Hiểu về phân kinh Thạch đài của Nguyễn Du
hieu ve phan kinh
HIỂU VỀ PHÂN KINH THẠCH ĐÀI CỦA NGUYỄN DU
Nền văn học nước nhà ghi danh
Nguyễn Du (1766-1820)
như một tác gia lớn của chủ nghĩa nhân đạo. Thế giới tôn vinh nhà thơ là danh
nhân văn hóa. Tên tuổi của ông gắn liền với Truyện Kiều. Một thông tin ít
được biết hơn, đó là Tố Như từng có lúc xuất gia làm tu sĩ và chuyên thọ trì
kinh Kim cương,
một kinh tiêu biểu cho trí tuệ của đạo Phật. Bài thơ Phân kinh Thạch đài
là một trong những tác phẩm có thể giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện và sâu
sắc hơn về đại thi hào dân tộc, rằng
ông không đơn giản chỉ là một nhà thơ mang trái tim thương yêu rộng lớn, mà bên
cạnh đó còn là một nhân vật bí ẩn với trí tuệ siêu việt;
và rằng không phải ngẫu nhiên mà
xuất hiện tên gọi “Thi Thánh Nguyễn Du”.
Phân kinh Thạch
đài
có tên đầy đủ là Lương Chiêu Minh
thái
tử Phân
kinh
Thạch đài,
nằm trong tập Bắc hành tạp lục, tức những bài thơ được Nguyễn Du sáng tác
vào thời gian đi sứ ở Trung Quốc. Qua khảo cứu trên mạng, chúng tôi thấy hiện có
hai bài viết về Phân kinh Thạch đài. Thứ nhất là bài Nguyễn Du và Phân
kinh Thạch đài
của tác giả Đại Lãn (tức
Hòa thượng Thích Đức Thắng)
đăng trên Giác ngộ Online, bài thứ hai của cư sĩ Huỳnh
Kim Quang
nhan đề Hai trăm năm Nguyễn Du qua đời, đọc Phân kinh Thạch đài đăng trên
Thư viện Hoa sen. Cả hai bài viết trên đều tiếp cận bài thơ trên lập
trường Phật giáo, chủ yếu thông qua so sánh, đối chiếu tác phẩm với kinh Kim
cương
cũng như một vài giáo lý
và điển tích Phật giáo khác. Dù sở học còn vô cùng yếu kém nhưng chúng tôi xin
mạnh dạn đưa thêm một vài lý
giải sau khi đọc bài thơ này. Mặt khác, đây là một tác phẩm thơ ca nên sẽ có
những cảm nhận mang tính cá nhân. Nếu có thiếu sót hay chủ quan, cúi xin độc giả
lượng thứ.
1.
Vấn đề văn bản và chú giải
Nguyên tác chữ Hán:
梁朝昭明太子分經處,
石臺猶記分經字。
臺基蕪沒雨花中,
百草驚寒盡枯死。
不見遺經在何所,
往事空傳梁太子。
太子年少溺菸文,
強作解事徒紛紛。
佛本是空不著物,
何有乎經安用分。
靈文不在言語科,
孰為金剛為法華。
色空境界茫不悟,
癡心歸佛佛生魔。
一門父子多膠蔽,
一念之中魔自至。
山陵不涌蓮花臺,
白馬朝渡長江水。
楚林禍木池殃魚,
經卷燒灰臺亦圯。
空留無益萬千言,
後世愚僧徒聒耳。
吾聞世尊在靈山,
說法渡人如恆河沙數。
人了此心人自渡,
靈山只在汝心頭。
明鏡亦臺,
菩提本無樹。
我讀金剛千遍零,
其中奧旨多不明。
及到分經石臺下,
終知無字是眞經。
Phiên âm:
Lương
Chiêu Minh thái tử Phân kinh Thạch đài
Lương triều Chiêu
Minh thái tử phân kinh xứ,
Thạch đài do ký “Phân kinh” tự.
Đài cơ vu một vũ hoa trung,
Bách thảo kinh
hàn tận khô tử.
Bất kiến di kinh tại hà sở?
Vãng sự không truyền Lương Thái
tử.
Thái tử niên
thiếu nịch ư văn,
Cưỡng tác giải sự đồ phân phân.
Phật bản thị không bất trước vật,
Hà hữu hồ kinh an
dụng phân?
Linh văn bất
tại ngôn ngữ khoa,
Thục vi Kim
cương vi
Pháp hoa?
Sắc không cảnh
giới mang bất ngộ,
Si tâm quy
Phật Phật sinh ma.
Nhất môn phụ
tử đa giao tế,
Nhất niệm chi
trung ma tự chí.
Sơn lăng bất dũng liên
hoa đài.
Bạch mã triêu
độ Trường Giang thủy,
Sở lâm họa mộc trì ương ngư,
Kinh quyển thiêu
hôi đài diệc dĩ.
Không lưu vô ích vạn
thiên ngôn,
Hậu thế ngu
tăng đồ quát nhĩ.
Ngô văn Thế Tôn tại Linh
Sơn,
Thuyết pháp độ
nhân như hằng hà sa số.
Nhân liễu thử tâm nhân
tự độ,
Linh Sơn chỉ
tại nhữ tâm đầu.
Minh kính diệc phi đài,
Bồ-đề bản
vô thụ.
Ngã độc Kim
cương thiên biến linh,
Kỳ trung áo chỉ đa bất
minh
Cập đáo phân kinh thạch đài hạ,
Chung tri vô tự thị chân
kinh.
Dịch thơ:
Đài
đá
phân
kinh
của thái
tử Lương
Chiêu Minh
Nơi thái tử Chiêu
Minh phân kinh,
Đài đá còn ghi chữ “phân kinh”.
Hoa dại trong
mưa phủ nền hoang,
Trăm cây sợ lạnh mà chết khô.
Không thấy kinh xưa ở đâu cả?
Chỉ nghe huyền thoại thái
tử Lương.
Thiếu thời thái
tử thích văn chương,
Miễn cưỡng giải
kinh cho lộn xộn.
Phật vốn là không chẳng vướng vật,
Còn có kinh gì để phân chia?
Văn thiêng không ở nơi ngôn
ngữ,
Đâu là Kim
cương, là
Pháp hoa?
Cảnh giới sắc
không mà chưa ngộ,
Tâm mê theo Phật Phật thành
ma.
Một nhà cha con đều
mù cả,
Ở trong một niệm ma
tự đến.
Trong núi hoa
sen không thể mọc,
Một sớm ngựa trắng vượt
sông dài.
Rừng Sở cháy thiêu cá dưới ao,
Kinh đốt ra tro đài cũng sập.
Còn giữ làm chi muôn vạn lời,
Ngu tăng đời
sau tụng lải nhải.
Ta nghe Thế Tôn ở Linh
Sơn,
Nói pháp độ người vô
số kể.
Ai rõ tâm này thì tự độ,
Linh Sơn ngay
tại nơi tâm mình.
Gương sáng không
có đài,
Bồ-đề vốn
không cây.
Ta đọc Kim
cương cả ngàn lần,
Trong chỗ uyên áo vẫn
chưa hiểu.
Nay đến dưới đài đá phân kinh,
Mới biết chân kinh là
vô tự.
Huỳnh Kim Quang dịch
Bài thơ ít
nhất
có ba câu cần được làm rõ về chữ nghĩa cũng như ý
nghĩa. Đó là ba câu:
白
馬
朝
渡
長
江
水
楚
林
禍
木
池
殃
魚
經
卷
燒
灰
臺
亦
圯.
Bạch mã triêu độ Trường Giang thủy
Sở lâm họa mộc trì ương ngư
Kinh quyển thiêu hôi đài diệc dĩ.
Câu thứ nhất, hai chữ “Trường Giang”
nếu viết hoa là chỉ cho sông Trường Giang,
đây là một địa danh. Vì vậy nếu dịch “Trường Giang” thành “sông dài” e chưa hợp
lý. Thứ hai, cả hai câu thơ “Bạch mã triêu độ Trường Giang thủy/ Sở lâm họa mộc
trì ương ngư” cùng liên quan đến một điển tích. Theo chú giải của trang
thivien.net thì đây là điển tích Hầu Cảnh người Đông Ngụy hàng Lương, sau
phản Lương, cỡi ngựa trắng vượt
sông Trường Giang đánh Lương
Vũ Đế. Lúc Hầu Cảnh hàng Lương, nước Đông
Ngụy gửi cho Lương tờ hịch có hai câu: “Sợ nước Sở mất vượn họa lây đến cây
rừng, cửa thành cháy vạ lây đến cá dưới ao”. Có thể thấy “Sở lâm họa mộc trì
ương ngư” thật là một câu thơ rất khó dịch để vừa xuôi vần vừa rõ nghĩa.
Câu thứ ba, với cái biết còn hạn hẹp của chúng tôi, chữ
圯
trong câu
經
卷
燒
灰
臺
亦
圯
được phiên âm là “dĩ” e là một sai lầm. Theo từ điển chữ Hán, chữ
圯
chỉ có một âm là “di”, và nghĩa là cây cầu. Nếu đọc
圯
là “dĩ” thì chỉ có trong chữ Nôm, trong khi đây là một bài thơ chữ Hán của một
tập thơ được viết hoàn toàn bằng chữ Hán.
經
卷
燒
灰
臺
亦
圯
dịch là “Kinh đốt ra tro đài cũng sập”, vậy thì phải chăng thay vì chữ
圯thì
chữ “bĩ” (bộ Thổ và bộ Kỷ)
mới là một chữ đúng, vì chữ “bĩ” trong chữ Hán mới có nghĩa là đổ nát, hủy hoại.
(“Đài cơ tuy tại dĩ khuynh bĩ”
- Đồng Tước đài, Nguyễn Du).
2.
Hình thức nghệ thuật và nội dung tư tưởng của Phân kinh Thạch đài
Về hình thức, Phân kinh
Thạch
đài
được làm theo lối cổ phong, một thể thơ có trước thơ Đường luật. Trong Bắc
hành tạp lục có nhiều bài được viết theo thể thơ này như Phản chiêu hồn,
Sở kiến hành, Long Thành cầm giả ca… Thơ cổ phong khá tự do mà
không bị hạn chế bởi nhiều quy tắc như thơ Đường luật, do đó tác giả dễ dàng bộc
lộ cảm xúc và tư tưởng của mình hơn.
Bài thơ được mở đầu với một không gian đầy hoài niệm:
Nơi thái tử Chiêu
Minh phân kinh,
Đài đá còn ghi chữ “phân kinh”.
Hoa dại trong
mưa phủ nền hoang,
Trăm cây sợ lạnh mà chết khô.
Không thấy kinh xưa ở đâu cả?
Đài đá phân kinh là chỉ cho nơi ngày
trước thái tử Lương Chiêu Minh con vua Lương Vũ Đế đã phân chia kinh Kim
cương
ra thành ba mươi hai phần. Đọc những câu thơ này, chúng ta dễ mường tượng đến
Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu, hay thậm chí Đăng U Châu đài ca của Trần
Tử Ngang:
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du.
(Hoàng Hạc lâu)
Tiền bất kiến cổ nhân
Hậu bất kiến lai giả
Niệm thiên địa chi du du
Độc thương nhiên nhi lệ hạ.
(Đăng U Châu đài ca)
Tất cả những câu thơ trên đều có chung
một trường liên tưởng từ hiện tại về quá khứ như ở Phân kinh Thạch đài,
từ quá khứ đến hiện tại, đến tương lai như Hoàng Hạc lâu và Đăng U
Châu đài ca. Thời gian vô cùng, không gian vô tận. Cảm thức vô thường cũng
bộc lộ rất rõ. Tuy nhiên, Phân kinh Thạch đài không phải là một bài thơ
đơn thuần nhằm thỏa mãn thú vui nghệ thuật. Cao hơn, nó là nơi nhà thơ bày tỏ
những tri kiến của mình về Phật pháp.
Về tư tưởng, Phân kinh Thạch đài
xoay quanh yếu chỉ của Thiền tông: “Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự,
trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”. Đồng thời, xiển dương giáo nghĩa
Không của kinh Kim cương.
Chỉ nghe huyền thoại thái
tử Lương.
Thiếu thời thái
tử thích văn chương,
Miễn cưỡng giải
kinh cho lộn xộn.
Phật vốn là không chẳng vướng vật,
Còn có kinh gì để phân chia?
Văn thiêng không ở nơi ngôn
ngữ,
Đâu là Kim
cương,
là Pháp
hoa?
Nguyễn Du thẳng thắn phê bình việc phân
chia kinh điển của thái tử Lương Chiêu Minh là “Miễn cưỡng giải kinh cho lộn
xộn”. Ông đứng trên lập trường Không để phản đối:
Phật vốn là không chẳng vướng vật,
Còn có kinh gì để phân chia?
“Không” không có nghĩa là không có gì, mà
nghĩa là vạn pháp không có tự tánh, không có thực thể, vì vạn pháp là do duyên sinh.
Cái này có vì cái kia có, cái này không vì cái kia không; cái này sinh
vì cái kia sinh,
cái này diệt vì cái kia diệt. Đó là nội dung để thâm nhập tính Không của vạn
hữu. Qua đó nhà thơ chỉ ra rằng chia kinh là một việc vô ích, do không có trí
tuệ thấy biết như thật, chấp nơi hình tướng và văn tự. Tôn chỉ “bất lập văn tự”
của Thiền tông được thể hiện rất rõ trong câu thơ “Văn thiêng không ở nơi ngôn
ngữ”. Vì không ở nơi ngôn ngữ nên Kim
cương,
Pháp hoa
cũng chỉ là những cái tên gọi mà không nên chấp đó là chân lý.
Cảnh giới sắc không mà chưa ngộ,
Tâm mê theo Phật Phật thành ma.
Một nhà cha con đều mù cả,
Ở trong một niệm ma tự đến.
“Cảnh giới sắc không mà chưa ngộ” nhắc chúng ta nhớ đến Tâm kinh Bát-nhã:
“Sắc tức thị không, không tức thị sắc”. Ngộ được cảnh giới sắc không là
qua hết mọi khổ ách như ngài Quán Tự Tại. Khi sắc không chưa ngộ thì “Tâm mê
theo Phật Phật thành ma”. Câu này có khẩu khí như câu “Gặp Phật giết Phật, gặp
Tổ giết Tổ” của Tổ sư thiền. Ý nói nếu vọng tưởng chấp trước thì Phật cũng chỉ
là một khái niệm mà thôi. Phật là khả năng tỉnh thức ở mỗi người. Cho nên mọi
pháp môn của Phật đều nhằm hướng hành giả quay vào bên trong để phát huy năng
lực tỉnh thức ấy. Xưa kia Trần Thái Tông Trần Cảnh bất mãn bỏ vương triều vào
núi tu, quốc sư Phù Vân bảo:
“Trong núi vốn không có Phật, Phật
ở trong tâm ta, nếu tâm lắng lặng thì trí tuệ xuất hiện, đó chính là Phật, không
cần đi tìm cực khổ bên ngoài”.
Không phải ngẫu nhiên mà công án “Vô” được Tổ sư Huệ Khai đặt ở vị trí đầu tiên
trong bốn mươi tám công án của tập Vô môn quan. Và công án này cũng được
Tổ bình khá dài so với những công án khác:
“Để ngộ
thiền ta phải vượt qua rào cản của chư Tổ. Giác ngộ luôn đến sau khi lối suy
nghĩ bị chắn.
Nếu ngươi không vượt qua rào cản của chư Tổ, hoặc lối suy nghĩ không bị chắn,
thì bất cứ điều gì ngươi nghĩ, điều gì ngươi làm đều giống như bóng ma vướng
mắc. Ngươi có thể hỏi: Rào cản của Tổ là gì? Một chữ thôi, KHÔNG, là nó.
Đó là rào cản của Thiền. Nếu ngươi vượt qua được, ngươi có thể diện kiến Triệu
Châu. Ngươi có thể tay nắm tay cùng với chư Tổ. Có thú vị không?
Nếu ngươi muốn vượt qua rào cản này, ngươi phải vận dụng tất cả xương cốt trong
thân ngươi, tất cả lỗ chân lông của da ngươi, ngẫm nghĩ câu hỏi này: KHÔNG là
cái gì? Và mang nó theo ngày và đêm. Chớ nên cho nó là biểu tượng tiêu
cực thông thường có nghĩa là không có gì. Nó không phải là trống không, đối lại
với hiện hữu. Nếu ngươi thực muốn vượt qua rào cản này, ngươi phải có cảm
giác như ngậm một viên sắt nóng mà ngươi không thể nuốt vào hay khạc ra.
Rồi sự thiển cận trước kia của ngươi biến mất. Và như trái cây chín mùa, cái
nhìn chủ quan và khách quan của ngươi trở thành một. Nó như kẻ câm nằm mộng, hắn
biết đấy nhưng không thể nói ra được.
Khi thiền sinh vào được trạng thái này thì cái vỏ tự-ngã của y bị đập vỡ và y có
thể lay trời và dời đất được. Y sẽ như là một chiến sĩ vô địch với lưỡi gươm
bén. Nếu Phật đứng chắn lối, y sẽ chém nhào; nếu tổ gây trở ngại, y sẽ giết
ngay; và y sẽ được tự do ra vào cõi sinh tử. Y có thể nhập bất cứ cảnh giới nào
cứ như là vào sân chơi nhà mình. Ta sẽ nói cho ngươi biết cách làm được như thế
với công án này:
Hãy tập trung tất cả năng lực của ngươi vào chữ KHÔNG này, và không bao giờ
ngưng nghỉ. Khi ngươi vào được KHÔNG này và chẳng hề ngưng nghỉ, sự liễu ngộ của
ngươi sẽ như ngọn đèn cháy và chiếu sáng toàn thể vũ trụ.
Con chó có Phật tánh không?
Đây là câu hỏi nghiêm trọng nhất
Nếu ngươi nói Có hay Không
Ngươi đánh mất Phật tánh của chính ngươi.
(Vô môn quan)
Công án “Vô” là một trong những cách hướng dẫn hành giả thể nhập tính Không
của vạn pháp thông qua nỗ lực thực hành chứ không phải lặp lại lý thuyết suông.
Khi Nguyễn Du nói “Tâm mê theo Phật Phật thành ma” chính là chỉ cái tâm hướng ra
bên ngoài, xem Phật là một đối tượng tìm cầu mà không chịu quay về với ông Phật
bên trong là khả năng tỉnh thức xưa nay ai cũng có. Lục Tổ Huệ Năng dạy:
Mê thì Phật là chúng sanh
Ngộ thì chúng sanh là Phật
Ngu si, Phật là chúng sanh
Trí tuệ, chúng sanh là Phật
Hiểm hóc, Phật là chúng sanh
Bình đẳng, chúng sanh là Phật
Một niệm hiểm hóc phát sanh
Thì Phật khuất trong chúng sanh
Một niệm bình được ngô ngã
Thì chúng sanh tức là Phật
Tâm ta tự có Đức Phật
Phật ấy là Đức Phật thật
Tự ta không có tâm Phật
Thì tìm Phật ở chỗ nào?
(Kinh Pháp bảo đàn)
Kinh Pháp hoa có ví dụ người nghèo có châu báu mà cứ lang thang đi kiếm
ăn, lại cũng có ví dụ người cùng tử vốn dĩ rất giàu có mà không hề tự biết. “Ở
đời vui đạo hãy tùy duyên/ Đói đến thì ăn mệt ngủ liền. Trong nhà có báu thôi
tìm kiếm/ Đối cảnh vô tâm chớ hỏi Thiền” (Trần Nhân Tông). Chính vì vậy mà
Ni sư Diệu Nhân dạy “Thiền, Phật bất cầu”. Cũng chính từ đây Nguyễn Du viết:
Một nhà cha con đều mù cả
Ở trong một niệm ma tự đến.
Nguyễn Du trực diện và quyết liệt phê phán cả Lương Vũ Đế lẫn Lương thái tử,
không quan tâm đến địa vị hoàng tộc của họ, thật đúng như trong kinh Kim
cương dạy: “Thị pháp bình đẳng, vô hữu cao hạ, thị danh A-nậu-đa-la
Tam-miệu Tam-bồ-đề”. Ở đây nhà thơ nhắc đến tích vua Lương Vũ Đế hỏi Tổ Bồ
Đề Đạt Ma: “Trẫm từ khi lên ngôi đến nay, xây chùa, độ Tăng, chép kinh không
biết bao nhiêu mà kể, vậy có công đức gì không?”, Tổ đáp: “Không có công
đức gì cả”. Tương truyền sau cuộc nói chuyện này thì Tổ đến Thiếu Lâm chín
năm quay lưng vào vách không nói gì, vì biết huyền cơ chưa truyền cho ai được.
Còn Lương Vũ Đế thì cho thấy còn đang bị kẹt vào tướng. Mà Đức Phật dạy: “Nhược
Bồ-tát tâm trụ ư pháp nhi hành bố thí, như nhơn nhập ám, tức vô sở kiến”
(kinh Kim cương). Đây là lý do Nguyễn Du nhận xét cả Lương Vũ Đế và thái
tử Chiêu Minh đều mù. Cả hai cha con đều chưa thoát khỏi sự phân biệt, chấp
trước, nhị nguyên đối đãi của thế giới hiện tượng. Ở trong một niệm ma tự đến
cũng là nói yếu chỉ của Thiền: không khởi niệm.
Khởi niệm tức là vọng tưởng, tức là ma.
Trong núi hoa sen không thể mọc
Một sớm ngựa trắng vượt sông dài.
Như đã giải thích ở mục 1, Bạch mã triêu độ Trường Giang thủy là câu thơ
liên quan đến câu chuyện Hầu Cảnh hàng Lương sau phản Lương, cưỡi ngựa trắng
vượt Trường Giang đánh Lương Vũ Đế. Tương truyền vua Lương Vũ Đế cuối đời bị đói
mà chết. Trong núi hoa sen không thể mọc phải chăng muốn dụ cho Hầu Cảnh
không có lòng trung thành, trước phản bội Đông Ngụy, sau phản bội Lương. Thơ chữ
Hán của Nguyễn Du có rất nhiều ẩn ngữ mà đôi khi các nhà nghiên cứu cũng phải bó
tay. Độc Tiểu Thanh ký là một bài như thế:
Tây hồ hoa uyển tận thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư
Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư
Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tự cư
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Có thể nói đây là một trong những tuyệt tác thơ chữ Hán của Nguyễn Du mà đến nay
vẫn còn để lại cho hậu thế nhiều câu hỏi. Nỗi hận cổ kim là gì? Tại sao tác giả
lại có “phong vận kỳ oan”? Con số ba trăm năm lẻ nói về khoảng thời gian nào?
Người ta chỉ có thể đọc, chiêm nghiệm, cảm nhận được vẻ đẹp bí ẩn của nó mà
không giải thích được. Bí ẩn, đôi khi cũng làm nên sức hấp dẫn của một tác phẩm
nghệ thuật, ví dụ như nụ cười của nàng Mona Lisa.
Hai câu thơ tiếp theo giúp người đọc quán chiếu về vô thường:
Rừng Sở cháy thiêu cá dưới ao
Kinh đốt ra tro đài cũng sập.
Toàn bộ phần còn lại của bài thơ là quan điểm của tác giả về đạo. Không chấp
tướng, không chấp văn tự, quay về với tự tánh:
Còn giữ làm chi muôn vạn lời,
Ngu tăng đời
sau tụng lải nhải.
Ta nghe Thế Tôn ở Linh
Sơn,
Nói pháp độ người vô
số kể.
Ai rõ tâm này thì tự độ,
Linh Sơn ngay
tại nơi tâm mình.
Gương sáng không
có đài,
Bồ-đề vốn
không cây.
Ta đọc Kim
cương cả ngàn lần,
Trong chỗ uyên áo vẫn
chưa hiểu.
Nay đến dưới đài đá phân kinh,
Mới biết chân kinh là
vô tự.
Theo thầy Thích Đức Thắng trong bài Nguyễn Du và
Phân kinh Thạch đài, kinh Kim cương là một kinh không dễ đọc. Không
ai đọc kinh Kim cương cả ngàn lần như tác giả chỉ để chơi hay để nghiên
cứu. Thọ trì Kim cương ngàn lần như vậy hẳn phải là một hành giả Thiền
tông. Dễ dàng thấy được đoạn thơ trên cũng như toàn bộ bài thơ mang khẩu khí của
Thiền, từ chỗ gọi những người tụng kinh mà không chịu hiểu, không chịu tu theo
kinh chẳng qua là bọn “ngu Tăng”, cho đến nhắc đến bài kệ nổi tiếng của Tổ Huệ
Năng:
Bồ-đề bổn vô thọ
Minh kính diệc phi đài
Bổn lai vô nhất vật
Hà xứ nhạ trần ai?
Tổ Huệ Năng nghe kinh Kim cương mà khai ngộ,
làm bài kệ trên, rồi cũng được Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn giảng kinh Kim cương đến
câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” mà “đại ngộ hết thảy vạn pháp không rời tự
tánh” (kinh Pháp bảo đàn). Một điều đặc biệt là Tổ Huệ Năng không biết
chữ. Nên giác ngộ không liên quan gì đến chữ nghĩa, chữ nghĩa chỉ là phương
tiện. Đức Thế Tôn từng dạy bốn mươi lăm năm thuyết pháp Ngài không hề nói một
lời, chính là để phá chấp cho chúng sanh không kẹt vào lời nói, chữ nghĩa, văn
tự. Theo lời cổ nhân, đọc một cuốn sách ngàn lần thì có thể hiểu được ý nghĩa
của nó. Một người đã đọc kinh Kim cương ngàn lần như Nguyễn Du vẫn khiêm
tốn tự nhận: “Kỳ trung áo chỉ đa bất minh”. Để rồi cuối cùng tiên sinh quay về
đúng với ý chỉ của Bậc Đạo sư: “Chung tri vô tự thị chân kinh”. Cuối cùng biết
bài kinh chân thật là không có chữ. Hẳn độc giả vẫn không quên trong phim Tây
du ký, Đường Tăng thỉnh được chân kinh trở về, qua sông làm rớt, khi phơi
kinh mới phát hiện ra toàn bộ số kinh thỉnh được là giấy trắng. Đó là một chi
tiết thú vị có thể liên tưởng đến câu “Chung tri vô tự thị chân kinh” của Nguyễn
Du.
Như vậy, có thể nói nội dung tư tưởng của bài
Phân kinh Thạch đài chính là tư tưởng của Thiền tông. Tông chỉ: “Giáo ngoại
biệt truyền, bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật” đã được
tác giả diễn xướng một cách rốt ráo. Đồng thời, để hiểu được bài thơ, người đọc
cần có kiến thức nhất định về những giáo lý căn bản của Phật giáo, đặc biệt là
tánh Không. Đức Phật giảng tánh Không nhiều người hiểu lầm cho rằng Đức Phật chủ
trương thuyết hư vô, đoạn diệt. Tánh Không trong Phật giáo được giải thích trên
lập trường duyên khởi. Các pháp nương vào nhau mà biểu hiện, do nhân duyên sinh
khởi, do nhân duyên hoại diệt, không có tự tánh, không có thực thể, nên gọi là
Không. Không nên ngộ nhận Không là không có gì, không hiện hữu để rồi đi đến phủ
nhận nhân quả, rơi vào tà kiến. Hơn hết, như tất cả các giáo lý khác, tánh Không
là một phương pháp để hành trì, không phải để hý luận.
3.
Kết luận
Sách chép lại rằng khi lâm chung, Nguyễn Du hỏi
lạnh tới đâu rồi, người nhà bảo, tay chân lạnh cả rồi, thi hào chỉ đáp: “Tốt”.
Rồi đi. Một sự từ giã có thể nói là khá an nhiên và tự tại. Phân kinh Thạch
đài không chỉ là một tác phẩm thú vị và độc đáo mà còn là một phần tư liệu
hiếm hoi tiết lộ về hành trạng của nhà thơ lúc sinh thời. Ông đã thực chứng đến
đâu, thật khó mà quả quyết. Và người viết cũng không dám tự cho đã hiểu đúng và
đủ về tác phẩm này. Chỉ có thể nói rằng, bài thơ Phân kinh Thạch đài đã
hợp nhất giữa văn chương và đạo lý của một truyền thống tôn giáo xưa nay tồn tại
cùng với sự tồn tại của dân tộc. Bài tựa Kiều năm 1820, Tiên phong Mộng
Liên Đường chủ nhân viết: “Tố
Như tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu
không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời thì
tài nào có cái bút lực ấy?”.
Cùng với Truyện Kiều, Phân kinh Thạch đài hoàn toàn xứng đáng để
minh chứng cho nhận định ấy. Ngòi bút phàm phu của chúng tôi xin phép mượn câu
cuối của Truyện Kiều để khép lại bài viết này: “Lời quê chắp nhặt dông
dài/ Mua vui cũng được một vài trống canh”.
Chơn Định