Khác
hẳn với tất cả các hệ thống triết lý và tôn giáo trên thế giới,
đạo Phật – tự bản chất lẫn hiện tượng – vừa là một hệ thống triết lý mà
cũng vừa là một hình trạng tôn giáo hoàn chỉnh với sự kết hợp hài hòa
giữa tín điều và tín lý. Giữa cuộc đời, Đức Phật là một vị thầy hóa độ;
trong đức tin, Đức Phật là một đấng Giác ngộ chứng tri. Người theo đạo
Phật là những người luôn luôn tỉnh thức để làm chủ lấy mình, không giao
trọn số phận của mình cho sự định đoạt của một đấng quyền năng tuyệt
đối nào cả. Tuy cùng là Phật tử, nhưng không ai giống ai hoàn toàn về
mức độ thuần thành và sở đắc giáo pháp trong quá trình hộ đạo và hành
đạo, vì mỗi cá nhân còn phải tùy thuộc vào căn cơ, trí tuệ, hoàn cảnh…
trùng trùng duyên nghiệp khởi và động không ngừng của chính mình. Bởi
vậy, không ai có thế “tu thay” hay “lãnh thế” nghiệp duyên của tha nhân
như thường thấy trong các tôn giáo khác.
Dưới
bóng vạn lý của ba ngôi Tam bảo – Phật, Pháp, Tăng – người cư sĩ Phật
giáo (CSPG) là chiếc cầu tượng trưng và tiêu biểu giữa Tam bảo và cuộc
đời thường; giữa hàng xuất gia và quần chúng. Nhưng thế nào là chân
dung của một người CSPG điển hình và tiêu chí nào để thành người cư sĩ?
Đâu là sự khác biệt giữa một người CSPG và một Phật tử “bình thường”?
Định nghĩa danh từ cư sĩ
Trong
hệ thống xã hội cổ điển Đông phương, cư sĩ thường được định
nghĩa như là người có tài năng nhưng không ra tham gia việc nước hay
dấn thân vào việc đời, sống mai danh ẩn tích ở chốn thâm sơn hay điền
dã (Cư: ở. Sĩ: kẻ sĩ).
Nói
về nguồn gốc thì sách Cải trai mạn lục của Ngô Tăng Năng ghi
rằng: “Danh hiệu cư sĩ có từ thời Thương Chu”. Sách Hàn Phi Tử chép:
“Thái Công được phong ở đất Tề. Ở Đông Hải có hai cư sĩ là Cuồng Duật
Hoa và Sĩ Tì Đệ can rằng: “Ta không nên thần phục Thiên tử, không giao
hữu với chư hầu, chỉ nên cày ruộng mà ăn, đào giếng mà uống”. Như vậy,
từ thời xa xưa, cư sĩ là người sống rất độc lập, thanh đạm (gần với hàn
sĩ) và sống ẩn dật (ẩn sĩ).
Trong
Phật giáo thì cư sĩ (Kulapati) là người học Phật tại gia. Sách Xuyết
canh lục có ghi: “Người học Phật đời nay phần nhiều tự gọi mình là cư
sĩ. Khảo trong Lục kinh thì chỉ có sách Lễ ký có danh từ cư sĩ cẩm đới
(cư sĩ đai gấm), nhà chú giải ghi là vị cư sĩ có đạo nghê”. Sách Duy Ma
kinh sớ của Tuệ Viễn, quyển 1, nói rõ hơn về khái niệm cư sĩ: “Cư sĩ có
hai loại: Một loại tích lũy được nhiều của cải (cư tài cư sĩ), gọi là
cư sĩ. Một loại là tu đạo tại gia, tức là Cư gia đạo sĩ cũng gọi là cư
sĩ”. Phụ nữ cũng có thể gọi là cư sĩ, tức nữ cư sĩ. Trong các sách
Thiền lục thường có danh hiệu ấy.
Đệ
tử đầu tiên của Đức Phật Thích Ca là cư sĩ. Ngay khi Ngài vừa mới
thành đạo dưới cội Bồ đề, có hai thương khách từ phương Nam đến, đó là
Bà Ha Lệ Ca (Bahallika) và Trà Phú Sa (Trapusha) chiêm ngưỡng dung mạo
quá uy nghi của Phật tỏa trong ánh hào quang rạng ngời, bèn đến đảnh lễ
và dâng Đức Thế Tôn phẩm vật cúng dường. Đức Phật mỉm cười, đặt tay lên
đầu hai người thọ nhận quy y và truyền giới. Đó là hai Ưu bà tắc
(Upasaka, tiếng Phạn có nghĩa là đệ tử nam giới) đầu tiên của Phật
giáo. Sau khi quy y Tam bảo, Đức Phật truyền năm giới (Ngũ giới): Không
sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối và không uống
rượu. Theo lời Phật dạy thì sau khi quy y Tam bảo và thọ Ngũ giới rồi,
hai đệ tử này có thể ở tại nhà tiếp tục cuộc sống bình thường để tu
học. Sau đó không lâu, tại vườn Lộc Uyển, Đức Phật cũng thọ nhận quy y,
truyền giới và khuyên tu tại gia cho vị Ưu bà di (Upasika: nữ đệ tử)
đầu tiên trong lịch sử Phật giáo.
Giới CSPG đã hiện diện từ
những ngày Đức Phật Thích Ca chưa chuyển pháp luân dưới gốc Bồ đề,
trong vườn Lộc Uyển, nhưng giới Phật tử vẫn còn rất ít người tự nhận
mình là cư sĩ (cách gọi Việt Nam); là Thiện nhơn, hay Cận sự nhơn (như
thường thấy danh xưng Thiện nam hay Cận sự nam theo cách gọi của Trung
Hoa). Có lẽ vì chữ “Sĩ” đã làm cho nhiều người tự cảm thấy danh xưng cư
sĩ mang một ý nghĩa đặc biệt tương tự nào đó như kẻ sĩ, hiền sĩ… có vẻ
xa cách với “người thường”!
Thật
ra tự nguồn gốc, cư sĩ là một người hiểu biết, sống có nhân cách,
trách nhiệm và bổn phận với bản thân, gia đình, người thân và xã hội;
có tinh thần cầu tiến bộ trong ý hướng học đời, học đạo làm người. Cư
sĩ, nói chung, có thể là một người chẳng liên quan gì đến tôn giáo hoặc
chỉ có khuynh hướng về tôn giáo mà thôi. Nhưng CSPG, trước hết phải là
một Phật tử. Vì vậy, bất cứ một người nào theo Phật giáo có quy y Phật,
Pháp, Tăng (Tam bảo), có chuyên tâm giữ giới (Ngũ giới) và có ý thức
hành thiện (Thập thiện), tu học tại gia đều có thể gọi là CSPG, không
phân biệt hoàn cảnh xuất thân hay địa vị xã hội. Đạo Phật là đạo bình
đẳng. Người theo đạo Phật lấy cái tâm Bồ đề làm gốc, nên chân tâm là
chủ đạo, là cốt lõi tinh yếu, là giá trị tuyệt đối của người Phật tử.
Thời Đức Phật còn tại thế, xã hội Ấn Độ sinh hoạt riêng trong cung
đường của giai cấp. Giai cấp cùng đinh Chiên đà la, chuyên nghề hạ tiện
gánh phân có thể bị giết vì lầm lỡ đạp trên cái bóng của giai cấp
thượng đẳng quý tộc của hàng vua quan Sát đế lỵ. Giai cấp tu sĩ Bà la
môn có quyền phán quyết tối cao trên thân phận của giai cấp thương gia,
học sĩ trưởng giả và giai cấp lao động Thủ đà la. Thế nhưng đạo Phật đã
dung hóa được giai cấp vì Đức Phật không căn cứ vào giả tướng mà nhìn
thấu suốt bản lai diện mục của chúng sanh để tìm thấy Phật tánh trong
từng cá thể. Không có giai cấp trong dòng máu cùng đỏ và nước mắt cùng
mặn. Nói một cách đơn giản và đại chúng hơn thì CSPG là những Phật tử
chuyên tu học tại gia.
Vai trò truyền thống của người Cư Sĩ Phật giáo
Để góp phần minh họa chân dung và vai trò đa dạng trong quá trình tu học của người CSPG, người xưa có nói rằng:
Thứ nhất là tu tại gia,
Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa.
Tu tại gia thường được coi là khó nhất vì cùng lúc, người CSPG phải đóng trọn hai vai trò:
Vai trò đối với Đời và vai trò đối với Đạo:
Theo
HT.Thích Thiện Hoa thì cái danh của người CSPG có đến năm chữ: “Người +
Phật tử + Tại gia”. Đó là chưa kể người Phật tử tại gia ấy còn có những
danh vị và trách nhiệm khác như: Công chức, giáo sư, chủ tiệm…
Vai trò đối với đời: Bao
gồm những bổn phận và trách nhiệm đối với tự thân, đối với gia đình
quyến thuộc, đối với mọi người, đối với quốc gia và xã hội. Vai trò đối
với đời là một sự thử thách thường xuyên, có tác động trực tiếp và mạnh
mẽ để tạo điều kiện thuận lợi hay trở lực cho vai trò đối với đạo.
Trong giới hạn nhất định của cuộc đời thường thì mọi người đều chỉ có
mỗi ngày 24 giờ để sống. Giữa hai hạng người cực đoan – hoặc không có
gì để làm; hoặc làm tới khi chết rồi mà vẫn chưa hết công việc – là
những người điều khiển được con ngựa thời gian bất kham. Thực tế đã
chứng minh rằng, giữa dòng cuộc sống tất bật và trôi chảy không ngừng,
nếu biết sắp đặt sẽ không có sự mâu thuẫn hay xung đột nào giữa việc
đời và việc đạo như những kẻ sĩ xưa thường nói: “Hành tàng bất nhị kỳ
quan” (Gánh vác việc đời hay rút lui ẩn dật không phải là hai trạng
thái tách rời nhau). Trong tinh thần đó, người CSPG luôn luôn có khả
năng tạo được thế quân bình giữa hai vai trò đối với đời và đạo.
Khi
nói đến sự bức xúc của tâm lý tham gia công tác phục vụ cộng
đồng, nhà Xã hội và Tâm lý Mỹ, Thomas Wagner, đã phát biểu rằng: “Làm
việc thiện nguyện cũng như tham gia sinh hoạt tôn giáo cần phải làm
ngay trong điều kiện có sẵn hiện tại (right here, right now). Đừng đợi,
vì ngày mai cũng như ngày hôm nay. Sự đợi chờ có khi sẽ trở thành quá
muộn vì không ai nắm chắc rằng, ngày mai họ sẽ còn hiện hữu hay
không…”. Vai trò người CSPG cũng tương tự như thế. Nếu chờ đến lúc về
hưu; chờ đến khi con cháu thành tài; chờ đến khi nợ cái nhà, chiếc xe
trả hết mới có điều kiện tham gia công tác chùa chiền, tu học… thì có
khi sẽ lâm vào cảnh “mai ăn khỏi trả tiền” và cái ngày mai đầy hứa hẹn
đó có thể sẽ không bao giờ thành hiện thực.
Tu
tại gia khó nhất… là một thực tế hiển nhiên, nhất là đối với quý vị
chưa đến lứa tuổi “lão giả an chi” còn phải bôn ba với cuộc sống.
Vật lộn với nợ áo cơm đã khó, thỏa mãn hết các món nợ đời, nợ danh, nợ
tiếng… lại càng khó hơn. Bên cạnh nỗ lực nhằm thỏa mãn những nhu cầu
căn bản của đời sống thường nhật, còn sắp xếp được hoàn cảnh và thời
gian để tu học, tham gia công tác hộ đạo và hành đạo… đòi hỏi người
CSPG một tín tâm kiên cố và một ý chí tu học bền bỉ mới tránh được cảnh
tu học chợ chiều như Nguyên Phong than thở trong một bài thơ vui đăng ở
báo Liên Hoa: “Xuân Thu tu học nhị kỳ, mỗi năm mỗi vắng còn gì là tu!”.
Không
phải chỉ có trong thời đại mới hay trong hoàn cảnh lưu cư ở xứ người,
giới CSPG mới phải đối diện với sự khó khăn của hoàn cảnh. Giới luật
căn bản của Phật giáo từ xưa đã căn cứ trên hoàn cảnh đặc biệt khó khăn
của người tu tại gia để quy định những điều luật khả thi cho Phật tử
tại gia và xuất gia. Nếu là xuất gia thì tùy theo trình độ và quá trình
tu học để thọ giới. Như có 10 giới dành cho người tập sự xuất gia (Sa
di và Sa di ni), 250 giới dành cho Tỳ kheo và 340 giới cho Tỳ kheo ni.
Trong khi đó, chỉ có 5 giới dành cho người Phật tử tại gia.
Tuy
sự hưng thịnh của một tôn giáo không nhất thiết tỷ lệ thuận
với số lượng tín đồ, nhưng rõ ràng là khối quần chúng tín đồ đóng
một vai trò chủ lực và sinh động trong sinh hoạt tôn giáo. Trong sinh
hoạt của Phật giáo Tịnh độ, giới CSPG là chỗ dựa của Tam bảo như Thiền
sư Thích Thanh Từ khẳng định trong tập sách Trách vụ Phật tử tại gia,
rằng: “Truyền bá Phật giáo được phổ biến, linh động trong quần chúng do
Phật tử tại gia thực hiện”. Bởi vì theo Thiền sư thì làm Phật sự chính
là làm “sống dậy lời Phật dạy” chứ không phải bị dính chặt vào những
phương tiện tạm thời trợ lực cho việc hoằng dương Chánh pháp như cúng
chùa, cất chùa, trai nguyện, công quả v.v… Cũng trong tác phẩm vừa nêu
dẫn, Thiền sư viết tiếp: “Nếp sống của người xuất gia cao siêu cách
biệt quần chúng quá, dù cố gắng cách mấy cũng khó ảnh hưởng lây. Vì
thế, Phật tử tại gia có trách nhiệm làm linh động và sống dậy tinh thần
Phật giáo qua nếp sống cá nhân và gia đình mình”.
Vai trò hộ đạo của người cư sĩ Phật giáo [hải ngoại]
Quy
y Tam bảo không phải là một hình thức “lễ Thánh” để từ đó, người
quy y sẽ trở thành một tín đồ ngoan đạo, giao trọn tâm linh và số
phận của đời mình cho một đấng thiêng liêng toàn năng định đoạt, vì Đức
Phật không phải là một vị thần linh. Quy y là tự nguyện chọn cho
mình một hướng đi, đặt cho mình một lý tưởng để nhắm đến: Phật là mục
tiêu của lý tưởng để nhắm đến. Pháp là đường lối, là phương tiện cần
thiết để tiến đến được mục tiêu lý tưởng đó. Và Tăng là người dẫn đường
đáng tin cậy để hướng dẫn người học Phật định hướng và tiến vững bước
trên con đường tìm đến mục tiêu. Do đó, sự liên lạc giữa người Phật tử
với Tam bảo cũng cần thiết như người vượt biển trong sương mù cần phải
có hải đăng, ghe thuyền, hướng đi để tới bờ. Hay cũng như cá nhân cần
phải có sự liên lạc với gia đình và xã hội. Là một thành viên trong tứ
chúng, là một cá thể trong cộng đồng, người CSPG có một trách vụ trực
tiếp, thường xuyên và tích cực trong tiến trình hộ đạo và hành đạo.
Khác
với các bậc tu hành đã xuất gia, Phật tử tại gia mỗi người có riêng một
hoàn cảnh bản thân và gia đình khác nhau. Hoàn cảnh này có khi là thuận
duyên mà cũng có khi là nghịch duyên có ảnh hưởng và tác động trực tiếp
đến sự tu học của người CSPG. Bên cạnh đại đa số Phật tử tại gia, tạo
được sự hài hòa song hành giữa việc đời và việc đạo, vẫn có hiện tượng
thiếu quân bình giữa hai khuynh hướng gần như cực đoan của một thiểu số
Phặt tử. Khuynh hướng “thái quá”: Bất chấp những nhu cầu cấp thiết của
gia đình và quay lưng với trách nhiệm xã hội, rũ bỏ tất cả để đến chùa,
sử dụng toàn thời gian để lo việc chùa chiền Phật sự. Khuynh hướng
ngược lại là “bất cập”: Tuy có tín tâm nhưng không đến chùa, luôn luôn
tìm cách biện minh cho thái độ xa cách Tam bảo của mình bằng những khái
niệm sáo mòn như: “Phật tức tâm. Tu đâu cho bằng tu nhà… và v.v…”. Cả
hai khuynh hướng thái quá và bất cập đều là những chướng ngại trên con
đường tu học của người Phật tử tại gia.
Đã
có quá nhiều sách vở, bài bản, ý kiến của chư tôn đức, các học giả,
CSPG trình bày, tham khảo và nghiên cứu về vai trò tu và hành của người
Phật tử tại gia. Trong bài viết rất giới hạn này, người trình bày sẽ
không làm công việc tóm tắt hay liệt kê và lặp lại một cách có hệ thống
hoặc tản mạn những điều nên làm hay không nên làm đã được ghi thành bài
bản trong sách vở nói về vai trò của người CSPG mà chỉ xin đưa ra những
ý kiến rất khiêm tốn của mình để làm cơ sở thảo luận. Tinh thần triết
học Phật giáo rất thoáng đạt và mềm dẻo. Có khi còn mang tính chất “phủ
định nhất quán” như Bồ tát Long Thọ đã tập đại thành Bát nhã Ba la mật
để phủ nhận luôn cả nguyên tắc đầu tiên và cơ bản nhất trong nhân sinh
quan của Phật giáo như Tứ Diệu đế, Bát Chánh đạo… Nhưng phủ nhận như
khép cánh cửa sổ để mở ra khung cửa rộng của một sự xác tín về hành
trình tất yếu trên con đường đưa đến giác ngộ và giải thoát sau cùng.
Bởi vậy, ngôn từ dầu có hoa gấm tới đâu; cơ sở lý luận dù có vững chãi
tới mức nào; luận điểm có sức thuyết phục đến mấy… thì cũng chỉ là
phương tiện nhất thời rất tương đối và phù du để đưa đến sự im lặng của
Chánh pháp; sự vô ngôn của giác ngộ và giải thoát.
Trong
tinh thần học Phật thoáng rộng và đầy tâm đạo đó, chúng ta thử cùng
nhìn vào hoàn cảnh thực tế để có thể được hay chăng, cùng bàn
thảo một vài ý niệm đề cương về vai trò hộ đạo của người CSPG:
1- Vai trò xây dựng cơ sở vật chất
Khi
hướng về Tam bảo, khuynh hướng truyền thống phổ biến nhất của giới Phật
tử tại gia là nghĩ đến mái chùa và hình ảnh quý Thầy, quý Ni sư. Tuy
động cơ tâm linh của Phật tử đến chùa có khác nhau về cách nhận
thức và mức độ thể hiện, nhưng tất cả đều có một gốc rễ chung là tín
tâm hay lòng tin kính vào Đức Phật và giáo lý cứu khổ, độ sanh của
Ngài. Thế giới tâm linh riêng tư của từng cá nhân thường có điều kiện
khai mở và un đúc trong khung cảnh thờ tự trang nghiêm của chùa chiền
và tu viện, dưới sự dìu dắt tinh thần của Tăng, Ni. Ngôi chùa, vì vậy,
không chỉ là ngôi nhà thờ tự mà còn là một thế giới thu gọn của một
cộng đồng của những người có chung niềm tin.
Trong
những xã hội kỹ nghệ và cường quốc kinh tế Tây Phương, nhất là tại Mỹ,
rõ ràng có một sự quan hệ hỗ tương theo tỷ lệ thuận giữa cuộc sống vật
chất và đời sống tinh thần. Đời sống kinh tế gia đình và vật chất xã
hội càng phong phú thì chùa chiền và tu viện được xây dựng càng nhiều.
Và đây cũng chính là “ngọn lửa thử vàng” để trắc nghiệm cho cái tâm Bồ
đề và chí tu học của cả hai giới Phật tử xuất gia và tại gia. Sự xuất
hiện nhiều chùa chiền và tu viện là một hiện tượng tích cực và lành
mạnh của Phật giáo. Tuy nhiên, giới xuất gia quý Thầy và Sư cô đóng vai
trò nào trong việc hướng dẫn tinh thần và giới CSPG đóng vai trò nào
trong việc vận động vật chất để lập chùa, xây dựng tu viện mới là điều
quan trọng. Bất cứ một ngôi chùa lập nên dù nguy nga hay khiêm tốn đến
mức độ nào mà vẫn phát huy được hình ảnh cao đẹp và uy nghi của Tam
bảo; duy trì được cốt lõi của tinh thần Lục hòa trong giới cư sĩ với
nhau mới là điều đáng quý. Phật giáo không chấp nhận lối ngụy biện “cứu
cánh biện minh cho phương tiện”. Ngược lại, trong phương tiện đã mang
mầm cứu cánh. Chùa chiền và cơ sở vật chất tuy cũng chỉ là phương tiện,
nhưng ngay dưới mái chùa, hạt giống từ bi, trí tuệ, giải thoát đã ươm
mầm từ thiện ý, tâm đạo và việc làm của Tăng Ni và cư sĩ. Trong vai trò
góp phần xây dựng cơ sở vật chất làm phương tiện tu học, người cư sĩ là
chỗ dựa vững chắc của Tăng Ni trong vai trò hộ đạo để xác định được
giới hạn hợp lý của nhu cầu, khả năng và hoàn cảnh cụ thể hầu tránh
được tình trạng cả thầy lẫn đệ tử đem phương tiện làm cứu cánh; quên
mục đích tu học để giải thoát và tự trói buộc nhau vào cảnh nợ nần ngân
hàng; đôn đáo lo chạy tiền trả nợ… “chùa”! Hậu quả trực tiếp là thay vì
chú tâm tu học thì người cư sĩ ngày lại ngày chỉ lo hô hào, tổ chức gây
quỹ dưới những hình thức đượm màu tục lụy để tranh đua xây chùa to, đúc
tượng lớn; thường xuyên tiếp cận với nhu cầu vật chất mà xa lìa phẩm
hạnh của đời sống tinh thần.
2- Vai trò đem đạo vào đời
Một
Thiền sư Nhật Bản, tu sĩ Samurai Kenji, có nhận xét: “Đem đời vào đạo
sẽ làm cho đạo chao đảo chông chênh; nhưng đem đạo vào đời sẽ làm cho
đời thanh cao và vững chắc”. Đem đạo vào đời có nghĩa là mang cái tâm
Bồ đề vào cuộc sống. Kinh Hoa Nghiêm chỉ rõ: “Quên mất tâm Bồ đề mà tu
hành các thiện pháp thì gọi là hành động theo ma vương. Quên mất còn
thế, huống chi chưa phát!” (Hoa Nghiêm – Phẩm Phát Bồ Đề Tâm. Trí Quang
dịch).
Giới
cư sĩ đóng vai chiếc cầu bắc qua dòng sông tâm ý và hành
trạng để đưa đạo Phật vào cuộc đời. Đạo Phật và kinh điển nhà
Phật không phải là một kho tàng tri thức đóng khung bất biến trong gia
tài kiến thức cổ truyền của nhân loại. Trái lại, đạo Phật là một hệ
thống tư tưởng và nguyên tắc hành xử sinh động, không bị biến chất hay
cô lập với thời gian và hoàn cảnh. Đạo Phật không nhằm chế ngự tư duy
của nhân loại như hệ thống luận lý học Tây phương mà tiếp cận với cuộc
đời thường một cách bình đẳng và công minh. Từ hàng quý tộc đến giới
cùng đinh; từ hàng thức giả đến giới không biết chữ đều là những chúng
sanh có Phật tính và có khả năng giác ngộ. Bởi vậy, mọi người cư sĩ đều
có tác dụng quan trọng ngang nhau trong vai trò hộ đạo và hành đạo.
Trách vụ làm cho đạo Phật sinh động trong môi trường sống hiện thực
trước hết là cách sống của chính người cư sĩ. Nhà tôn giáo học Mỹ,
Willie Bretch, nhận xét: “Bản chất của một tôn giáo thể hiện trong cách
sống của tín đồ theo tôn giáo đó sẽ mang khả năng truyền đạo mạnh mẽ và
trực tiếp nhiều lần hơn là lý thuyết kinh điển nằm chất đống dưới bệ
thờ và trong thư viện” (Religious Nature, 2001).
Thực
tế tại Mỹ và các nước phương Tây, một gia đình Việt Nam có vợ
chồng con cái theo nhiều đạo khác nhau không phải là chuyện hiếm có đời
nay. Cũng vậy, trong mọi cơ cấu đoàn thể cũng như tổ chức và khu vực xã
hội, Phật tử thường là một phần nhỏ hay lớn bên cạnh những người theo
các tôn giáo khác. Người ngoài đạo Phật thường nhìn người Phật tử như
là hình ảnh tiêu biểu, phản ảnh trung thành tinh thần Phật giáo. Vì
vậy, trách vụ hộ đạo tích cực đầu tiên của người CSPG là xây dựng một
phong thái sống thích hợp với khái niệm của một người Phật tử qua lời
nói, sinh hoạt và cách ứng xử.
Nguyên
tắc xử thế nhằm thu phục nhân tâm thường được liệt kê dài lê thê trong
các sách giáo khoa “học làm người” để đạt đến nghệ thuật đắc nhân tâm.
Nhưng cư sĩ không phải là người đi tìm đắc nhân tâm mà là người nuôi
dưỡng và chia sẻ chân tâm.
Muốn
có sự hòa hợp với mọi người trong cuộc sống cần phải có tấm lòng
sống thật, không chấp cái danh hư huyễn. Muốn có sự gần gũi và thân
thiện với mọi người cần giảm thiểu tối đa thái độ thắc mắc, phê phán,
lý sự mà giàu lòng cảm thông chia sẻ và khiêm tốn. Không phải gia đình
nào cũng có cả vợ lẫn chồng và con cái đều là Phật tử. Không phải xã
hội nào cũng chỉ có giới Phật tử thuần nhất đến với nhau. Giới xuất gia
là tấm gương đạo hạnh đã đành. Nhưng hình ảnh giới Phật tử tại gia, hai
tay nâng lấy cả việc đời lẫn việc đạo, mới chính là đại biểu đầy thuyết
phục nhất để mang đạo vào đời.
3- Vai trò hộ trì Tam bảo
Hành động bảo vệ thường được thể hiện dưới ba cách:
–
Bảo thủ: Khư khư nắm giữ những gì đang có. Trong tôn giáo, thái độ này
là quyết liệt nắm giữ những tín điều như những nguyên tắc bất
biến; sợ sự xâm lấn từ bên ngoài và động cơ thay đổi từ bên trong.
–
Trung dung: Đồng thời bảo vệ và phát huy những giá trị chính
đáng. Trong tôn giáo, thái độ này có một tác động tích cực, tạo
được sức mạnh mới và giúp cho tôn giáo không bị lỗi thời.
–
Cấp tiến: Hoàn toàn đổi mới. Mạnh mẽ phá đổ cái cũ để xây dựng cái mới.
Trong tôn giáo, thái độ này thường dẫn đến tình trạng cho sự ly
khai Giáo hội chính thống để xây dựng một hệ phái mới.
Phật
giáo, cũng giống như các tôn giáo lớn với hàng chục triệu tín đồ, trải
rộng qua nhiều vùng có lãnh thổ, chính trị, văn hóa, xã hội và ngôn ngữ
khác nhau trên toàn thế giới, ba khuynh hướng bảo vệ đạo pháp nói trên
cũng thường xuyên xảy ra đồng thời hay riêng lẻ.
Những
khuynh hướng cực đoan, mang nặng tính chất duy lý và bảo thủ không hợp
với một tôn giáo lấy cái Tâm làm gốc như đạo Phật. Vì vậy, khuynh hướng
trung dung được thể hiện phổ biến nhất trong vai trò hộ đạo và hành đạo
của người CSPG.
Tuy
thái độ trung dung được tôn trọng và ưa chuộng, nhưng trong những
thời điểm và hoàn cảnh đặc biệt, người CSPG cần phải đấu tranh tích cực
giữa “Kính” và “Chính”. Kính trọng một người không có nghĩa là phải
kính trọng luôn sự bất chính hay sai lầm của người đó. Ví dụ: Kính thầy
không có nghĩa là phải thỏa hiệp với những điều chưa đúng của thầy;
hoặc kính nể đạo hữu không có nghĩa là im lặng đồng lõa với những điều
sái trái của bạn đạo.
Bảo
vệ là giữ gìn và tu hành là sửa đổi. Không có một sự giữ gìn và
sửa đổi nào mà không tạo ra những hệ quả tất nhiên theo sau.
Nghĩa là luôn luôn có sự tán đồng và bất đồng trong tập thể. Sự mâu
thuẫn có khi ở mức độ tiềm tàng, nhưng cũng có khi bùng nổ đưa đến chỗ
phân ly hay chia thành phe nhóm. Hiện tượng có nhiều chùa chiền trong
một địa phương nhỏ bé và vị tu sĩ trụ trì chùa này chẳng hề bén mảng
thăm viếng chùa kia không phải là hiện tượng hiếm hoi tại nhiều vùng
đất ở hải ngoại. Nếu phải tu học trong một hoàn cảnh phân hóa như thế,
CSPG thường có một tư thế thuận lợi nhất để giúp đưa sinh hoạt các chùa
cô lập đến gần nhau. Bảo vệ đạo pháp không phải là khư khư đến chùa này
hay nhất tâm theo thầy khác mà cần phát huy lòng kính ngưỡng rộng lớn
đối với Tam bảo. Khi trên đường tu học, người cư sĩ không lấy biên giới
đất đai làm điểm tựa hay lấy thành quách chùa chiền làm giới hạn thì
hình ảnh Tam bảo sẽ trở thành thế giới tín ngưỡng không biên giới với
mọi người.
4- Vai trò giáo dục
Trong
49 năm hóa độ chúng sanh, Đức Phật đã xuất hiện như một vị thầy
trụ cột (bổn sư) bên cạnh Tăng đoàn tứ chúng. Có thể nói, một trong
những vai trò trọng điểm hàng đầu của đạo Phật là giáo dục. Thông qua
phương tiện giáo dục, đạo Phật đã giúp khai phóng con người từ “mê” đến
“giác”, từ cảm tính đến nhận thức; và từ nhận thức đến hành động. Bởi
vậy, hàng giáo phẩm xuất gia các cấp của Phật giáo đều là những vị thầy
(Sư: Tổ sư, Đại sư, Thiền sư, Ni sư). Những danh Tăng lỗi lạc và uyên
bác trong lịch sử Phật giáo như Đạt Ma, Huyền Trang, Vạn Hạnh, Viên
Chiếu, Mãn Giác, Hương Hải… đều là những vị thầy.
Giáo dục là phương tiện chủ lực trong vai trò hóa đạo của Phật giáo.
Trong
bối cảnh Phật giáo tại hải ngoại, nhất là trong xã hội của các
nước có nền giáo dục tiên tiến và mức độ dân trí cao như các nước
Âu Mỹ ngày nay, phương tiện giáo dục để hoằng dương Phật pháp là
một sự kết hợp tất yếu giữa tín tâm và tri thức. Có tín tâm mà thiếu
tri thức thì con đường học Phật rất dễ thiên về khuynh hướng bảo thủ,
khép kín và vụ hình thức lễ nghi. Ngược lại, có tri thức mà thiếu tín
tâm thì con đường học Phật dễ dàng thiên về khuynh hướng duy lý, phân
hóa và tùy tiện.
Tương
lai Phật giáo và khả năng kế thừa để duy trì và phát huy tinh thần Phật
giáo của tuổi trẻ Việt Nam tại hải ngoại cũng là mối quan tâm
thiết yếu của thế hệ Phật tử đàn anh, kể cả hàng xuất gia và tại
gia. Theo thống kê của Viện Khảo sát các nhóm chủng tộc tại Mỹ
(MGRI) thì cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ thuộc vào hàng khá “trẻ
trung”. Có 68% tuổi trẻ Việt Nam sinh sau 1975. Nhưng quan sát kỹ thành
phần tuổi tác của Phật tử đến sinh hoạt hay tu học đều đặn tại các chùa
thì sẽ thấy rõ tỷ số tuổi trẻ học Phật còn quá “mỏng” so với tỷ số dân
cư. Nếu thử phóng tầm nhìn về một tương lai chừng 20 năm sau, khi thế
hệ Phật tử đàn anh hiện tại trở thành quá khứ, thì thế hệ đàn em tại
hải ngoại có đủ “dày” và thuần thành để bảo vệ và phát huy đạo pháp hay
không? Gia đình Phật tử tuy là một tổ chức tuổi trẻ đầy hứa hẹn nhưng
có bao nhiêu chùa lớn hay nhỏ mới được xây dựng trong những năm gần đây
có được sự hiện diện của Gia đình Phật tử?
Bên cạnh quý Tăng Ni, giới CSPG có một vị thế cốt cán và tiên phong trong vai trò giáo dục, bao gồm:
–
Góp phần hỗ trợ trong vấn đề đào tạo Tăng tài: Sự hưng thịnh của Phật
giáo xưa nay đều có một sự liên đới hữu cơ giữa tài năng (học
thuật, nghiên cứu, sáng tạo…) của giới Tăng Ni và công cuộc hoằng
dương đạo pháp. Hiện trạng tại hải ngoại thì học vấn đóng một vai trò
quan trọng khi nói đến tài năng. Chẳng hạn như các Mục sư quản nhiệm
của nhiều hệ phái Tin Lành đòi hỏi phải có văn bằng cao học hay tiến sĩ
thần học. Tuy tinh thần Phật giáo không vụ bằng cấp, nhưng hoàn cảnh
địa lý và xã hội đã thay đổi. Trong hoàn cảnh mới, vai trò của quý Tăng
Ni càng nặng nề hơn. Bên cạnh trách vụ tu trì truyền thống, quý Tăng Ni
còn phải đóng vai trò đối ngoại với xã hội đa chủng đang nhìn về Phật
giáo; vai trò giáo dục cho thế trẻ không thông tiếng Việt; vai trò làm
chỗ dựa tinh thần cho giới Phật tử tại gia đang tranh sống trong một
môi trường xứ người. Những vai trò đó, đòi hỏi quý Thầy và quý Sư cô
không chỉ thông thạo kinh tạng nội điển mà còn phải thông qua quá trình
học hỏi tại các nha trường hay học viện nơi mình cư trú. Nếu giới cư sĩ
nhiệt tình gánh vác bớt một số công việc thích hợp giúp quý thầy, cô có
thì giờ và phương tiện đi học thì đó cũng là một hành động gián tiếp
góp phần đào tạo Tăng tài.
–
Bắc nhịp cầu thế hệ: Giúp thế hệ trẻ, mà trực tiếp nhất là con em của
chính mình, hiểu Phật giáo và hành theo tinh thần Phật giáo. Đồng thời
tạo điều kiện bảo trợ và phát triển những tổ chức Phật tử trẻ như Gia
đình Phật tử, Thanh niên Phật tử…
Giáo
dục là một lãnh vực rất đa dạng. Đầu tư vào cơ sở vật chất dễ hơn vì có
kết quả nhìn thấy ngay trước mắt, nhưng đầu tư vào giáo dục thì có khi
kết quả chưa thấy liền, nhưng sẽ đơm hoa kết trái trong nhiều thế hệ
tương lai.
Kết luận
Rất
có thể phát xuất từ tinh thần trọng sĩ thái quá của văn hóa Á
Đông “Dân hữu tứ sĩ vi chi tiên…”, nên khi nói đến Tam giáo (Nho – Phật
– Lão) xã hội Việt Nam ta hay nói đến một thế giới “học sĩ” gồm những
nhân vật xa cách với sách vở bao quanh đầy mình. Cũng thế, đã có một
thời, Phật giáo bị nhìn một cách lệnh lạc: Hoặc là một Phật giáo quá
cao siêu với tam tạng kinh điển, với tám vạn bốn ngàn pháp môn vi diệu;
với những công án mây trời ngũ sắc tận đâu đâu. Hoặc tệ hơn, một Phật
giáo đầy mê tín với bùa chú, cờ phướn đèn lồng, trống đánh kèn thổi để
trừ ma yểm quỷ. Hình ảnh đạo Phật lệch lạc đó không ít thì nhiều, vẫn
còn để lại những dấu vết trong thời hiện tại.
Đã
có nhiều tu sĩ, học giả, cư sĩ Phật giáo bằng mọi phương tiện khả thi,
cố đem Phật giáo đi vào cuộc đời hiện thực. Đây là một tiến trình rất
quan trọng và cần thiết trong công tác Phật sự hộ đạo và hành đạo.
Càng
ngày, người ta càng nhận ra rằng, tuy Phật giáo cao siêu “vô
thượng thậm thâm vi diệu pháp”, nhưng con đường khởi thủy dẫn vào Phật
giáo cũng chỉ là con đường đất chân quê mà mọi giới chúng sanh, nếu có
một tấm lòng, đều có thể bước đi trên nẻo đường đó một cách thoải mái
và nhẹ nhàng.
Người
CSPG phải là lớp người “đưa đò” điển hình để trân trọng mời những người
quan tâm đến Phật giáo tìm đến Phật giáo một cách đơn giản.
Nếu
Tăng Ni hoằng hóa Phật giáo bằng kinh sách và những buổi thuyết pháp
thì người Phật tử tại gia phổ biến Phật giáo trong người thân và quần
chúng bằng chính cách sống cùng những lời thăm hỏi, chia sẻ và an ủi
của mình. Trong lời kết luận về vai trò hộ đạo của người CSPG, thầy
Thanh Từ nhận định rằng: “Giờ rảnh rỗi, Phật tử nói chuyện thân mật
trong gia đình, hoặc đi thăm người láng giềng đau yếu… đều là những
buổi thuyết pháp linh động của cư sĩ. Cách ăn ở trong nhà, sự đối xử
hàng xóm hợp đạo lý, ấy là bài thuyết pháp sống của Phật tử tại gia.
Phật tử tại gia thực hiện được nhiệm vụ mình, mới thật là người hộ đạo
chân chính”.
Hơn
hai nghìn năm trước, Đức Phật mỗi khi truyền giới hay dạy một hạnh tu
cho Phật tử tu tại gia đều dặn dò: “Người tu tại gia giữ được rất khó
vì nhiều nhân duyên ràng buộc” (Theo kinh Ưu Bà Tắc)
Cái
khó vì hoàn cảnh của người CSPG đã có từ nghìn năm trước và nghìn
năm sau vẫn còn khó. Nhiều khi cái khó không phải phát xuất tự nó
mà từ những khái niệm và định kiến mà người ta mặc lên cho nó.
Bởi vậy, người CSPG cùng lúc dấn bước trên hai con đường ngỡ như song
hành nhưng lại đòi hỏi hai trách vụ khác biệt: Đời và Đạo. Hai con
đường song song có cùng một điểm gặp gỡ: Chân tâm.
Trần Kiêm Đoàn