Hoa mai trong thơ thiền

hoa mai

Hoa mai  trong  thơ  thiền

Thơ thiền, có thể hiểu là các tác phẩm thơ có nội dung thiền của Phật giáo, bao gồm các bài kệ của các thiền sư và những bài thơ có màu sắc Thiền tông. Hồi chúng tôi thọ giáo môn Văn học Phật giáo tại tu viện Nguyên Thiều, giáo thọ sư hỏi làm thế nào để làm được thơ thiền. Chúng tôi cứ nghĩ, chắc phải đắc đạo rồi mới có mấy bài kệ để lại như các thiền sư. Giáo thọ sư bấy giờ là sư Giác Tri, bảo rằng, đọc khoảng một ngàn bài thơ thiền thì sẽ làm được thơ thiền.

 Ngày xuân, mời quý vị cùng chúng tôi thưởng lãm vẻ đẹp của hoa mai trong một vài bài thơ thiền mà ai cũng biết.

 Hoa mai là đại diện của mùa xuân trong tứ quý (tùng, cúc, trúc, mai), lại cũng có mặt trong tuế hàn tam hữu, ba người bạn mùa giá rét gồm tùng, trúc, mai. Hoa mai tượng trưng cho khí tiết và đặc tính thanh cao, trong sáng của người quân tử.

  Nguyễn Trãi có bài Vịnh cây mai già, dùng hoa mai nói lên tấm lòng trung hiếu của mình:

Hoa nẩy cây nên thuở đốc sương,

Chẳng tàn chẳng cỗi hãy phong quang.

Cách song khác ngỡ hồn Cô Dịch,

Quáng bóng in nên mặt Thọ Dương.

Đêm có mây, nào quyến nguyệt,

Ngày tuy gió, chẳng bay hương.

Nhờ ơn vũ lộ đà no hết,

Đông đổi dầu đông, hãy một dường.

Đó là hoa mai của một bậc trung thần. Còn hoa mai của Phật hoàng Trần Nhân Tông, người sáng lập dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử, thì lại lãng mạn đến bất ngờ:

Năm cánh hoa tròn vàng nhị phô,

Nổi nênh vảy cá, chìm san hô.

Đông ba tháng trải cành khoe trắng,

Xuân một làn thơm nhánh nhẹ đưa.

Đêm ngỡ nước trong chim cháy cổ,

Sương lừng hương ngát bướm tan mơ.

Hằng Nga như biết đây hoa đẹp,

Quế lạnh cung Thiềm há mến ưa.

(Mai sớm 1, Trần Lê Văn dịch)

Khó có thể tưởng tượng đây là thơ của một vị vua đứng đầu đất nước, lại là một hành giả đạt đạo, vì tính chất bay bổng xuất thần của nó. Nhưng ngẫm lại thì thấy không thể hợp lý hơn bởi vì “bất tục phi tiên cốt, đa tình thị Phật tâm”. Bài thơ thể hiện cái tài của đấng quân vương, đồng thời thể hiện cái tình của một vị tu sĩ - nghệ sĩ. Vẻ đẹp của hoa mai được nhà thơ so sánh đẹp hơn cả cảnh đẹp của cõi trời nơi Hằng Nga ở. Ở bài thứ hai thì hình ảnh hoa mai cho thấy cảnh giới nội tâm của thi nhân:

Năm ngày ngại rét lười ra cửa,

Gốc lẻ nào ngờ đã gió xuân.

Mặt nước băng tan cây bóng ngả,

Đầu cành hoa trĩu ấm chưa phân.

Trăng chìm xóm núi lời ca bổng

Mây ướt quan hà tiếng sáo ngân.

Lạc tới chiêm bao hoa một nhánh,

Muốn đem tặng bạn khó vô ngần.

(Mai sớm 2, Trần Lê Văn dịch)

Hai câu cuối mang rất nhiều ý nghĩa. Thi kệ dòng thiền Làng Mai có bài:

Trang nghiêm Tịnh đ

Nơi cõi Ta-

Đất tâm thanh tịnh

Hiển lộ ngàn hoa.

(Kệ cắm hoa)

Tại sao hoa lại lạc vào giấc chiêm bao của nhà thơ? Hiểu theo lý, đó chính vì nội tâm thanh tịnh cho nên hoa mới hiển lộ. Ông bà ta nói, ngày làm sao đêm chiêm bao làm vậy. Đó cũng là sự vận hành của A-lại-da thức khi các chủng tử chân thiện m đã được huân tập rồi sinh ra hiện hành (hoa nở trong giấc mơ). “Muốn đem tặng bạn, khó vô ngần”, bởi vì ai tu nấy chứng, như người uống nước nóng lạnh tự biết. Nhà thơ hạnh phúc và muốn đem chia sẻ hạnh phúc ấy cho người hữu duyên, nhưng xem ra chỉ có thể dùng phương tiện, còn thành quả tu chứng thì làm sao mà đem tặng được. Đó là ý nghĩa sâu xa của bài thơ.

Tiếp nối Sơ tổ Phật hoàng Trần Nhân Tông, Tổ thứ ba của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử là Thiền sư Huyền Quang cũng viết về hoa mai với một tâm tình cảm động:

Dục hướng thương thương vấn sở tòng,

Lẫm nhiên cô trĩ tuyết sơn trung.

Chiết lai bất vị già thanh nhãn,

Nguyện tá xuân tư ủng bệnh ông.

Dịch thơ:

Ngửa mặt trời xanh hỏi lý do,

Hiên ngang trong núi mọc mình hoa.

Bẻ về không để chưng vui mắt,

Chỉ mượn màu xuân đỡ bệnh già.

(Thiền sư Nhất Hạnh dịch)

Bên cạnh vẻ đẹp của loài hoa mai lộng lẫy trong lẫm liệt hiên ngang cô độc, không dựa vào đâu, chỉ dựa vào sức bình sinh của chính mình, thì người đọc còn thấy vẻ đẹp của sự khiêm cung trong nhân cách của nhà tu hành. Mượn cành hoa mai an ủi bệnh già, là nhà thơ tự mình thừa nhận mình còn phải học theo khí tiết kiên cường của hoa mai cho qua cái khổ của cơn già bệnh, cũng là cái khổ của sinh tử. Hoa mai và người tả hoa mai đều đáng ngưỡng mộ.

  Từ ngài Huyền Quang, ngược dòng thời gian hơn một trăm năm về trước nữa, ta bắt gặp cành mai tiêu biểu nhất cho dòng thơ thiền. Ấy là nhất chi mai của Thiền sư Mãn Giác đời nhà Lý:

Xuân khứ bách hoa lạc,

Xuân đáo bách hoa khai.

Sự trục nhãn tiền quá,

Lão tòng đầu thượng lai.

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.

Dịch thơ:

Xuân qua, trăm hoa rụng,

Xuân tới trăm hoa cười.

Trước mắt, việc đi mãi,

Trên đầu, già đến rồi.

 Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết,

Đêm qua sân trước một cành mai. (Ngô Tất Tố dịch)

Đây là bài kệ thiền sư đọc trước khi thị tịch, vốn không có nhan đề. Hai câu đầu, có thể chú ý để thấy là thiền sư đảo ngược trật tự thời gian. Thông thường thì nói xuân đến, rồi xuân đi. Nhưng không, ở đây thiền sư nói đến sự kiện “xuân khứ” trước. Xuân đi hoa rụng, sau đó là xuân đến hoa nở. Chính sự đảo ngược này mang đến một niềm tươi vui, hứng khởi đặt vào giữa khổ đau của sinh tử luân hồi. Hai câu tiếp theo như một lời tự sự đầy chiêm nghiệm:

Trước mắt việc đi mãi,

Trên đầu già đến rồi.

Đây là chiêm nghiệm để thấy vô thường. Bức tranh đời người gồm trong hai nét vẽ đó thôi, việc đi và già đến. Cuối cùng còn lại một cành mai:

Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết,

Đêm qua sân trước một cành mai.

Có thể hiểu được rằng cành mai ở đây chính là thành quả giác ngộ của Thiền sư Mãn Giác. Cành mai liễu thoát sinh tử đã nở tung. Cành mai đó là tâm thức bất sinh bất diệt mà thiền sư đạt đến sau bao công phu tu hành. Và cành mai đó sẽ mãi mãi còn hiện hữu như một tin vui vĩnh hằng cho hậu thế.

  Vào thế kỷ thứ nhất, Thiền sư Hoàng Bá Hy Vận ở Trung Hoa cũng đã chọn hoa mai làm hình ảnh tượng trưng cho pháp ngữ của Ngài:

Trần lao quýnh thoát sự phi thường,

Hệ bã thằng đầu tố nhất trường,

Bất thị nhất phiên hàn triệt cốt,

Tranh đắc mai hoa phốc t hương.

(Vượt khỏi trần lao việc chẳng thường,

Đầu dây nắm chặt giữ lập trường.

Chẳng phải một phen xương lạnh buốt,

Hoa mai đâu dễ ngát mùi hương).

Cũng có ý kiến cho rằng hoa mai trong thiền ngữ của Tổ Hoàng Bá Hy Vận hay Thiền sư Mãn Giác là loài hoa mơ. Đó là một nghi vấn. Dù là mai hay mơ, đặc tính của cả hai loài hoa này đều là trải qua một mùa đông giá rét, rụng hết lá rồi mới nở hoa vào mùa xuân.

Chẳng phải một phen xương lạnh buốt,

Hoa mai đâu dễ ngát mùi hương.

  Trong cuộc sống, để thành tựu một mục tiêu, chúng ta đều phải trải qua nỗ lực, mồ hôi, nước mắt, có khi cả máu xương và tính mạng. Hiểu được điều đó, những khổ đau mà chúng ta đang có sẽ trở nên có ý nghĩa và giá trị làm động lực cho chúng ta tiến lên không nản lòng. Một đời tu cũng vậy.

  Có một truyền thuyết về con chim chỉ hót một lần trong đời, nhưng hót hay nhất thế gian. Có lần nó rời tổ bay đi tìm bụi mận gai và tìm cho bằng được mới thôi. Giữa đám cành gai góc, nó cất tiếng hát bài ca của mình và lao ngực vào chiếc gai dài nhất, nhọn nhất. Vượt lên trên nỗi đau khổ khôn tả, nó vừa hót vừa lịm dần đi, và tiếng ca hân hoan ấy đáng cho cả sơn ca và họa mi phải ghen tị. Bài ca duy nhất có một không hai, bài ca phải đổi bằng tính mạng mới có được. Nhưng cả thế gian lặng đi lắng nghe, và cả Thượng đế trên thiên đình cũng mỉm cười. Bởi vì tất cả những gì tốt đẹp nhất chỉ có thể có được khi ta chịu trả giá bằng nỗi đau khổ vĩ đại... Ít ra là truyền thuyết nói như vậy”. Đó là lời dẫn vào tiểu thuyết Tiếng chim hót trong bụi mận gai, một tác phẩm văn học Úc. Người phương Đông chỉ nói hai câu “Nếu chẳng một phen xương lạnh buốt/ Hoa mai đâu dễ ngát mùi hương” là đủ diễn tả cùng một ý.

  Nhắc đến hoa mai trong thơ thiền, không thể không nhắc đến một tác phẩm của Phật giáo Việt Nam hiện đại. Đó chính là bài thơ Bên mé rừng đã nở rộ hoa mai của Thiền sư Nhất Hạnh.

Bên mé rừng đã nở rộ hoa mai là một bài thơ làm theo thể thơ tự do và khá dài. Nội dung bài thơ nói về tình thầy trò trong đạo. Tình thầy thật bao dung và đầy kiên nhẫn:

Con đi đâu?

Cây mộc già đã nở hoa thơm nức sáng nay,

Thầy trò ta thật chưa bao giờ từng cách biệt.

Xuân đã về,

Các cội thông đã ra chồi óng biếc,

Và bên mé rừng đã nở rộ hoa mai.

Hoa mai trong bài thơ này là tín hiệu của mùa xuân, được chọn làm kết bài để đem lại cho toàn bộ tác phẩm một cảm xúc trọn vẹn, tươi sáng, nói cách khác, một kết thúc có hậu.

  Hoa mai trong thơ thiền vừa là hoa thực, biểu tượng cho cái đẹp hình thức, vừa là hoa tâm, hoa lòng, phản ánh nội tâm của hành giả, lại còn là ẩn dụ để các thiền sư nhắn gửi kinh nghiệm tu chứng cho đàn hậu học. Một đời sống như hoa mai, kể ra cũng đủ để không hổ thẹn với đất trời.

    Tuệ Anh

Tài liệu tham khảo:

1.      Chu Minh Khôi,  Cây mai trong thơ văn Lý - Trần là cây mai gì?,  Giác Ngộ online.

2.      Đinh Công Bảng, Tìm hiểu cành mai trong bài kệ của Mãn Giác Thiền sư, Giác Ngộ online.

3.      Nguyễn Thanh Huy, Hoa mai qua góc nhìn của Thiền sư Trần Nhân Tông, Thư viện Hoa Sen.

4.      Ngô Minh, Bốn bài thơ bất hủ về hoa mai, Báo Công an Đà Nẵng.

5.      Thích Trung Hữu, Mai hay mơ, Thư viện Hoa Sen.

6.      Trần Thanh Tuấn, Nhành mai xuân trong thơ Lý - Trần, Tạp chí Văn hóa Phật giáo.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

  

Chia sẻ: facebooktwittergoogle
Các bài viết khác