colorful bird, the
swan, and the flock of ducks. Notice the drifting clouds and flowing water—these
are Tathagata. The bee and the ant embody Tathagata, as does the vibrant flower.
Buddha is also Tathagata when he attains enlightenment, having seen and
understood the truth. From that moment on, he lives in Tathagata, with
Tathagata, and as Tathagata. We continue to honor Buddha with many names:
Tathagata, Worthy One, World-knower, Teacher of Gods and Humans…
Therefore, the Sutra instructs us to enter the Tathagata's house, don the
Tathagata's robe, and sit on the Tathagata's throne; however, it does not
mention entering the Buddha's house or wearing the Buddha's robe. Similarly, the
Lotus Sutra discusses the Tathagata's lifespan but does not refer to the
Buddha's lifespan.
It is important to pay homage and show respect to the Buddhas while praising the
Tathagata.
3. To practice broadly the virtue of
making immeasurable offerings
Broad practice encompasses practice without limitations. In contrast, narrow
practice, which is blindfolded and only perceives one corner or one side, is a
waste of effort. The Buddha taught that there is only one Dharma, whether
before, after, or in the middle. However, depending on the circumstances of the
individual, the teachings are adapted and adjusted to suit their needs. This can
sometimes lead to the misconception that the teachings are different or
contradictory.
Once, during a sermon by the Buddha, thousands of people departed. Before
entering Nirvana, the Buddha advised that he had never taught anything in the
past and had never instructed anyone. It seems that the Buddha foresaw that the
age of the Internet and artificial intelligence is rife with misinformation and
deepfakes. His vision and knowledge resemble the vast Simsapa forest, while what
is spoken is merely a handful of leaves in one's hand. The unspoken truths must
be discovered by ourselves. The Buddha encouraged us to explore, understand, and
experience these truths within our hearts.
When you possess the wisdom that understands everything, you also attain the
insight that perceives all dharmas as equal, along with the wisdom that observes
magnificently. Offering is the act of giving. Extensive offering refers to
giving widely. Giving is the first of the Six Paramitas (which include Giving,
Keeping Precepts, etc.). It encompasses the giving of wealth, the giving of
Dharma, and the giving of fearlessness. As Zen teaches, you have as many lives
each day as there are grains of sand in the Ganges River, and it is best to give
all of them away. The Bodhisattva Medicine King is celebrated for having burned
his own body, including both arms. In this context, extinguishing of greed,
anger, ignorance, arrogance, doubt, and misguided views, leading to the
realization that both the body and dharmas are not-self. This selfless act is
praised by the Buddhas as a supreme offering.
4. To repent misdeeds and evil karmas
Obstacles are challenges that create difficulties and disrupt smooth progress. What
causes obstacles? Karma!
What is karma? The Buddha taught that karma is our inheritance; we are the heirs
of our actions. In other words, we encounter numerous obstacles when we have
generated negative karma. Conversely, if we cultivate positive karma, we will
not face hindrances; instead, everything will flourish and prosper. Reflecting
on our current circumstances, we can recognize the karma we have created in the
past. Our actions today will yield results in the days to come. In simple terms,
karma encompasses the outcomes, the causes of our existence, as well as the
happiness and suffering we experience in life.
Can karma be changed? Yes. Karma arises from our body, speech, and mind. Actions
primarily stem from the body and speech, and when these create karma,
corresponding effects inevitably follow. However, karma in consciousness can be
quite profound. The mind governs all dharmas, yet it often pretends to be
innocent. Ultimately, it is intention that determines karma. While one can
forgive an unintentional act, the involvement of intention can lead to
significant consequences. The adage that one should follow the reason to guide
the mind emphasizes the importance of adhering to principles. Understanding
reality as it truly is encompasses right view and right thinking, which in turn
lead to right speech and right action. Repentance involves acknowledging the
mistakes we have made. By recognizing these errors, we can commit to avoiding
them in the future. We are the architects of our own karma. Repentance for
wrongdoing can help us steer clear of negative karma, allowing us to navigate
our karmic path without obstacles as we move forward.
5. To rejoice in others’ merits and
virtues
There are significant benefits to rejoicing. Rejoicing involves feeling joy in
response to the good deeds of others. When someone experiences happiness, it is
natural to share in that joy. However, it is important that this happiness stems
from positive actions; finding joy in negative circumstances can be harmful.
Rejoicing serves as a remedy for jealousy and envy, which are fundamental human
instincts. These feelings often arise from a greedy mindset, where an individual
perceives themselves as inferior to others. When one overcomes greed, anger, and
ignorance, and comes to understand the concept of non-self, the mind can be
liberated from jealousy and envy.
If you pretend to rejoice, it means you are expressing joy insincerely; you are
merely going along with the situation, which does not constitute true rejoicing.
There is no merit in this! Fake rejoicing—saying the same things, pleasing
others, and offering random praise to make people happy—is not genuine
rejoicing. Flattery, in particular, is even further removed from true joy.
Therefore, you must be cautious about what it means to rejoice. Be mindful of
the words associated with rejoicing and the individuals who claim to rejoice.
Loving words do not equate to true rejoicing. Right speech is essential. Only
with right views and right thoughts can one achieve right speech.
6. To request the Buddhas to turn the
Wheel of Dharma
The Wheel of Dharma must always be turned because life is like a flowing river.
Living beings continue to experience greed, anger, ignorance, arrogance, doubt,
misguided beliefs, and the seven emotions alongside six desires, but these
manifestations change over time, each instance differing from the last. In the
past, conflicts were fought with bows and arrows, swords, and spears; today,
they are waged with missiles and nuclear weapons. Epidemics that once remained
confined to specific regions can now spread in the blink of an eye. The world is
at our fingertips. The Earth is warming, the environment is suffocating, and our
food is laden with toxins. Furthermore, the news is rife with misinformation and
deepfakes.
In the past, one had to scale high mountains to seek out teachers and venture
into deep caves to discover scriptures. During that time, simply hearing a
sentence or reading a word was sufficient to attain enlightenment. Today, with
the press of a button, one can access thousands of scriptures and countless
books, easily witnessing the flames of temptation burning in the heart. Biology
creates humans from DNA, while technology introduces artificial intelligence
(AI), and robots are operated remotely.
Vimalakirti emphasized the importance of selecting the appropriate listener for
the Dharma to be truly effective. The Buddha stated, "I have no Dharma to
preach, for the Dharma is inherently aligned with emptiness, devoid of form, and
responding to non-action. It is impossible to discuss the Dharma that separates
it from good and bad, as it is inherently free from increase or decrease and
devoid of birth and death."
The Sixth Patriarch Hui Neng stated, “Good friends, when you embark on the Way,
your mind must remain flexible; do not allow it to become stagnant. If your mind
does not cling to the dharmas, then the Way will be adaptable. However, if your
mind remains attached to the dharmas, it is referred to as self-binding.”
Therefore, we must still request the Buddhas to turn the Wheel of the Dharma.
7. To request the Buddhas to Remain
in the World
Those who have attained enlightenment can easily recognize that their pure
conduct is complete. They desire to relinquish their burdens and enter the realm
of nirvana and extinction. However, who remains to wander in this impure world
of Samsara to assist sentient beings? Therefore, we must request the Buddhas to
remain in this world.
Bodhisattvas must neither abandon the conditioned world nor remain solely in the
unconditioned realm. Everything in the conditioned world is impermanent—like a
dream, an illusion, a bubble, a shadow, dew, or lightning—temporary and
illusory, ultimately leading to feelings of boredom and abandonment. However,
Bodhisattvas must exercise patience, remaining present to assist the world and
help people protect the Dharma. They enter the cycle of birth and death as one
would enter a garden, embodying the virtue of non-thought and possessing the
wisdom to perceive true nature, all while engaging with worldly affairs.
Bodhisattvas must diligently practice the Dharma of compassion, kindness, joy,
and equanimity without negligence. They should learn the principle of Emptiness
without clinging to it, contemplate impermanence without growing weary of
cultivating good roots, and reflect on afflictions without severing their
connection to them.
8. To follow the teachings of the
Buddhas at all times
The Buddha did not teach extensively and even stated that he had nothing to
preach. However, all Buddhas convey the essential message: “Do not commit evil;
do good; purify your mind; this is the teaching of the Buddhas.” This means that
one should refrain from wrongdoing and engage in virtuous actions. The most
crucial aspect is to purify the mind, which can be quite challenging. This
innate purity, which is dependent on the minds of living beings, permeates the
Dharma realm and is revealed through karma. It is only due to karma that one
perceives reality in this manner and appears in this way. One must strive to
return the mind to that inherent purity that resides within oneself.
The challenge lies in the necessity of self-reliance; you must purify your own
mind without seeking assistance from others. You can only turn inward and depend
on yourself. Wisdom and insight are the abilities to see clearly within. Do not
search outside your mind any longer, for there is a treasure within your own
being. In essence, adhering to the teachings of the Buddhas at all times means
learning from yourself and turning inward. Always observe whether your mind is
generating thoughts of greed, anger, or ignorance. If that is the case, then
direct those thoughts into the realm of non-existence.
The Vimalakirti Sutra states, “There are four types of demons and eighty-four
thousand varieties of afflictions that cause living beings to feel tired and
exhausted; however, Buddhas use these very challenges to accomplish their
Buddhist actions.”
If you study Buddhism in this way, you will no longer perceive any obstacles.
The young Thiện
Tài skillfully navigated 53 gates of obstacles, diligently studying and
practicing the Dharma correctly at every turn. Ultimately, he attained a state
of enlightenment, where his hands grasped nothing as he entered the marketplace.
9. To accommodate and benefit all
living beings
Similar to Vimalakirti, when a practitioner encounters a sick person, he too
feels a sense of illness. Only by sharing in the same suffering can one truly
cultivate compassion and empathy for one another. It is unfortunate that Emperor
Liang Wu did not grasp the essence of the conversation, leading to Bodhidharma's
departure.
After Hui Neng attained enlightenment, he realized that originally there was
nothing and perceived the Dharmakaya. However, he spent 15 years living among a
group of hunters who engaged in hunting animals, drinking alcohol, and trading.
Did he intentionally immerse himself in their lifestyle to observe, learn, and
practice? It is said that despite living with the hunters for those 15 years, he
never participated in hunting, consuming meat, or drinking alcohol. Perhaps he
even saved a few individuals during that time. Hui Neng stated, “Outwardly
unattached is meditation; inwardly unmoving is concentration.”
As sentient beings are, so is the Bodhisattva. Sentient beings exist within the
Bodhisattva, and the Bodhisattva exists within sentient beings. Although he is
in harmony with sentient beings, he does not allow himself to be assimilated.
Bodhisattva Avalokiteshvara has 32 incarnations that adapt to various
situations. When he encounters a king or a mandarin, the Bodhisattva manifests
as a king or a mandarin. When he meets a sick person, he also takes on the form
of a sick person. However, deep within, he remains Bodhisattva
Avalokiteshvara—steadfast and unchanging, holding a vase of nectar and a willow
branch while bestowing fearlessness.
Similarly, a social worker may need to adopt the perspective of a prostitute or
a drug addict in order to connect with their clients effectively. This approach
can facilitate the process of helping individuals escape their circumstances by
employing counseling skills such as respect, sincerity, empathy, and active
listening.
10. To dedicate one's merits to
benefit all sentient beings
This concept refers to sharing in a vast and infinite manner. What is being
shared? Merit. While worldly merit can also be shared, it is conditioned—much
like Emperor Liang Wu, who cast a large bell, built an impressive temple, and
supported a sangha. However, he lacked any unconditioned merit and was
reprimanded by Bodhidharma. Perhaps the king remained arrogant and complacent,
burdened by his inflated ego, which is even more blameworthy. In contrast,
unconditioned merit involves internal cultivation, fostering wisdom, and
recognizing the principle of non-self.
Đỗ Hồng Ngọc
Translated by Nguyên
Giác
TVHS