Tìm hiểu Duy thức tánh trong Thành Duy thức
timhieuve
Thích Nhuận Giác
Duy thức học
là môn tâm lý học Phật giáo trình bày thực tướng của vũ trụ nhân sinh. Hành giả
khi đi vào nghiên cứu học tập và thực hành môn Duy thức có thể vượt qua được lớp
sương mù ảo ảnh để trở về với thực tại tối hậu chính là chân Duy thức tánh.
Sau khi
Duy thức trình bày về
Duy thức
tướng, liền trình bày về Duy thức tánh, để chúng ta nhận ra bản chất của thực
tại, từ
đó có thể tiến hành tu tập để thể nhập chân lý tối hậu. Duy thức tánh được nói
đến gồm: Tam tự tánh, Tam vô tánh và Duy thức thật tánh.
Thực ra
thế giới của vọng thức và thế giới của chân tâm chỉ là một,
không cần
phải loại bỏ đi thế giới của vọng thức mà chỉ cần "xoay đầu trở lại" thì thế
giới của chân tâm hiện bày và thế giới của vọng thức ẩn tàng. Để hiểu rõ hơn về
Duy thức tánh được trình bày trong Thành Duy
thức
luận,
người viết xin đi vào phần trình bày chi tiết.
1. Tổng quan quá trình hình thành và phát triển của Duy thức
1.1.
Định nghĩa Duy thức
Duy
thức, tiếng Phạn là Vijnana
hay
Vijnapti, có nghĩa là phân biệt,
nhận thức,
thường được
dịch là thức, có khi được dịch là biểu biệt, tức biểu thị hay hiển thị sự phân
biệt.
Thành
duy thức luận giải thích
rằng
tất cả đều do thức
biến:
Thị
chư thức
chuyển biến
Phân biệt sở phân biệt
Do
thử bỉ giai vô
Cố
nhất thiết duy thức.
Do thức
chuyển biến nên sinh
ra cái năng phân biệt và sở phân biệt. Chuyển biến
có
ba nghĩa: 1.
Biến
hiện, chỉ cho sự chuyển biến của thức,
là nhân nơi sự vận chuyển mà biến đổi, nhân nơi biến đổi mà hiện hữu; 2.
Biến
dị: biến có nghĩa là sinh
khởi, dị có nghĩa chẳng giống,
tức
là do Tự chứng phần nơi tự thể của thức sinh
khởi ra kiến phần và tướng phần, mà kiến phần và tướng phần được sinh
ra này chẳng giống với tự thể của thức; 3.
Cải
chuyển: do
tự thể của thức cải biến chuyển thành kiến phần và tướng phần nên có ngã tướng
và pháp tướng nhiều vô số.
Năng
phân
biệt là công năng phân biệt để hiểu biết, là chủ thể hiểu biết, tức là chỉ cho
kiến phần (phần tác dụng) của các tâm thức. Sở phân biệt là chỗ phân biệt để
hiểu biết, là đối tượng hiểu biết, tức là chỉ cho tướng phần (phần hình tướng)
của các pháp.
‘‘Thử’’
ở đây chỉ cho kiến phần năng duyên và tướng phần sở duyên. “Bỉ” chỉ cho căn
thân, khí giới, vô số ngã tướng và pháp tướng.
Do
vì các tâm thức chuyển biến để hiểu biết, cho nên các năng phân biệt và sở phân
biệt đều hiện khởi để có mặt trong thế gian. Nếu như các tâm thức không chuyển
biến thì các năng phân biệt và sở phân biệt đều hoàn toàn không có mặt trong thế
gian. Cho nên tất cả đều gọi là duy thức.
Thành duy thức viết:
Duy
nghĩa là ngăn chặn ngoại cảnh chẳng phải có, thức là biểu thị tâm tâm sở chẳng
phải không. Cho nên hết thảy các pháp hữu vi hay vô vi, hoặc thật hoặc giả đều
không tách rời khỏi thức cho nên gọi là duy thức.
Bên cạnh
đó, luận Thành
Duy
thức
nói: Duy
thức là duy cái biết, do cái biết hoặc y nơi cái biết (bỉ y thức sở biến).
Duy thức có ba nghĩa: 1.
Giản trì: giản là loại bỏ hai loại chấp ngã và pháp, trì là quán Y tha khởi và
đạt Viên thành thật; 2.
Quyết
định: vì nhận thức được Y tha khởi nên quyết định có thức tánh; 3.
Hiển
thắng: các thức tâm vương rất nhạy cảm và có khả năng biết một cách sáng suốt
với thiền định.
Thức có
năm nghĩa: 1.
Thức
tự tướng, chỉ cho 8 thức tâm vương; 2.
Thức
tương ưng: chỉ 6 vị tâm sở (51 tâm sở); 3.
Thức
sở biến: hai loại kiến phần và tướng phần; 4.
Thức
phần vị: chỉ 24 bất tương ưng hành; 5.
Thức
thật tánh: chơn như thật tánh.
Hai
nghĩa này luôn có mặt trong nhau nên gọi là duy thức. Lại
nữa, thức là
một trong các
pháp, nhưng thức có năng lực đặc biệt là phân biệt biết được cái khác và tự biết
được mình. Nó là chủ lực ở trong mỗi chúng sinh.
Các pháp khác không có năng lực này, chỉ có thức mới có năng lực này nên mới nói
là duy
thức.
Thêm nữa,
duy nghĩa là giản biệt, ngăn không
có ngoại cảnh; thức
nghĩa là liễu giải, biểu thị có nội tâm. Nói duy thức chính là đưa ra lời khai
thị, thức tỉnh mỗi người hãy tự giác, nhìn lại cái thiên biến vạn hóa ở ngay
trong mình để gạn lọc nó, trau dồi nó, tu tập chuyển hóa nó thành trí tuệ quang
minh.
1.2.
Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của Duy thức tông
Khoảng
900 năm sau khi Đức
Phật nhập diệt, Phật giáo xuất hiện hai nhà tư tưởng là Vô Trước (310-390) và
Thế Thân (320-400). Hai
ngài
đã lập ra Duy thức học, trở thành một trong những tông phái lớn của Phật giáo
Đại thừa Ấn Độ.
Khi mới
xuất hiện, Duy thức
được gọi là tông Du-già (Yogācārin). Ngài Thế Thân đã đặt tên cho trường
phái này là Duy thức, tức đặt mọi sự hiện hữu của ngoại cảnh nơi
thức.
Sau khi Ngài
Thế Thân qua đời, từ cuối thế kỷ thứ IV đến thế kỷ thứ VI, tư tưởng Duy thức
được nhiều luận sư và
học giả
nghiên cứu,
phát triển, trong
đó phải kể đến các vị
Đại luận sư
sau:
Hộ Pháp
(439-507), người có công truyền bá Duy thức sau khi Thế Thân qua đời;
trung tâm lớn nhất lúc bấy giờ là
Đại
học Na-lan-đà.
Đức
Huệ, người sáng lập trung tâm Valabhi, song song với Na-lan-đà, được xem là một
trong hai trung tâm lớn nhất,
tập trung nghiên
cứu Duy thức.
An Huệ
sống vào khoảng thế kỷ
IV,
ở miền Nam Ấn Độ. Ông đã chú thích bộ Duy thức
tam
thập
tụng
để tuyên dương giáo nghĩa của Duy thức. An Huệ có ý muốn dung hòa quan điểm
"thực tướng" của Long Thọ với quan niệm "nhất thiết duy tâm tạo" của Duy thức.
Trần
Na và Pháp
Xứng là hai luận sư kết hợp Duy thức với Kinh lượng bộ, lập ra môn Nhân minh học
nổi tiếng của Ấn Độ và Phật giáo, với cách tranh luận bằng
Nhân
minh để đả phá các học thuyết ngoại đạo và phát triển
Chánh
pháp. Đây
là một phương pháp tranh luận bằng lý luận và lô-gic.
Vào thế kỷ VII đời vua Đường Thái Tông, Ngài
Huyền Trang sang du học ở Ấn Độ.
Trải
qua thời gian học tập, Ngài đã
tiếp
nhận toàn
bộ giáo lý Duy thức, đặc biệt là Duy
thức
tam
thập
tụng
của Thế Thân. Sau khi về nước,
ngài
Huyền Trang dịch sang Hán
ngữ
các tác phẩm của Duy thức
và đặt
tên
gọi mới là Thành Duy thức luận, đồng thời viết tác phẩm Bát
thức
quy
củ
- trình bày tiến trình diễn biến nhận thức của tâm lý con người thông qua
tám
thức. Từ đó, Duy thức tông hay Pháp tướng tông phát triển rực rỡ tại Trung Hoa.
Học trò
xuất sắc của Huyền Trang là Khuy Cơ đã dịch Duy thức
nhị
thập tụng
và Duy thức
tam thập tụng
ra Hán ngữ,
hệ thống hóa lại tư tưởng của Duy thức. Ông viết nhiều bộ luận, tiêu biểu là bộ
Thành Duy thức luận thuật ký.
Những
kinh luận mà Duy thức học lấy làm căn cứ trực tiếp trong quá trình thành lập
trường phái này bao gồm
6
kinh và 11
luận.
Sáu
kinh gồm: Hoa
nghiêm,
Giải thâm
mật,
Như Lai xuất hiện công đức trang nghiêm, A-tỳ-đạt-ma, Lăng-già,
Hậu nghiêm.
Sáu bộ kinh này được Duy thức
tông
lấy làm kinh điển chính.
Mười
một bộ luận bao gồm: Du-già
sư địa luận,
Thế Thân tạo, Huyền Trang dịch; Đại thừa bách pháp minh môn luận, Thế
Thân tạo, Huyền Trang dịch; Nhiếp
Đại
thừa luận,
Vô Trước tạo, Chân Đế dịch; Biện trung biên luận, Thế Thân tạo, Huyền
Trang dịch; Đại thừa A-tỳ-đạt-ma tạp tập luận, Vô Trước tạo, Huyền Trang
dịch; Đại thừa trang nghiêm kinh luận, Vô Trước tạo, Ba-la-phả-mật-đa-la
dịch; Phân biệt Du-già
luận, Di
Lặc
thuyết; Hiển dương thánh giáo luận, Vô Trước tạo, Huyền Trang dịch;
Duy thức nhị thập tụng, Thế Thân tạo, Huyền Trang dịch; Duy thức
tam
thập tụng,
Thế Thân tạo, Huyền Trang dịch; Thập địa kinh luận, Thế Thân tạo, Bồ-đề-lưu-chi
dịch, 4 quyển.
Trong 6
kinh và 11 bộ luận này, Duy thức lấy
kinh
Giải thâm
mật
làm bản kinh gốc và Du-già
sư
địa
luận làm bản luận chính yếu.
Trải
qua quá trình thịnh suy, Duy thức học vẫn tồn tại mãi cho đến ngày nay. Nhờ có
Duy thức, hành giả mới hiểu sâu về tâm thức, cũng như cơ chế vận hành của nó,
lấy đó làm
nền tảng để đoạn trừ các phiền não lậu hoặc.
2. Tìm hiểu về Duy thức tánh
Duy
thức tông lập ra Ba tự tánh
và Ba vô
tánh nhằm
mục đích hiển bày Duy thức
trung
đạo. Trung đạo của Duy thức có đặc điểm
là kết hợp
Tam tự tánh và
Tam vô tánh tại nơi xuất phát. Duy thức cho rằng muôn pháp trong thế gian đều có
Ba tự tánh và Ba vô tánh. Ba tự tánh là nói rõ chẳng phải không;
Ba vô tánh là nói rõ không chẳng phải có;
duy cuối cùng thực tại là Duy thức thật tánh.
Thành Duy thức
nói: “Thắng
nghĩa của các pháp cũng chính là chân như. Chân là chân thật, biểu thị chẳng
phải hư dối; như là như thường, biểu thị không biến dịch. Thắng nghĩa này chính
là thực tánh Duy thức. Tánh Duy thức lược có hai thứ:
một
là tánh hư vọng, hai là tánh chơn thật.”
Do vậy,
Duy thức tông trình bày tánh của thức gồm có tánh hư vọng và tánh chân thật để
giúp người học nắm rõ được tánh của thức gồm có vọng và chân. Từ đó tiến hành tu
tập để thể nhập chân duy thức tánh.
2.1.
Tam tự
tánh
Tam
tự
tánh
có Biến kế sở chấp tánh, Y tha khởi tánh và Viên thành thật tánh.
Biến
kế sở chấp tánh: Còn gọi là Phân biệt tánh, Vọng kế tự tánh, Vọng phân biệt
tánh, Vọng tưởng tự tánh, Tự tánh giả lập (parikalpita-svabhava).
Luận
Thành Duy thức
nói về Biến kế sở chấp tánh
như sau:
Do biến kế nọ kia,
Biến
kế chủng chủng vật,
Biến
kế sở chấp này,
Tự
tánh toàn không có.
Do so
đo chấp trước mọi thứ nên gọi là Biến kế. Phẩm loại Biến kế rất nhiều cho nên
nói là nọ kia. Đó là tính hư vọng phân biệt Năng biến kế. Chính tính hư vọng
phân biệt năng Biến kế nọ kia mà chấp trước cùng khắp mọi vật bị biến kế; đó là
vọng chấp năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới,
v.v. là thật có ngã hoặc pháp với tự tánh và nghĩa sai biệt của nó.
Tự tánh
và nghĩa sai biệt ngã pháp được vọng chấp này chung gọi là Biến kế sở chấp tự
tánh. Chính tự tánh Biến kế chấp đó hoàn toàn không có, vì đem giáo lý suy xét
thấy nó không thể có được.
Cái
không có thật mà cho là có thật, cho là có những tính chất bất biến thế này thế
nọ, đó là vọng tưởng, vọng phân biệt, giả lập, biến kế. Rồi theo nó mà bám chấp,
bám luyến, gắn bó, dính chặt. Đó là những
gì
chúng ta có thể hiểu về Biến kế sở chấp.
Y tha khởi tánh (Paratantra-svabhava):
còn gọi là Duyên khởi tánh, Tương thuộc tánh. Y tha khởi: nương vào cái khác mà
khởi sinh.
Ngài
Suzuki dịch Y tha khởi tánh là cái biết ở phương diện tương đối (paratantra).
Đây là tính chất duyên sinh
tương thuộc của hiện hữu.
Luận
Thành Duy thức
nói:
“Tự tánh Y tha
khởi/ Do duyên phân biệt sinh”.
Kinh Lăng-già
nói: “Y tha khởi tánh sinh
khởi từ sự phân chia của chủ thể và đối tượng”.
Y tha
khởi tánh này có hai phần:
-
Phần nhiễm:
câu
“do duyên phân biệt sinh”
chỉ cho
phần bất
tịnh
của Y tha
khơi. Đối
với Phật giáo,
cái thấy có sinh
khởi thì chưa hoàn toàn là thật, còn vô minh. Trạng thái hết vô minh,
đạt giải
thoát được gọi là Vô sanh pháp nhẫn.
-
Phần tịnh:
tức
là “ở nơi y tha khởi này” mà không còn những phân biệt vi tế khiến thấy có sinh,
thì đây là tính chất thanh tịnh vô lậu của Y tha khởi. Đây cũng chính là Viên
thành thật tánh.
Viên
thành thật tánh (Parinispana-svabhava): còn gọi là Viên thành tự tánh, Đệ
nhất nghĩa đế thể tánh, Tự tánh tuyệt đối.
Viên
thành thật nơi đó (nơi Y tha khởi)
Thường xa lìa biến kế trước
Nên
nó và y tha
Không khác không chẳng khác
Như
tánh vô thường không khác không chẳng khác với các pháp vô thường
Thấy
tánh Viên thành này mới thấy tánh Duyên khởi kia.
Kinh
Giải thâm
mật nói:
“Viên thành thật tánh là Chân
như
bình đẳng của tất cả các pháp”. Người tu
Thánh
đạo, cứ y nơi các pháp nhân duyên hòa hợp kia (Y tha khởi tánh) mà xa lìa các
vọng chấp mê lầm ấy (biến kế sở chấp tánh), lúc bấy giờ Chơn như thật tánh hiển
hiện, nên gọi là “Viên thành thật tự tánh”.
Trên
Y
tha khởi tánh mà khởi
mê lầm vọng chấp thì gọi là “Biến kế sở chấp”; xa lìa được mê lầm thì gọi là
“Viên thành thật”.
Các hạt
giống hữu lậu trong tàng thức biến chuyển nối nhau trong từng sát-na, đó gọi là
“Y tha khởi tánh”. Thức Mạt-na
khởi vọng chấp cho là thật ngã nên các hạt giống hữu lậu xuất hiện ngăn che các
hạt giống vô lậu, nên gọi là “Biến kế sở chấp”. Khi ý thức tu hai pháp quán
không, khiến ngã chấp của Mạt-na thành “vô ngã”, các hạt giống hữu lậu chấm dứt,
chỉ còn hạt giống vô lậu, đây gọi là “Viên thành thật tánh”.
2.2.
Tam vô tánh
Tam vô
tánh là Tướng vô tánh, Sanh vô tánh và Thắng nghĩa vô tánh. Ba vô tánh này dựa
vào Ba tự tánh mà lập ra. Kinh Giải
thâm
mật,
phẩm Vô tự tánh nói: “Các
thầy phải lắng nghe thật kỹ,
tôi vì các thầy giải thích mật ý tất cả pháp
đều
không có tự tánh, xưa nay, tự tánh không sinh không diệt, vắng lặng, phải biết
Ta nương vào ba loại tánh của Vô tự tánh mà mật ý nói. Tất cả pháp đều Vô tự
tánh, gọi là tánh của Vô tự tánh, tánh của Sanh vô tánh, tánh của Thắng nghĩa vô
tánh.”[1]
Như ta
đã biết, Đức
Thế Tôn đề cập Tam tự tánh kỳ thật không có cái “tự tánh” nào cả. Ba tự tánh ấy
chỉ là sản phẩm của sự hiểu biết sai lầm, từ ý niệm nhận thức có
ngã
có thường
mà sinh
ra khổ đau luân hồi, trước vạn pháp vốn dĩ
vô
ngã. Đức Thế Tôn nói: “Tất
cả pháp không tự tánh”,
đây mới là then chốt, lập trường, là tôn chỉ của giáo lý
nhà Phật.
Bởi
vì chúng sanh chấp tất cả pháp là thật có, vì phá trừ vọng chấp này nên
Đức
Phật phương tiện mật ý nói
Tam vô tự tánh:
tất cả pháp đều không có tự tánh. Dùng ba loại thuốc này đối trị ba loại bệnh
vọng chấp.
Tức
y thử tam tánh Sơ tướng tức
vô
tánh
Lập
bỉ tam vô tánh Thứ
vô
tự
nhiên
tánh
Cố
Phật
mật ý thuyết Hậu do viễn ly tiền
Nhất
thiết pháp vô tánh. Sở chấp
ngã,
pháp
tánh.
Tướng vô tánh:
tướng này dựa vào
tánh Biến kế sở chấp mà lập ra. Tự tánh Biến kế
sở
chấp nằm ở chỗ
chúng ta tin vào thường và ngã mà sinh
ra. Chính vì vậy mà thành ra có ngã chấp và pháp chấp, cũng tức là tánh Biến kế
sở chấp, pháp do biến
kế mà ra, cũng như sợi dây mà tưởng nhầm là con rắn, rồi tâm thức sinh
ra sợ hãi. Tướng ấy không thật có, vì thế mới gọi là Tướng vô tánh. Kinh Giải
thâm
mật
nói: “Này
người nam lành, sao gọi các pháp là Tướng vô tánh. Vì tướng Biến kế sở chấp của
các pháp. Vì lý
do gì, đây là do giả danh đặt tên làm tướng, chẳng do tự tướng đặt tên thành
tướng. Đó là lý
do nói rõ tánh của tướng Vô tự tánh.”[2]
Sanh
vô tánh:
Đây
là dựa vào tánh Y tha khởi mà lập ra,
tức là tất
cả pháp do nương tựa vào nhân duyên mà sinh
khởi, nên gọi là Y tha khởi. Pháp này dựa vào cái khác mà khởi lên, do nhân
duyên hòa hợp mà có, mà đã do nhân duyên hòa hợp thì chắc chắn là
vô
ngã. Đã vô
ngã tức không có một thật thể bất biến, chính là duyên khởi tánh không.
Ở đó
các pháp là không có thật thể, nên gọi là Sanh vô tánh. Kinh Giải
thâm
mật
nói: “Sao
gọi là các pháp Sanh vô tự tánh? Vì các pháp nương vào cái khác khởi ra tướng.
Vì lý
do gì? Tướng này do dựa vào sức mạnh của duyên khác, nên có mà không phải tự
nhiên có. Đó là lý
do nói tánh Sanh vô tự tánh.”[3]
Tuệ
giác về duyên sinh pháp cho thấy vạn sự vạn vật đều tồn tại trong quan hệ hỗ
tương, làm điều kiện cho nhau hình thành và hoại diệt. Thế nên làm gì có thật
thể bất biến trong các điều kiện ấy được, do đó không có bất cứ sự vật hiện
tượng nào trên đời là vĩnh hằng, thường trụ, thuần nhất và bất biến cả.
Trong kinh
Tương
ưng
Đức
Phật dạy: “Này các
Tỷ-kheo,
cái gì không phải của các ông, hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó sẽ đem lại hạnh phúc an
lạc cho các ông. Cái gì không
phải của các ông? Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, không phải của các ông, vì chúng
là do nhân duyên sinh,
không có thật, hãy từ bỏ nó. Từ bỏ nó sẽ đem lại hạnh phúc, an lạc cho các
ông...”
[4]
Thắng
nghĩa vô tánh:
Đây
là nương vào tánh Viên thành thật mà lập ra. Viên thành thật tức là chân như.
Chân như là viên (tròn), là thường (luôn có mặt), là thật tánh của tất cả pháp
hữu vi. Đó là lý
thể tuyệt đối, vĩnh hằng, là sự hiển lộ của hai không ngã và pháp. Kinh Giải
thâm
mật
nói: “Lại có tướng Viên thành thật của các pháp, cũng gọi là tánh Thắng nghĩa
vô tự tánh. Vì lý
do gì? Tất cả các pháp, pháp không có ngã tánh gọi là thắng nghĩa, cũng gọi là
tánh vô tự tánh. Đó là sự thật của các pháp thắng nghĩa, là sự hiển lộ của tánh
Vô tự tánh. Do nhân duyên này gọi là tánh Thắng nghĩa vô tự tánh.”[5]
Luận
Thành Duy thức
đề cập Thắng nghĩa đế lược có bốn thứ:
-
Thế gian Thắng nghĩa: đó là năm uẩn, 12 xứ, 18 giới...
-
Đạo lý
Thắng nghĩa: đó là bốn Diệu
đế.
-
Chứng đắc Thắng nghĩa: đó là Chân Như được hiển lộ bởi hai
không.
-
Thắng nghĩa thắng nghĩa: đó là pháp giới nhất chân.
Chữ
Thắng ở trong bài tụng là chỉ cho Thắng nghĩa thứ tư, vì đây là nghĩa lý
của đạo phẩm tối thắng tu chứng, và để giản biệt với ba Thắng nghĩa đầu.
Luận
Thành Duy thức,
quyển 8 nói: Ba
loại tự tánh đều là pháp không lìa Tâm, Tâm sở. Vì Tâm, Tâm sở và những gì được
biểu hiện đều do nhiều duyên sinh
ra, giống như ảo thuật chẳng phải có mà dường như có. Những kẻ ngu si lầm lạc,
tất cả đều gọi là tánh Y tha khởi. Kẻ ngu do đây chấp chặt có ngã, có pháp, có
không, một khác... Như bóng dáng hoa
đốm
giữa hư không, chẳng có tánh, tướng, tất cả đều gọi là bị vướng mắc do Biến kế
khởi lên từ Y tha. Ngã, pháp bị chấp ấy đều không, cái không này làm hiển lộ
chân tánh của các thức. Đó là lý
do ba tánh này không lìa Tâm, Tâm Sở và hiện tượng.
2.3.
Duy thức thật tánh
Như đã
biết, thức không tự nó sanh ra mà cần có các yếu tố nhân duyên hòa hợp mà thành.
Nếu vậy thì thức chỉ là một khái niệm không có thật thể, tùy vào từng trường hợp
mà biểu hiện công năng khác nhau. Như vậy, thật tánh của Duy thức là gì? Bài
tụng thứ 25 nói rõ vấn đề ấy:
Thử
chư pháp thắng nghĩa
Diệc
tức thị chân như
Thường như kỳ tánh cố
Tức
Duy thức thật tánh.
Luận
Thành Duy thức
nói: “Thắng nghĩa của các pháp cũng chính là chân như. Chân là chân thật,
biểu thị chẳng phải hư dối; như là như thường, biểu thị không biến dịch. Thắng
nghĩa này chính là thực tánh Duy thức. Tánh Duy thức lược có hai thứ: một là
tánh hư vọng, hai là tánh chân
thật.”
[6]
Chân
như trong Phật pháp là chân lý
tối cao;
tu tập Duy thức không ngoài dứt sạch hai chấp, hai chướng, chứng được hai không
là ngã không và pháp không, chuyển thức thành trí, chứng quả Niết-bàn.
Dựa vào
nội dung bài kệ trên thì Biến kế sở chấp và Y tha khởi trong Ba tự tánh đều
không phải là thật tánh của các pháp. Chỉ có Viên thành thật mới là thật tánh
của các pháp. Đứng về phương diện Duy thức mà nói, thật tánh các pháp này cũng
chính là thật tánh của Duy thức, cho nên tụng văn nói: “Tức
Duy thức thật tánh.”
Liên hệ
với
kinh tạng Pāli thì vấn đề này
đã
được
Đức
Phật đề cập ngay từ
buổi đầu.
Trong kinh
Tương ưng,
Đức
Phật dạy: “... Này
các Tỷ-kheo,
phàm có sắc, thọ, tưởng, hành, thức gì thuộc quá khứ, vị lai hay hiện tại, hoặc
nội hay ngoại, thô hay tế, liệt hay thắng, xa hay gần. Vị
Tỷ-kheo
thấy sắc (thọ, tưởng, hành, thức) chuyên chú, như lý quán sát về sắc (thọ,
tưởng, hành, thức). Sắc... thức ấy hiện ra rõ ràng là rỗng không, hiện ra rõ
ràng là không có lõi cứng, hiện ra rõ ràng là trống không. Làm sao, này các
Tỷ-kheo
có lõi cứng trong sắc... thức.”[7]
Như
vậy, gốc rễ của mọi bất hạnh đều xuất phát từ sự nhận thức sai lầm rằng có một
cái tôi, là của tôi, là tự ngã của tôi trong và ngoài tấm thân ngũ uẩn. Theo
Đức Phật,
cái mà chúng ta luôn lầm chấp là tôi, của tôi, thực chất là rỗng không, trống
không. Nhận thức về tánh duyên sanh
giúp
thấy rõ tánh vô
thường, vô
ngã của vạn vật. Muốn
thực chứng
Niết bàn chân như phải tiếp xúc với thực tại vô thường và vô ngã. Như vậy thật
tánh của Duy thức cũng chính là “rỗng không” đó vậy.
3. Ứng dụng tu tập
Duy thức
tánh được lập ra mục đích giúp hành giả nhận thức được bản chất của mọi sự vật
hiện tượng, từ đó nỗ lực hành trì, chuyển Thức thành Trí.
Đối với các kiến thức đã được lãnh thọ, tùy
vào nghiệp lực chi phối và khả năng nhận thức, mỗi hành giả sẽ có cách ứng dụng
riêng để đem đến lợi ích thiết thực cho bản thân.
Muốn
liễu đạt Duy thức thật tánh, hành giả cần minh lý Tam tự tánh và Tam vô tánh.
Mặt khác, Tam vô tánh được lập ra từ Tam tự tánh, gạt bỏ tâm lý chấp có tự tánh,
giúp hành giả có một cái nhìn tương đối thấu đáo các hiện tượng, không bị thức
dối gạt.
Tuy nhiên, trước mọi hiện tượng sanh diệt
biến đổi, để có cái thấy trọn vẹn, chính xác của Duy thức Thật tánh, hành giả
cần phải huân tu các công hạnh, thông đạt được Tam tự tánh.
3.1.
Đối với Biến kế sở chấp tánh
Con
người luôn dùng tâm thái chủ quan của mình để nhìn, nhận xét và phán xét mọi
vật, phán xét người khác. Vì thế đời sống của chúng ta phần nhiều gắn với thế
giới phân biệt hư vọng.
Dưới sự
điều khiển của tâm
thức, tính khách quan trong nhận thức sẽ không được chủ thể thực hiện. Hầu như
mọi thực tại mà tâm
nhận thức được đều là một sản phẩm không thật do thức biến hiện, hoàn toàn không
phù hợp với bản chất của sự vật.
Trong
đời sống, hầu như chúng ta thường không nhận ra điều này.
Chúng ta
luôn cho rằng, mọi suy nghĩ và hành động của mình luôn đúng với thực chất của nó.
Đây chính là
nguyên nhân căn bản dẫn đến những nhận thức sai lầm, khổ đau của mỗi người.
Phương pháp tu tập ở đây là bỏ Biến kế sở
chấp
để
trở về với
Y tha
khởi và
Viên thành thật. Biến kế sở chấp có mặt là do sự tin vào thường, vào ngã. Đó là
cái thấy thông tục của những người không có tu học, của những người vô minh.
Thực tại đối với họ là có thường và có ngã. Thực tại có thường và có ngã là một
thực tại mang màu sắc của Biến kế chấp.
Vì vậy
người tu học phải sử dụng hai chìa khóa Vô thường và Vô ngã để quán chiếu sự vật
và đạt tới cái thấy Y tha khởi.
3.2.
Đối với Y tha khởi tánh
Để làm
hiển lộ Y tha khởi tánh hay tánh Duyên khởi, chúng ta
cần
quán duyên khởi.
Chúng ta cần đưa tất cả mọi cái thấy nghe hay biết (mọi hiện tượng, mọi pháp) về
với thực tánh
của chúng là tánh duyên khởi,
nhờ
đó chúng ta thể
nghiệm được sự thật của chúng là vô thường, khổ, không và vô ngã.
Quán
chiếu tính Y tha
Vô
minh thành tuệ giác.
Luân
hồi và chân như
Tuy
hai mà thành một.
Nếu
sống trong chánh niệm để có thể thấy được tính
Y
tha khởi trong lòng sự vật thì chúng ta có thể chuyển vô minh thành tuệ giác. Có
chánh niệm về bản chất tương tức tương nhập của vạn hữu là chìa khóa của sự
chuyển hóa.
3.3.
Đối với Viên thành thật tánh
Chánh
niệm, tỉnh giác, quán chiếu liên tục về
vô
thường, vô
ngã,
hành giả sẽ có được tuệ giác
vô
thường, vô
ngã. Khi đó hành giả sẽ thấy được tính cách Y tha khởi của sự vật và tiếp xúc
được Viên thành thật tánh.
Hành
giả cần biết rằng
giáo lý vô
thường và vô
ngã chưa phải là tuệ giác về
vô
thường, vô
ngã. Chúng ta có thể hiểu rất rõ, nói rất hay về
vô
thường, vô
ngã nhưng đó chỉ mới là giáo lý mà thôi. Chỉ khi nào dùng chánh niệm mà sống đời
sống hằng ngày, quán chiếu sự vật để chứng nghiệm được tự tính
vô
thường, vô
ngã thì mới gọi là tuệ giác
vô
thường, tuệ giác vô
ngã.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Mạnh Thát
(2006), Triết học Thế Thân, NXB.TP.
HCM.
2. Paramārtha -
Chân Đế, Giải Minh dịch (2012), Duy thức triết học, NXB.Phương
Đông, TP.HCM.
3. Thích Nhất Hạnh
(1969), Vấn đề nhận thức trong Duy thức học, NXB.Lá
Bối.
4. Thích Thiện Siêu
dịch và chú (2006), Thành Duy thức luận, NXB.Tôn
Giáo,
Hà Nội.
5. Vu Lan Ba, Thích
Quang Tư dịch (2004), Duy
thức
tam
thập
tụng giảng ký,
lưu hành nội bộ, Huế.
6. Tuệ Sĩ dịch và
chú giải (2009), Luận Thành Duy thức, NXB.Phương
Đông, TP.HCM.
7. ĐTKVN (2000),
Tương ưng
bộ
III, NXB.Tôn
Giáo, Hà Nội.
8. HT.Thích Trí
Quang dịch (2018), Kinh Giải
thâm
mật,
NXB.Tổng
Hợp,
TP.HCM.
9. Thích Nhất Hạnh,
Duy biểu
học,
bản PDF.