Hòa thượng Thích Thanh Từ: Xuân trong cửa Thiền
hoa thuong
Hòa thượng Thích Thanh Từ: Xuân trong cửa Thiền
HUỲNH NHƯ
PHƯƠNG
Mùa xuân Giáp Thìn 2024 này, Trưởng lão
Hòa thượng Thích Thanh Từ, Phó Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam, sinh ngày
24-7-1924, đi trọn khánh niên bách tuế và bước qua tuổi “bách dư niên” trong
cuộc đời. Gần 80 năm xuất gia, tu tập và hoằng dương Chánh pháp, Hòa thượng đã
thành lập, xây dựng, trùng tu và phát triển 175 thiền viện trong và ngoài nước,
110 đạo tràng, góp phần phục hưng Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Từ quê hương Trà
Ôn, Vĩnh Long nghèo khó, ngài đã đặt chân đến các miền Tổ quốc và hơn mười quốc
gia trên thế giới để giáo hóa, hướng dẫn tu tập, chứng pháp quy y cho hàng chục
vạn Phật tử trong và ngoài nước.
Cùng với những hoạt động Phật sự kiên trì, bền bỉ có ảnh hưởng tích cực
trong đời sống văn hóa của dân tộc, Thiền sư Thích Thanh Từ còn cống hiến cho
đời những công trình dịch thuật, biên khảo rất giá trị, xứng đáng có vị trí
trân trọng trong tủ sách của những gia đình quan tâm đến Phật học.
Theo một thống kê được cập nhật
gần đây nhất, Hòa thượng Thích Thanh Từ có 103 công trình dịch thuật, giảng
giải, luận bàn kinh Phật, khảo cứu về tư tưởng Thiền học, lịch sử Thiền tông,
hành trạng và sự nghiệp của các thiền sư Việt Nam và Trung Hoa. Nổi bật trong
số đó là bộ sách về kinh Bát-nhã,
kinh Diệu pháp liên hoa, kinh Kim cang, kinh Lăng-già, kinh Viên giác,
kinh Pháp bảo đàn… Một trong những điểm đặc biệt thể hiện rõ nét tâm nguyện
kế thừa, tiếp nối và phục hưng Thiền phái Trúc Lâm là việc Hòa thượng Thích
Thanh Từ chuyên tâm dịch thuật, khảo luận các tác phẩm Thiền tông đời Lý -
Trần, tiêu biểu là bộ sách Khóa hư
lục giảng giải, Tam Tổ Trúc Lâm giảng
giải, Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục
giảng giải, Tham đồ hiển quyết và Thi
tụng các thiền sư đời Lý giảng giải…
Như vậy, trong tâm nguyện và hành động của
Hòa thượng Thích Thanh Từ, phục hưng Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử không chỉ là
khôi phục, tôn tạo những cơ sở tu trì mà quan trọng là làm sống lại tinh hoa
của Thiền phái qua những kinh sách uyên áo do các thế hệ thiền sư để lại và lưu
truyền vào tâm thức của đại chúng. Hai việc này phải tiến hành song song, có
quan hệ và tương tác với nhau một cách mật thiết. Và xét cho cùng, không phải
những cơ ngơi đồ sộ với tòa ngang dãy dọc mà chính tinh hoa, căn cốt tư tưởng
Thiền học được củng cố, phát huy mới làm nên rường cột giữ cho Thiền phái phát
triển vững bền và trường cửu.
Mở đầu bản dịch Bích nham lục, một
công trình do Thiền sư Viên Ngộ trước tác dựa theo nguyên tác của Thiền sư
Tuyết Đậu (đời Tống), dịch giả Thích Thanh Từ viết: “BÍCH NHAM LỤC là tập sách rất quan thiết trong Thiền môn,
cần phải được phiên dịch. Song nó rất khó dịch; vì cố gắng giúp phần nào cho
người sau, buộc lòng chúng tôi phải dịch ra. Khi dịch, chúng tôi chia mỗi tắc
thành năm phần hoặc bốn phần: Lời dẫn (Thùy thị), Công án, Giải thích, Tụng,
Giải tụng. Có tắc không có Lời dẫn, chỉ còn bốn phần. Chúng tôi lược bớt lời
giải ngắt quãng trong công án và trong bài tụng, để độc giả đọc công án và lời
tụng mạch lạc hơn.
“Bản dịch này chúng tôi y cứ theo
bản Hán văn BÍCH NHAM LỤC trong tập THIỀN
HỌC ĐẠI THÀNH và THIỀN HỌC TẬP THÀNH bổ túc cho nhau. Phần tựa đầu dịch đủ, phần
hậu tự chúng tôi lược bớt.
“Dám mong Thiền giả đọc nó cốt ‘đạt
lý, đừng kẹt lời’, ‘ứng dụng tu hành không nói rỗng’, thế là mãn nguyện của
chúng tôi”[1].
Như vậy, trong quan niệm của Thiền sư Thích Thanh Từ, dịch thuật là cố
đạt lý chứ không “mắc kẹt” trong văn tự, ngôn từ, như kinh Viên giác khuyên ta hãy nương theo ngón tay để thấy mặt trăng. Điều
đó không có nghĩa là xem nhẹ ngôn từ mà nhằm nhắc nhở đừng để ngôn từ cản trở
cho sự lĩnh hội tư tưởng. Đọc các bản dịch của Hòa thượng Thích Thanh Từ, ta
thấy ngôn ngữ giản dị mà không giản đơn, dễ thông hiểu và thông đạt đến mọi
người - hình như đây cũng là văn phong của một vùng đất cởi mở, khoáng đạt
trong tính cách con người.
Giảng giải công phu những bộ sách “văn chương tuyệt hảo, lý đạo u
huyền”, nhưng Hòa thượng Thích Thanh Từ luôn thể hiện đức khiêm cung: “Sự giảng
giải của chúng tôi giá trị ở nhiệt tình, chớ không ở văn chương và sáng tỏ lý
thiền. Bởi thiền là vô ngôn, chúng tôi dùng đa ngôn thì khó tránh khỏi sai lầm.
Mong quý độc giả cảm thông tha thứ việc làm gắng gượng của chúng tôi”[2].
Bộ sách Thiền sư Trung Hoa gồm 2 tập, được Hòa thượng Thích Thanh Từ soạn
dịch từ ba bộ sách Cảnh Đức truyền đăng lục,
Chỉ nguyệt lục và Cao tăng truyện. Bộ sách này giới thiệu
tiểu sử, hành trạng, đức hạnh và công tích của các vị thiền sư từ đời thứ nhất
sau Lục Tổ Huệ Năng đến đời thứ tư là lúc bắt đầu chia tông phái (Tập 1), rồi
từ đời thứ năm gồm năm tông (Tào Động, Lâm Tế, Quy Ngưỡng, Vân Môn, Pháp Nhãn)
và bảy phái (Tông Lâm Tế lại chia thêm thành hai phái Huỳnh Long và Dương Kỳ)
(Tập 2), gồm 144 vị.
Trước khi vào sách, độc giả được soạn giả dặn dò: “Người tu theo Thiền tông cốt nhận được bản tâm, thấy được bản tánh của
mình. Khi nhận được bản tâm, mới tin ‘tâm tức là Phật’. Khi thấy được bản tánh
mới tin ‘tánh mình đầy đủ tất cả, xưa nay vẫn thanh tịnh’. Nhưng tâm tánh ở
đâu, thế nào? Tất cả người tu Phật đều thắc mắc vấn đề này. Khi đặt câu hỏi tâm
tánh ở đâu, thế nào, thì khác gì người cỡi trâu tìm trâu, vác Phật đi cầu Phật,
biết bao giờ thấy được”[3].
Lấy bản tâm làm chủ, Thiền tông hướng con người nhìn thấy “bản lai diện
mục” của mình ngay chính nơi mình mà không cầu nơi nào khác, như Trần Nhân Tông
viết: Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
(Trong nhà có sẵn của báu, đừng đi tìm nơi nào khác).
Thiền sư Thanh Từ dặn tiếp: “Người
tu Thiền phải dẹp sạch bản ngã, dù là bản ngã thánh cũng không còn. Nếu còn
thấy sở đắc là còn bản ngã, giả sử thấy đắc quả thánh cũng là vị thánh tương
đối, chớ chưa thật giải thoát. Chỗ giải thoát cứu cánh là tâm không còn dính
mắc một chỗ nào”[4].
Thiền tông Việt Nam có những điểm gặp gỡ với Thiền tông Trung Hoa mà cũng
có những đặc trưng riêng do hoàn cảnh đặc thù của đất nước và văn hóa dân tộc.
Điều này được phản ánh sinh động trong hai tác phẩm Thiền tông Việt Nam cuối thế kỷ XX và Thiền sư Việt Nam của Hòa thượng Thích Thanh Từ.
Được tác giả ấp ủ và thai nghén nhiều
năm trước khi ra mắt, sách Thiền tông
Việt Nam cuối thế kỷ XX khẳng định: “Nói
Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng
cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI đến nay đều là các
thiền sư”. Theo tác giả, “Có lắm
người Phật tử hâm mộ tu thiền, song sự có mặt của nhiều lối tu thiền ở Việt Nam
làm họ không biết đâu tà đâu chánh. Nếu người dè dặt đành chịu chùn chân không
biết theo ai. Nếu người nhiệt tình nóng bỏng nghe đâu theo đó, họ dễ bị lạc vào
thiền tà ngoại. Đây là một khuyết điểm lớn lao do không có người giản trạch
chánh tà cho họ. Người chịu trách nhiệm này chính là Tăng Ni. Tăng Ni là người
có bổn phận dẫn đường chỉ lối cho tín đồ tu học. Nếu chỗ sở mộ của Phật tử khác
với đường lối hiện tu của mình, bổn phận mình phải chỉ cho họ nơi nào hợp với
sở mộ mà đúng Chánh pháp. […]. Chính đây là một trong những mục tiêu chúng tôi
nhắm để viết quyển sách này”[5].
Trong tinh thần đó, cuốn sách tập hợp những bài viết và bài giảng của
tác giả có liên quan đến chủ đề Thiền tông: “Cội nguồn Thiền tông”, “Thiền tông
Việt Nam cuối thế kỷ XX”, “Yếu chỉ Thiền tông”, “Vào cổng nhà Thiền”, “Vào cửa
Không”, “Chỉ Ông chủ”. Đặc biệt trong phần “Yếu chỉ Thiền tông”, tác giả đã
phân tích và bình luận những vấn đề quan yếu: “Chủ đích Thiền tông”, “Đức Phật
qua cái nhìn của Thiền tông”, “Thiền tông với các kinh Đại thừa”, “Thiền tông
với các môn thiền khác”, “Thiền tông không nặng hình thức tôn giáo”, “Đặc điểm
Thiền tông”, “Những nghi vấn về Thiền tông”, “Những bệnh của người tu thiền”.
Kết hợp với phần giảng giải, cuốn sách giới thiệu những bài kệ do chính
tác giả phiên dịch, giúp bạn đọc dễ lĩnh hội và thẩm thấu những tư tưởng uyên
áo của Thiền học. Chẳng hạn, đây là bản dịch bài kệ của Thiền sư Huệ Sinh đời
Lý: Pháp gốc như không pháp/ Chẳng có
cũng chẳng không/ Nếu người biết pháp ấy/ Chúng sanh cùng Phật đồng/ Trăng
Lăng-già vắng lặng/ Thuyền Bát-nhã rỗng không/ Biết không, không giác có/ Chánh
định mặc thong dong.
Sách Thiền sư Việt Nam là một
đóng góp lớn của Hòa thượng Thích Thanh Từ vào việc nghiên cứu Thiền tông trong
bối cảnh văn hóa Phật giáo và dân tộc. Tác giả trình bày tiểu sử, hành trạng,
đức hạnh và công tích của 127 vị Hòa thượng, thiền sư, đại sư, thiền lão, quốc
sư, trưởng lão, cư sĩ, Ni sư, Ni cô có vai trò quan trọng trong việc xây dựng
và phát triển Thiền tông ở nước ta, mà những vị đặt nền móng ban đầu là Khương
Tăng Hội, Thích Đạo Thiền, Thích Huệ Thắng, Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Cuốn sách còn
cung cấp cho bạn đọc các đồ biểu phái Thiền tông ở Trung Hoa truyền sang Việt
Nam, phái Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi, phái Thiền Vô Ngôn Thông, phái Thiền Thảo
Đường, phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử, tông Tào Động, phái Lân Giác ở Bạch Mai,
phái Nguyên Thiều - Siêu Bạch, phái Thiệt Diệu Liễu Quán; các sơ đồ truyền thừa
của Hòa thượng Ẩn Sơn, Thiền sư Thiện Hiếu; phụ bản Tham đồ hiển quyết, phụ bản Những
dòng kệ các phái. Đây là những chỉ dẫn quý báu rất bổ ích cho những người
học Phật.
Nhìn lại những cuốn sách của Hòa thượng
Thích Thanh Từ, có thể thấy những năm 90 thế kỷ trước là thời gian tác giả công
bố nhiều công trình có tiếng vang nhất, hầu hết đều do Thành hội Phật giáo TP.Hồ
Chí Minh và thiền viện Thường Chiếu ấn tống. Mùa xuân năm 1992, Khoa Ngữ văn
Trường Đại học Tổng hợp TP.Hồ Chí Minh có cơ duyên được Hòa thượng đến thăm và
có một buổi thuyết giảng trầm ấm mà cuốn hút các giáo sư, giảng viên và sinh
viên ngồi kín một giảng đường lớn. Đó cũng là dịp cuốn sách Xuân trong cửa Thiền, tập hợp những bài
pháp thoại tinh tế và sâu sắc của Hòa thượng trong những buổi lễ tất niên hay
giao thừa nhiều năm trước, vừa được xuất bản.
Nghĩ về mùa xuân Di Lặc, Hòa thượng
Thích Thanh Từ nhắc đến bốn câu kệ của Thiền sư Bổn Tịnh (đời Đường):
Nhất niên xuân tận nhất niên xuân
Dã thảo sơn hoa kỷ độ tân
Thiên hiểu bất nhơn chung cổ động
Nguyệt minh phi vị dạ hành nhơn.
Thầy dịch:
Một năm xuân trọn một năm xuân
Cỏ dại non hoa mấy độ tươi
Trời sáng chẳng do chuông trống động
Trăng trong đâu bởi khách đi đêm.
Và Thầy bình luận: “Ở trên cuộc đời này có bao nhiêu người cứ theo cái mê lầm ảo tưởng của
mình, chạy theo ngoại cảnh, bám vào ngoại cảnh cho là mình. Cho nên phải khổ
đau theo dòng sinh diệt của ngoại cảnh. Như bao nhiêu người thấy cái gì cũng
nói cái đó là của mình, lệ thuộc mình từ cái bản thân cho đến cái sự vật bên
ngoài. Không có cái nào là không bám chặt vào mình. Bởi cái chấp ngã nặng nề đó
cho nên con người phải khổ đau, khổ đau dằng dặc từ kiếp này đến kiếp khác. Đó
là cái chấp ngã sở, tức là vật sở hữu của mình. […]. Bởi vì mình đặt chủ quan
của mình vào sự vật, bắt sự vật lệ thuộc vào mình. Mình muốn lòng người đối với
mình và sự vật thuộc về mình trường tồn vĩnh cửu. Cho nên khi có trạng thái
biến đổi, xê dịch thì mình cảm thấy bất an, không vui rồi”[6].
Theo giải thích của Hòa thượng Thích Thanh Từ, bài kệ của Thiền sư Bổn
Tịnh truyền đi thông điệp rằng: “Nếu mình
có cái nhìn khách quan, thì sẽ thấy ngoại cảnh là ngoại cảnh, không cái gì
thuộc về mình hết. Trăng trong là trăng trong, không phải vì mình đi đêm mà
trăng trong. Trời sáng là trời sáng chớ không phải vì chùa đánh chuông, đánh
trống là trời sáng. Như hoa cỏ nó tươi nó nở là tới thời tiết nó tươi nó nở,
chớ không phải vì cái gì mà nó tươi nó nở”[7].
Nhưng phải chăng là cái nhìn khách quan
đó sẽ cắt đứt mọi liên lạc giữa Ngã và Tha, giữa nội tâm và ngoại giới? Không
phải, Thiền sư chỉ muốn nói rằng ta không nên có thái độ “chấp ngã sở” đối với
ngoại giới mà phải dọn lòng để hòa hợp với ngoại giới. “Nếu trong lòng chứa đêm ba mươi, tức tối như mực thì cái gì cũng không
xuân hết, cái gì cũng đen như mực. Sở dĩ ở ngoài đời nó đẹp là do trong lòng
mình đẹp”[8].
Để minh họa điều đó, Hòa thượng Thích
Thanh Từ dẫn ra bài thơ của Thiền sư Phật Nhãn, hiệu Thanh Viễn (đời Tống): Xuân nhựt xuân sơn lý/ Xuân sự tận giai xuân/
Xuân quang chiếu xuân thủy/ Xuân khí kết xuân vân/ Xuân khách xuân tình động/
Xuân thì xuân cánh tân/ Duy hữu thức xuân nhân/ Vạn kiếp nguyên nhất xuân.
Nghĩa là: Ngày xuân xuân trong núi/ Việc
xuân thảy đều xuân/ Hồ xuân ánh xuân chiếu/ Khí xuân kết mây xuân/ Khách xuân
lòng xuân động/ Thi xuân xuân càng tươi/ Chỉ có người biết xuân/ Muôn kiếp một
mùa xuân. (Thích Thanh Từ dịch).
Vậy làm sao để thành “người biết xuân”
mà hưởng một “mùa xuân muôn kiếp”? Thầy Thanh Từ dạy ta năm điều: 1) Tùy hỷ: từ
bỏ tật đố kỵ để phát tâm tuỳ hỷ theo việc tốt, việc lành của người khác; 2) Hỷ
xả: vui vẻ mà buông bỏ hết những bực bội, cố chấp trong lòng; 3) Pháp hỷ hay
pháp lạc: nghe Chánh pháp mà tìm ra được lẽ thật, nguồn an ủi vui tươi, trong
lòng thấy nhẹ nhàng thơ thới; 4) Thiền duyệt: niềm vui khi tọa thiền, thấy thân
tâm an ổn, hơi thở nhẹ nhàng; 5) Tịch lạc: niềm vui cứu cánh, một niềm vui lặng
lẽ khi đã thoát khỏi mọi vọng tưởng của sinh diệt[9].
Đó là con đường tu tập kiên trì, bền bỉ,
từ cái vui gần đến cái vui xa, để đạt đến mùa xuân bất tận, vĩnh cửu như nụ
cười không bao giờ tắt của Đức Phật Di Lặc.
[1] Bích nham lục (Thích Thanh Từ dịch), Thành hội Phật giáo TP.Hồ
Chí Minh ấn hành, 1995, tr.5.
[2] Thích Thanh Từ: Tham đồ hiển quyết và Thi tụng các thiền sư
đời Lý giảng giải, Thiền viện Thường Chiếu ấn hành, 1997, tr.6.
[3] Thanh Từ (soạn dịch): Thiền sư Trung Hoa, tập 1, Thành hội
Phật giáo TP.Hồ Chí Minh ấn hành, 1990, tr.6.
[4] Thanh Từ: Sđd, tr.11.
[5] Thích Thanh Từ: Thiền tông
Việt Nam cuối thế kỷ XX, Thành hội Phật giáo TP.Hồ Chí Minh ấn hành, 1992,
tr.5, 7-8.
[6] Thích Thanh Từ: Xuân trong cửa Thiền, Thành hội Phật giáo
TP.Hồ Chí Minh ấn hành, 1991, tr.71, 72.
[7] Thích Thanh Từ: Xuân trong cửa Thiền, Sđd, tr.76.
[8] Thích Thanh Từ: Xuân trong cửa Thiền, Sđd, tr.202.
[9] Thích Thanh Từ: Xuân trong cửa Thiền, Sđd, tr.181-203.