Tu giải thoát: Bố thí, cúng dường…
tu
Tu
giải thoát: Bố thí, cúng dường…
Phan
Tấn Hải
Bố
thí và cúng dường là một trong những hạnh đầu tiên để làm cho cõi đời này tốt đẹp
hơn, và là những bước đi đầu tiên của Phật tử trên con đường giải thoát. Suốt
cuộc đời Đức Phật, Ngài đã sống bằng phẩm vật cúng dường. Tương tự, sự phát triển
của Phật giáo lan rộng khắp thế giới và được hộ trì cho tới giờ cũng là nhờ phẩm
vật cúng dường của đàn na thí chủ. Do vậy, bài này được viết để mời nhau giữ hạnh
bố thí và cúng dường.
Chữ
“bố thí” thường được chúng ta hiểu theo nghĩa từ thiện, trao tặng để giúp người.
Tuy hai chữ bố thí và cúng dường nguyên gốc là một nghĩa, trong tiếng Phạn là dāna, nhưng chúng ta thường dùng chữ
“cúng dường” cho ý nghĩa dâng lễ vật lên Tam bảo. Trong kinh AN 8.54, Đức Phật dạy rằng, hạnh bố thí
và cúng dường là “một trong bốn pháp để đưa đến hạnh phúc tương lai, an lạc
tương lai cho thiện nam tử. Thế nào là bốn? Ðầy đủ lòng tin, đầy đủ giới đức, đầy
đủ bố thí, đầy đủ trí tuệ”. Gọi tắt là: Tín, Giới, Thí, Tuệ.
Trong
tiếng Anh, hạnh bố thí và cúng dường là “generosity,
charity or giving of alms”. Trong các kinh văn phổ biến tại Việt Nam, chúng
ta thường đọc thấy rằng Bồ-tát hạnh là phải tu Lục độ Ba-la-mật, tức là sáu hạnh
qua bờ bên kia, là: Bố thí Ba-la-mật, Trì giới Ba-la-mật, Nhẫn nhục Ba-la-mật, Tinh
tấn Ba-la-mật, Thiền định Ba-la-mật, Trí tuệ Ba-la-mật. Thường gọi tắt là: Thí,
Giới, Nhẫn, Tấn, Định, Tuệ.
Trong
tạng Pāli, thường ghi rộng hơn, là mười pháp Ba-la-mật: Bố thí (Dāna), Trì giới (Sīla), Xuất gia (Nekkhamma),
Trí tuệ (Pannā), Tinh tấn (Viriya), Nhẫn nại (Khanti), Chân thật (Sacca),
Quyết định (Adhītthāna), Tâm từ (Mettā), và Tâm xả (Upekkhā).
Đối
chiếu với năm giới của Phật tử, có giới “Đừng trộm cắp, đừng lấy những gì của
người khác”, bạn sẽ thấy hạnh bố thí chính là phương diện chủ động của giới
này. Nghĩa là, hãy hoan hỷ, hãy sẵn lòng chia sẻ những gì mình có với người
khác. Trong nghĩa này, bố thí là lòng độ lượng, là tu hạnh dập tắt lòng tham.
Trong các kinh, Đức Phật thường nói rằng hãy bố thí cho khách đi đường, cho người
bệnh, người đói, người nghèo và dâng cúng để hộ trì Tăng, Ni, và ngay cả các ẩn
sĩ dị giáo có giới hạnh. Thái độ Phật tử trong khi bố thí, cúng dường là hãy giữ
tâm cho hoan hỷ, cẩn trọng, tự tay mình chọn, và trao phẩm vật thích hợp. Thí dụ,
gặp người bệnh thì bố thí thuốc chữa bệnh là thích nghi nhất. Tương tự với các
hoàn cảnh khác nhau. Trong tận cùng của hạnh bố thí là chứng nhập pháp ấn vô
ngã, trao tặng vì không thấy có gì là “ta hay cái của ta” nữa. Chặng đường tuy
xa, nhưng tu hoài sẽ tới.
Trong
kinh Pháp cú 223, và 224, Đức Phật dạy
rằng hãy giữ tâm lìa sân, hãy tu thiện pháp, hãy giữ hạnh bố thí để lìa tham,
hãy nói lời chân thật, ngay cả khi bản thân đang sống thiếu thốn, cũng nên bố
thí cho người cần giúp. Sống được như thế, kiếp sau sẽ sinh vào thiên giới. Hai
bài kệ này, do Thầy Minh Châu dịch như sau.
223.
"Lấy không giận thắng giận,
Lấy
thiện thắng không thiện,
Lấy
thí thắng xan tham,
Lấy
chơn thắng hư ngụy".
224.
"Nói thật, không phẫn nộ,
Của
ít, thí người xin,
Nhờ
ba việc lành này,
Người
đến gần thiên giới".
Trong
Tích truyện Pháp cú, bài kệ 224 duyên
khởi là Đức Phật trả lời một câu hỏi của Trưởng lão Maha Moggallana. Truyện kể
rằng, một lần, Trưởng lão Maha Moggallana (ngài Đại Mục-kiền-liên) viếng thăm
cõi trời và thấy nhiều vị thiên sống trong những dinh thự sang trọng. Ngài hỏi rằng
họ đã tái sinh vào cõi chư thiên nhờ việc tốt gì, và họ đã trả lời cho Trưởng
lão bằng những câu trả lời khác nhau. Một vị tái sinh vào cõi chư thiên chỉ vì vị
này luôn nói sự thật. Người thứ hai là một thiên nữ được tái sinh vào cõi chư
thiên vì cô không giận chủ và không có ác ý với ông chủ, mặc dù ông chủ thường
xuyên đánh đập và ngược đãi cô. Vì giữ tâm an bình và từ bỏ sân hận, cô đã tái
sinh vào cõi chư thiên. Trong khi đó, có những vị khác được sinh vào cõi chư
thiên vì họ đã cúng dường những phẩm vật nhỏ nhặt, như một khúc mía, trái cây
hoặc một bó rau cho một vị Tăng hay Ni, hoặc cho một người nào khác.
Khi
trở về từ cõi trời, Trưởng lão Maha Moggallana đã hỏi Đức Phật liệu có thể đạt
được những lợi ích to lớn như vậy chỉ bằng cách nói sự thật, hay bằng cách lìa
sân, hay bằng cách bố thí một lượng nhỏ những thứ lặt vặt như trái cây và rau
quả. Đức Phật trả lời rằng: "Con trai của Ta, tại sao con hỏi? Con chưa tận
mắt thấy và nghe những gì chư thiên nói sao? Con không nên nghi ngờ gì. Những
việc phước nhỏ nhoi chắc chắn sẽ đưa người ta sinh vào thế giới của chư thiên".
Trong
kinh Đại phước đức (Mahamangala sutta, Sn
2.4) của Tiểu bộ kinh, khi nói về hạnh bố thí của Phật tử đã nói rằng người
đại phước đức là người cúng dường cha mẹ, nuôi dưỡng vợ con, giúp thân nhân, bố
thí độ lượng cho người khác, mưu sinh bằng các nghề dẫn tới bình an cho thế giới
này (engaged in peaceful occupation),
giữ giới hạnh, hành động không sai trái gì (blameless
in action).
Và
tận cùng, Phật dạy trong kinh Đại phước đức
này, là phải thực chứng Niết-bàn. Nơi đây, xin dịch như sau, trích: “Kiên nhẫn
và vâng lời, thân cận với các tu sĩ và thảo luận về Chánh pháp trong những dịp
thích hợp - đây là phước lành lớn nhất. Tự phòng hộ, sống đời thánh thiện và
trong sạch, tu học Tứ diệu đế và thực chứng Niết-bàn - đây là phước lành lớn nhất”.
Đối
với những người giàu có và dư thừa mà không chịu bố thí, tương lai đời họ sẽ
suy sụp, bất hạnh. Đức Phật nói trong kinh Sn
1.6 (Parabhava Sutta) cũng trong nhóm Tiểu
bộ kinh, nơi đây chúng ta trích dịch như sau: “Người có nhiều của cải,
vàng bạc và thực phẩm, nhưng chỉ hưởng thụ những xa hoa cho riêng mình - đây là
nguyên nhân sẽ dẫn người này tới suy sụp. Người kiêu hãnh về dòng dõi, về sự giàu
có hay về dòng tộc, và coi thường bà con của mình - đây là nguyên nhân sẽ dẫn
người này tới suy sụp”.
Ý
thức được rằng cần phải tu hạnh bố thí và cúng dường, bản thân người viết đã nỗ
lực trong hoàn cảnh riêng. Khoảng hai thập niên trước, khi dẫn đứa con nhỏ ra
chợ, thường thấy có người ngồi ăn xin vài nơi ở phố Bolsa, thì đưa một đô-la
cho đứa con, dặn là trao tiền vào nón của người ăn xin, rồi hãy tự nói thẩm
trong tâm, “Xin nguyện cho tất cả mọi người, sẽ không ai phải nghèo đói
trong thế giới này, và rồi sẽ thành Phật”. Vào những ngày Chủ nhật, người
viết cũng chở đứa con đi một vòng khoảng 10 chùa, bảo đứa con cầm 1 đô-la tới bỏ
vào thùng phước sương nơi sân chùa hay trước bàn thờ, rồi hãy tự nói lời nguyện
trên. Bây giờ nhìn lại, lòng tôi lúc nào cũng vui khi nhớ rằng mình đã dạy con
một cách đơn giản như thế.
Riêng
bản thân, người viết cũng tự ý thức rằng mình không giàu, không thể cúng dường
lớn lao, nên tự chọn con đường riêng, cũng nằm trong sở thích: Đó là Pháp thí.
Tức là đưa Chánh pháp tới cho càng nhiều người càng tốt. Đó cũng là lý do, bản
thân tôi đọc kinh ngày đêm, trong mọi thời gian có thể đọc được, và rồi viết những
gì có lợi cho độc giả có thể tu học, cụ thể thực hành được, không nói chuyện
trên mây. Kinh Pháp cú cũng dạy rằng
Pháp thí là đệ nhất.
354.
"Pháp thí, thắng mọi thí!
Pháp
vị, thắng mọi vị!
Pháp
hỷ, thắng mọi hỷ!
Ái
diệt, dứt mọi khổ!"
Cũng
nên ghi nhận rằng, nơi kinh Pháp cú,
Đức Phật dạy trong bài Kệ 356 rằng, bố thí cho người đã ly tham sẽ có vô lượng
phước đức, dạy trong bài kệ 357 rằng bố thí cho người đã ly sân cũng sẽ có vô
lượng phước đức, và dạy trong bài kệ 358 rằng bố thí cho người đã ly si cũng sẽ
có vô lượng phước đức. Tuy nhiên, chúng ta là người không có đủ tuệ nhãn để thấy
ai là bậc đã ly tham sân si, và cũng không chắc có đủ cơ duyên để gặp vị như thế
trong kiếp này. Do vậy, khi cúng dường cho các chùa, quý Tăng, Ni, hãy giữ tâm
tịnh tín nghĩ rằng đây là cúng dường Phật, cúng dường Pháp, cúng dường Tăng.
Hay ít nhất cũng nên nghĩ rằng, mình đang cúng dường một vị đang tu để ly dục,
vì bài kệ 359 nói rằng bố thí cho người ly dục sẽ được vô lượng phước đức.
Cũng
nên ghi nhận rằng, tu học Bát chánh đạo là pháp bố thí tuyệt vời nhất, bởi vì ngay
trong tu học, chính là bố thí Pháp cho cõi này. Ngay cả có cúng dường cho một
trăm vị A-la-hán, cúng dường cho một vị Phật, cúng dường ngôi tịnh xá cho Tăng
chúng, cũng không bằng trong một khoảnh khắc tu tập tâm từ, trong một khoảnh khắc
tu quán vô thường.
Đức
Phật dạy trong kinh AN 9.20, bản dịch
của Thầy Minh Châu, rằng: “Này Gia chủ, dầu cho Bà-la-môn Velāma bố thí có rộng
lớn, có ai bố thí một vị đầy đủ chánh kiến… và có ai bố thí cho 100 vị đầy đủ
chánh kiến… và có ai bố thí một vị Bất lai… và có ai bố thí trăm vị Bất lai, và
có ai bố thí một vị A-la-hán… và có ai bố thí trăm vị A-la-hán… và có ai bố thí
một vị Ðộc giác Phật, và có ai bố thí trăm vị Ðộc giác Phật, và có ai bố thí
Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh đẳng giác… và có ai bố thí chúng Tỷ-kheo với Đức
Phật là vị cầm đầu, và có ai cho xây dựng một tinh xá cho chúng Tăng trong bốn
phương… và có ai với tâm tịnh tín quy y Phật, Pháp và chúng Tăng… và có ai tâm
tịnh tín chấp nhận học pháp, từ bỏ sát sanh… từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu…
và có ai dầu chỉ trong một khoảnh khắc vắt sữa bò, tu tập từ tâm, và có
ai dầu chỉ trong một khoảnh khắc búng ngón tay, tu tập tưởng vô thường,
bố thí này quả lớn hơn bố thí kia”.
Đặc
biệt, nên giữ tâm bình đẳng trong khi bố thí. Hãy nhìn tất cả mọi người là một
vị Phật trang nghiêm trong cõi riêng của họ. Hãy nhìn tất cả mọi người nơi thực
tướng của sắc thọ tưởng hành thức đều là bình đẳng trong rỗng rang vô tướng.
Kinh Tăng nhất A-hàm gọi bố thí như
thế là huệ thí, tức là, bố thí với đôi mắt của trí tuệ. Nghĩa là, nhìn thấy các
pháp bình đẳng. Nhiều thập niên trước, tôi được bổn sư là Hòa thượng Tịch Chiếu
dạy rằng con chỉ cần giữ một giới duy nhất thôi, đó là bình đẳng.
Kinh
EA 48.5, bản dịch của hai Thầy Tuệ Sỹ
và Đức Thắng dịch lời Đức Phật dạy: “Lành thay, lành thay, Trưởng giả, ông
có thệ nguyện rộng lớn như vậy! Bồ-tát bố thí với tâm luôn luôn bình đẳng. Trưởng
giả nên biết, khi Bồ-tát huệ thí, chư thiên đến bảo rằng, ‘Thiện nam tử, nên biết,
đây là người trì giới. Đây là người phạm giới, thí đây, được phước nhiều, thí
đây được phước ít’. Bồ-tát bấy giờ không hề có tâm như vậy, rằng ‘Nên thí đây.
Không nên thí đây’. Nhưng Bồ-tát giữ tâm ý không có thị phi. Không nói, đây trì
giới. Cũng không nói, đây phạm giới. Cho nên, này Trưởng giả, hãy với tâm niệm
bình đẳng mà huệ thí, trong lâu dài được phước vô lượng”.
Do
vậy, đừng nghĩ rằng mình đang bố thí ít quá, cần bố thí nhiều hơn. Mà hãy luôn
luôn nghĩ rằng, mình đang bố thí để trang nghiêm tâm. Đức Phật dạy trong kinh AN 7.52 rằng người nào hễ bố thí với tâm
không mong cầu, mà chỉ để trang nghiêm tâm, thì sẽ lên cõi Phạm thiên và rồi chứng
quá Bất lai (A-na-hàm), không trở về cõi Ta bà gian nan này nữa.
Đức
Phật dạy trong kinh AN 7.52, bản dịch
của Thầy Minh Châu, trích: “- Này Sāriputta, ở đây, ai bố thí không với tâm
cầu mong, bố thí không với tâm trói buộc, bố thí không với mong cầu được chất
chứa, bố thí không với ý nghĩ: ‘Ta sẽ hưởng thọ cái này trong đời sau’, bố thí
không với ý nghĩ: ‘Lành thay, sự bố thí’, bố thí không với ý nghĩ: ‘Cái này đã
được cho trong đời quá khứ, đã được tổ tiên làm trong quá khứ, ta không nên để
truyền thống gia đình này bị bỏ quên’, bố thí không với ý nghĩ: ‘Ta nấu ăn, các
người này không nấu ăn. Ta không xứng đáng là người nấu ăn, lại không bố thí
cho người không nấu ăn’, bố thí không với ý nghĩ: ‘Như các vị ẩn sĩ thời xưa có
những tế đàn lớn như Atthaka, Vāmaka, Vāmadeva, Vessāmitta, Yamataggi, Angīrasa,
Bhāradvāja, Vāsettha, Kassapa, Bhagu; cũng vậy, ta sẽ là người san sẻ các vật bố
thí này’, bố thí không với ý nghĩ: ‘Do ta bố thí vật bố thí này, tâm được tịnh
tín, hỷ duyệt khởi lên’. Nhưng vị ấy bố thí với ý nghĩ để trang nghiêm tâm, để
trang bị tâm. Do vị ấy bố thí như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh
cộng trú với chư Thiên ở Phạm chúng thiên. Và khi vị ấy, nghiệp được đoạn tận,
thần lực ấy, danh tiếng ấy, uy quyền ấy được đoạn tận, vị ấy trở thành vị Bất
lai, không trở lui trạng thái này”.
Do
vậy, cúng dường cũng là tu giải thoát, chứ không thuần túy là hỗ trợ chùa chiền,
Tăng Ni. Bố thí với tâm thanh tịnh sẽ sinh lên cõi thiên, rồi nơi đó sẽ chứng
quả Bất lai. Tâm không mong đợi gì hết, mà lại được quả lớn vô cùng.
Trong
kinh Kim cang, Đức Phật giải thích rằng
bố thí như thế là bố thí mà không trụ vào sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Bản
dịch của Thầy Thanh Từ viết: “Lại nữa Tu-bồ-đề, Bồ-tát đối với pháp nên
không có chỗ trụ mà làm việc bố thí, gọi là chẳng trụ nơi sắc để bố thí, chẳng
trụ thanh hương vị xúc pháp để bố thí. Này Tu-bồ-đề, Bồ-tát nên như thế mà bố
thí, chẳng trụ nơi tướng. Vì cớ sao? Nếu Bồ-tát bố thí chẳng trụ tướng thì phước
đức không thể nghĩ lường”.
Đọc
kỹ kinh Kim cang, chúng ta sẽ hiểu vì
sao Đức Phật kể trong Bản sanh truyện,
có tiền kiếp Đức Phật (khi là hoàng tử Sattva) đã bố thí thân xác của Ngài để cho
một con cọp mẹ ăn thịt, vì Ngài thấy cọp mẹ đói và vì cọp mẹ có thể ăn thịt các
cọp con cho đỡ đói. Đó là thời cọp nói tiếng người (hiển nhiên là ẩn dụ), chỉ
ra rằng Bồ-tát phải thấy tất cả các pháp đều là không. Không có nghĩa là bây giờ
chúng ta thấy cọp đói thì hãy bố thí thân xác. Vậy rồi làm sao hộ trì Chánh
pháp. Hãy nhìn tới mặt trăng, đừng chấp vào ngón tay.
Tương
tự, chỉ qua kinh Kim cang, chúng ta mới
hiểu vì sao trong tiền thân của Đức Phật Thích Ca là vua Vessantara đã bố thí vợ
con. Tích này cũng ghi lại trong kinh Na
Tiên Tỳ-kheo, bản dịch của ngài Bhikkhu Indacanda là kinh Milinda vấn đạo. Nơi đây, chúng ta trích
đoạn nơi phẩm Vessantara, bản Việt dịch Indacanda:
“Thưa
ngài Nāgasena, có phải hết thảy tất cả các Đức Bồ-tát đều bố thí con và vợ, hay
là chỉ riêng vua Vessantara đã bố thí con và vợ?”
“Tâu
đại vương, tất cả các Đức Bồ-tát cũng đều bố thí con và vợ, không phải chỉ
riêng vua Vessantara đã bố thí con và vợ”.
“Thưa
ngài, phải chăng các vị ấy bố thí với sự đồng ý của những người ấy?”
“Tâu
đại vương, người vợ thì đồng ý. Trái lại, hai đứa bé đã than vãn do bản chất trẻ
thơ. Nếu chúng có thể biết được mục đích, chúng cũng có thể tùy hỷ, chúng có thể
không than vãn”.
“Thưa
ngài Nāgasena, hành động khó làm đã được làm bởi Đức Bồ-tát là việc vị ấy đã bố
thí những đứa con ruột thịt yêu quý của chính mình để làm nô lệ cho người
Bà-la-môn. Việc thứ nhì này còn là hành động khó làm hơn hành động khó làm, là
việc vị ấy đã dửng dưng sau khi nhìn thấy người Bà-la-môn ấy trói lại những đứa
con ruột thịt yêu quý dại khờ thơ ấu của chính mình bằng dây rừng và đang đánh
đập bằng dây rừng. Việc thứ ba này còn là hành động khó làm hơn hành động khó
làm, là việc đứa bé trai, sau khi đã được thoát khỏi sự trói buộc nhờ vào sức mạnh
bản thân, đã đi đến, bị lâm vào sự hoảng sợ, thì vị ấy đã trói bằng dây rừng rồi
lại bố thí lần nữa”.
Theo
kinh Kim cang, chúng ta sẽ hiểu rằng
bố thí vợ chỉ có nghĩa là dứt bỏ tất cả những gì sắc thanh hương vị xúc pháp của
quá khứ và hiện tại, và bố thí các con chỉ có nghĩa là chặt đứt tất cả các
duyên của những gì sắc thanh hương vị xúc pháp của tương lai. Chỉ nên hiểu bố
thí như thế. Bởi vì trao tặng vợ con mình cho người khác là thiếu từ bi với vợ
con (tâm từ nằm trong 10 hạnh ba-la-mật) và là phạm giới đầu tiên (nếu chưa phải
là đẩy vợ con vào chỗ chết, thì cũng là đang gây tổn thương đau đớn và oán hận,
sẽ là duyên cho tương lai bất hạnh).
Do
vậy, bố thí trong tận cùng là để giải thoát. Hãy bố thí mà không để mong cầu gì
hết, mà chỉ là để trang nghiêm tâm, thì sẽ sinh lên các cõi thiên rồi chứng quả
Bất lai. Và hãy bố thí tận cùng là theo lời dạy của kinh Kim cang: tâm không trụ vào bất kỳ những gì trong ba thời của sắc
thanh hương vị xúc pháp. Ngay khi đó, ngay trong cõi này, là giải thoát.