Kệ Thị tịch của Thiền sư Viên Chiếu
thi ke
Kệ
Thị tịch của Thiền sư Viên Chiếu
Mùa thu
đã đến trong bước chân lặng lẽ của thời gian, và theo quy luật muôn thuở của vô
thường. Mùa thu với trăng trong và mây bạc, với lá vàng và những hạt mưa phùn lất
phất bay. Không phải tự nhiên mùa thu được xem là mùa đẹp nhất. Albert Camus từng
ví mùa thu là mùa xuân thứ hai khi mỗi chiếc lá trở thành một đóa hoa. Nhưng mùa
xuân vạn vật nảy nở, còn mùa thu là lúc sự sống thiên nhiên ngưng đọng, như
trong bức vẽ của Basho:
Cành khô
Con quạ đậu
Chiều thu.
Một năm có xuân - hạ - thu - đông, một đời có
sinh - lão - bệnh - tử. Mùa thu dễ khiến cho con người lắng đọng tâm tư mà tự hỏi
mình đang ở đâu trên chặng đường đời. Rồi sớm mai nào tỉnh dậy, nhìn trong
gương thấy màu tóc đã phai, màu môi đã nhạt, rưng rưng nhớ lời người xưa, rằng:
Thân như
tường bích dĩ đồi thì
Cử thế thông thông thục bất bi
Nhược đạt tâm không vô sắc tướng
Sắc không ẩn hiện nhậm suy di.
(Kệ Thị
tịch, Thiền sư Viên Chiếu)
Dịch nghĩa:
Thân người như tường vách đến lúc đổ nát
Người đời ai cũng vội vã lo buồn
Nếu biết tâm không, sắc tướng cũng là không
Thì sắc không ẩn hiện mặc nó dời đổi.
Dịch
thơ:
Thân như tường vách đổ
xiêu rồi
Thiên hạ bồn chồn xót dạ
thôi
Nếu rõ tâm không, không
tướng sắc
Sắc không ẩn hiện mặc
xoay dời.
(Lê
Mạnh Thát dịch)
Bài kệ này được lưu truyền với cái tên “Tâm
không”, nhưng thực ra kệ không có tên. Kệ là pháp ngữ. Những bậc tu hành chứng
đắc trước khi tịch thường để lại kệ cho đàn hậu học. Ví dụ như kệ thị tịch của Thiền
sư Vạn Hạnh với “Thân như điện ảnh hữu hoàn vô”, Thiền sư Mãn Giác với “Đình tiền
tạc dạ nhất chi mai”, Ni sư Diệu Nhân với “Thiền, Phật bất cầu, Uổng khẩu vô
ngôn”… Không phải vị thiền sư đắc đạo nào trước khi tịch cũng để lại kệ, nhưng
khi đã có kệ thì bài kệ đó cho thấy cảnh giới chứng đắc của vị thiền sư.
Cái
tên “Tâm không” được đặt cho bài kệ này có lẽ cũng đã nói lên tư tưởng cốt lõi
của bài kệ. “Không” xưa nay vốn là một phạm trù xuyên suốt và chính yếu của Phật
giáo Phát triển, đặc biệt trong hệ thống kinh Bát-nhã. Đó cũng là một trong ba cánh cửa giải thoát (Tam giải
thoát môn: Không, Vô tướng, Vô tác). Theo bài kinh Độ người hấp hối mà ở đó Tôn giả Xá Lợi Phất hộ niệm cho cư sĩ Cấp
Cô Độc, phép quán Không được coi là một trong những phép quán cao siêu vào bậc
nhất. Tuy nhiên trước khi bàn đến Không, thì bài kệ đề cập đến vô thường và khổ.
Vô
thường ở trong câu kệ thứ nhất:
Thân như tường bích dĩ
đồi thì
Ta
thấy câu kệ này tương đồng với câu kệ của Thiền sư Vạn Hạnh:
Thân như điện ảnh hữu
hoàn vô
Thiền
sư Vạn Hạnh ví thân như ánh chớp, còn ngài Viên Chiếu so sánh thân như vách tường
đã đến hồi lung lay. Đó đều là những ví dụ để nói lên quy luật vô thường. Vô
thường nghĩa là không có gì tồn tại mãi mãi, như kinh Kim cương dạy:
Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng, huyễn, bào, ảnh
Như lộ, diệc như điện
Ưng tác như thị quán.
Vô
thường là một sự thật, một chân lý, nó không bi quan cũng không lạc quan, không
vui mà không khổ. Vô thường không phải để bình luận mà là một chìa khóa mở cửa
thực tại để đi đến giải thoát. Nếu thực chứng được vô thường thì không còn phiền
não khổ đau. Khổ là vì sự vật vô thường mà tâm lý con người lại muốn thường
còn. Muốn mà không được cho nên khổ.
Khổ
được Thiền sư Viên Chiếu nói đến trong câu kệ thứ hai:
Cử thế thông thông thục
bất bi
Vì
muốn thân này thường còn mà không được cho nên vội vã lo buồn. Đó là tâm lý
tham sống sợ chết của chúng sinh. Tất cả bắt nguồn từ ái, thủ và hữu: “Vì có
tham ái mà có vướng mắc, vì có vướng mắc mà có hiện hữu, rồi sinh tử, khổ não
và ưu sầu không thể kể xiết” (kinh Độ người
hấp hối). Cho nên trong Nikāya Đức Phật không tán thán hiện hữu: “Ví như, này các Tỷ-kheo, một ít
phân có mùi hôi thối. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Ta không tán thán về hiện hữu
dầu cho có ít thôi, cho đến chỉ trong thời gian búng ngón tay” (Tăng chi bộ, chương Hai pháp, XVIII, phẩm
Makkhali).
Thiền
sư Viên Chiếu đã trực nhận được Vô thường, Khổ và ngài huấn dụ cho đệ tử làm
sao để thoát khỏi vòng cương tỏa của khổ:
Nhược đạt tâm không vô
sắc tướng
Sắc không ẩn hiện nhậm
suy di.
Theo
lời dạy của thiền sư, để ung dung tự tại trước sinh tử thì phải thực chứng được
tánh Không. Đây là yếu chỉ của bài kệ và cũng là sự chứng đắc mà bản thân thiền
sư đã đạt được.
Sách Thiền uyển tập anh chép:
“Tháng 9 năm Quảng Hựu thứ sáu (1090) đời Lý Nhân Tông, Sư
không bệnh gọi môn đồ vào dạy:
-
Trong thân ta đây, xương lóng gân mạch, bốn đại hòa hợp, ắt phải vô thường. Ví
như ngôi nhà khi hoại, nóc mái, xà ngang đều rơi rớt. Tạm biệt các ngươi, hãy
nghe ta nói kệ:
Thân như tường bích dĩ đồi thì
Cử thế thông thông thục bất bi.
Nhược đạt tâm không vô sắc tướng
Sắc không ẩn hiển nhậm suy di.
Nói
kệ xong, Sư ngồi ngay thẳng an nhiên thị tịch, thọ 92 tuổi, 56 tuổi hạ”.
Sự
kiện cho thấy ngài đã tự tại với sinh tử. Con đường ngài dẫn lối đó là “đạt tâm
không vô sắc tướng”. Thế nào là tâm không vô sắc tướng?
Nói đến Không là nói đến Tâm kinh Bát-nhã 260 chữ với hàng loạt những phủ định: “Thị chư
pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị
cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức, vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt,
thân, ý, vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp…”. Cũng là nói đến kinh Kim cương với sức công phá khốc liệt làm
nổ tung hai ngọn núi kiến chấp: ngã chấp và pháp chấp của chúng sanh. Đức Phật
nói kinh Kim cương cho ngài Tu Bồ Đề
nghe, mà trong thập đại đệ tử, ngài Tu Bồ Đề là vị “giải Không đệ nhất”. Bồ-tát
Long Thọ (Nagarjuna) viết Trung quán luận để giải thích về Không
trên lập trường duyên khởi:
Không sinh cũng không diệt
Không thường cũng không đoạn
Không một cũng không khác
Không đến cũng không đi
Tuyên thuyết pháp nhân duyên
Dập tắt mọi hý luận
Con cúi đầu lạy Phật
Bậc Đạo sư tuyệt vời.
(Kệ tán
Phật - Trung quán luận)
Duyên khởi chính là chìa khóa thâm nhập tánh
Không. “Không” của Phật giáo không phải là không ngơ, không có gì, không hiện
hữu (đối lập với có), mà chỉ có nghĩa là không có tự tánh vì các pháp là do
duyên sanh, nương vào nhau mà có mặt. Giải thích như vậy nhưng để thấy được lý Duyên
khởi cần phải thực tu thực chứng.
Là một trong ba cánh cửa giải thoát, Không
trong Tam giải thoát môn cũng được định nghĩa là vạn pháp không có thực thể. Ví
như cái làm ra con người là thân ngũ uẩn, gồm sắc, thọ, tưởng, hành, thức;
trong đó sắc không được gọi là người, thọ, tưởng, hành, thức cũng không được
gọi là người, hợp năm yếu tố lại mới hình thành cái được gán cho khái niệm con
người; trong năm uẩn, sắc thân lại gồm tứ đại, đất, nước, gió, lửa; mỗi đại
không được gọi là sắc thân, hợp bốn đại mới làm nên cái gọi là sắc thân. Vậy
nên Bát-nhã Tâm kinh nói: “Tướng của
các pháp là không”, bởi vì nương vào nhau mà hiện hữu, không có tự tánh, không
có thực thể. Từ đây mà Bát-nhã Tâm kinh
đi đến những điệp khúc phủ định: bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất
tăng, bất giảm; trong tánh Không của các pháp không có gì được gọi là sắc, thọ,
tưởng, hành, thức… cho đến không có trí, cũng không có sở đắc… Tất cả đều hàm ý
phơi bày thực tướng của vạn pháp là do nơi nhân duyên mà sinh khởi, cũng do nơi
nhân duyên mà hoại diệt.
Đức Phật là vị đại lương y tùy bệnh cho thuốc.
Tánh Không là thuốc để chữa bệnh chấp trước. Do chấp trước nên chúng sanh đau
khổ. Đức Phật nói tánh Không là để phá chấp mà giải trừ đau khổ cho chúng sanh.
Khi đã giải thoát rồi thì phải buông bỏ đừng kẹt vào đó. Vì vậy chư Tổ dạy, thà
chấp Có như núi Tu-di còn hơn chấp Không bằng hạt cải; cũng nói, chấp có thì
lấy Không mà chữa, còn chấp Không thì hết thuốc chữa. Từ đó ta thấy hiểu được
tánh Không là một việc không dễ dàng, không đơn giản, cần đến một trí tuệ siêu
việt. Nếu hiểu lầm tánh Không là không có gì, từ đó đi đến phủ nhận nhân quả,
thiện ác, nghiệp báo… thì sẽ vô cùng nguy hiểm. Trong kinh Kim cương Đức Phật đã dạy: “Pháp ta dạy được ví như chiếc bè, pháp
mà còn phải buông bỏ, huống là không phải pháp”. (“Nhữ đẳng Tỳ-kheo, tri ngã
thuyết pháp, như phiệt dụ giả, pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp”).
Trong Tạp
A-hàm, kinh số 335, Đức Phật đã giảng dạy trực tiếp và cặn kẽ nghĩa lý siêu
việt về Không như sau: “Này các thầy, thế nào gọi là nghĩa
lý siêu việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi
hoại diệt, nó không đi về đâu cả. Như vậy con mắt phát sanh không phải như một
thực thể chắc thật, và khi đã phát sanh thì phải hoại diệt sau đó. Có nghiệp,
có báo mà không có tác giả. Uẩn này diệt thì nhường chỗ cho uẩn khác tiếp tục,
nhìn kỹ thì các pháp chỉ là những cái giả danh mà thôi. Ðối với tai, mũi, lưỡi,
thân và ý, sự thật cũng như thế. Chúng không phải là những thực tại chắc thật
mà chỉ là những giả danh.
Thế nào là giả danh? Giả danh nghĩa là vì cái này có nên cái kia
có, vì cái này sanh nên cái kia sanh. Như vô minh mà có hành, do hành mà có
thức, v.v., cho đến khi cả khối khổ đau phát hiện. Giả danh cũng có nghĩa là vì
cái này không nên cái kia không, vì cái này diệt nên cái kia diệt. Như do vô
minh diệt mà hành diệt, do hành diệt mà thức diệt, v.v., cho đến khi cả khối
khổ đau hoại diệt.
Này các thầy, đó gọi là nghĩa lý siêu việt về Không”.
Như vậy, “tâm không” mà Thiền sư Viên Chiếu dạy đệ tử phải đạt đến
chính là trí tuệ nhận ra được vạn pháp do nhân duyên. Từ chỗ đó mà không còn
vướng mắc vào giả danh. “Vô sắc tướng” nghĩa là nhận ra được tướng Không của vạn
pháp như trong Bát-nhã Tâm kinh nói:
“Thị chư pháp không tướng”. Cũng là nghĩa trong kinh Kim cương dạy: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, nhược kiến chư
tướng phi tướng, tức kiến Như Lai”. Nếu thấy có tướng thì đó chỉ là giả tướng.
Nếu thấy các tướng là không tướng, tức thấy Như Lai. Thiền sư Viên Chiếu đã
nhận ra được tướng Không của các pháp. Chính ở chỗ này mà có thể khẳng định
Ngài đã “kiến tánh thành Phật” rồi vậy.
Vạn pháp đều là giả danh,
giả tướng, vì vậy trong kinh Kim cương
có những câu làm người ta phải vỡ mộng như: “Trang nghiêm Phật độ giả, tức phi
trang nghiêm, thị danh trang nghiêm”, hay “Phàm phu giả, Như Lai thuyết tức phi
phàm phu, thị danh phàm phu”. Dưới con mắt của người trí, trang nghiêm Phật độ hay
không trang nghiêm Phật độ đều là giả tướng, và phàm phu hay không phàm phu đều
là giả danh. Thoát khỏi cái bẫy phân biệt của nhận thức thông thường, chúng ta
có thể đem tâm trở về trạng thái bình thản. Ung dung, tự tại như là Thiền sư
Viên Chiếu đã dạy: “Sắc không ẩn hiện nhậm suy di”. Đã thấy rằng sắc là không,
do nhân duyên mà biểu hiện và cũng do nhân duyên mà ẩn tàng, thì làm gì có
sinh, có diệt để mà sợ hãi. Như một con sóng trên mặt đại dương khi chưa nhận
ra được rằng bản thể nó là nước, thì nó có thể so sánh với những con sóng khác,
rằng có cao và thấp, lớn và nhỏ, và có sanh có diệt, nhưng khi đã nhận ra rằng
nó chính là nước, thì mọi mặc cảm đều tan biến, vì nước thì không cao thấp,
không lớn nhỏ, cũng không sanh diệt.
Từ chỗ thấy được thực tướng
của vạn pháp là không tự tánh, Thiền sư Viên Chiếu đã ca khúc khải hoàn trước
sinh tử. Ngài giờ đây thõng tay vào chợ. Thật vậy, tánh Không hay quán Không
đều nhắm vào mục đích chuyển hóa phiền não. Thời Đức Phật còn tại thế, trưởng
giả Cấp Cô Độc lúc lâm chung được ngài Xá Lợi Phất hướng dẫn thực tập quán niệm
về Không rất thành công liền cảm động khóc, nước mắt chan hòa và sau đó ông
được sinh lên cõi trời Tam thập tam thiên. Trí tuệ thực chứng tánh Không cũng
được đồng nhất với Bồ-đề tâm tuyệt đối trong Phật giáo Phát triển.
Nỗi đau lớn nhất của đời
người không gì khác là nỗi đau sinh tử. Chúng sanh sợ chết, nhưng dẫu có sợ thì
chúng sanh cũng cứ phải chết. Một khối đau khổ chồng chất từ năm thủ uẩn cứ thế
đeo bám qua vô lượng kiếp luân hồi. Quán Không là một trong vô lượng pháp môn Đức
Phật dạy để thoát ly sinh tử thông qua con đường chặt đứt mọi hý luận, phân
biệt và chấp trước. Bài kệ Thị tịch
của Thiền sư Viên Chiếu soi rọi cho hành giả một con đường đúng đắn để đạt tới
tự tại trước sinh tử cũng như trước mọi biến động của cuộc đời. So với bài kệ Thị tịch của Thiền sư Vạn Hạnh trước đó
hơn nửa thế kỷ, phương tiện tuy có khác nhưng mục đích vẫn tương đồng:
Thân như điện ảnh hữu
hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu
hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố
úy
Thịnh suy như lộ thảo
đầu phô.
Phương tiện của ngài Vạn Hạnh là vô thường, còn với ngài Viên
Chiếu là Không, tuy nhiên, cả hai vị đều đã đạt tới chỗ vô úy, tự tại trước
sinh tử. Đọc lại bài kệ, ta được thấm nhuần chánh kiến, chánh tư duy. Lại càng
như được động viên, khích lệ bởi tấm gương của người đi trước. Con đường đi đến
giải thoát một lần nữa mở thêm rộng lớn, thênh thang như mây ngàn.
Chơn Định