Sơ lược truyền thừa phái Ni dòng Lâm Tế miền Bắc
Sơ lược truyền thừa phái Ni dòng
Sơ lược truyền thừa phái Ni dòng Lâm Tế miền Bắc
1. Nguồn sử liệu
Trước hết, xin giới thiệu Thiền môn tu trì kinh chú luật nghi do Hòa
thượng Phúc Điền (1784-1863) biên soạn và được khắc bản năm Giáp Thìn (1844)
niên hiệu Thiệu Trị thứ tư.
Đây là bộ Nhật tụng tam khóa (sáng, trưa và chiều), tăng bổ khóa trưa. Gần cuối
sách có phần “Bản quốc chư Tổ kế đăng” chiếm 6 tờ nằm ở tờ 109 đến tờ 114. Chưa
rõ lý do gì Hòa thượng lại đưa phần ghi chép truyền thừa hai phái Lâm Tế, Tào
Động vào tập sách. Có một số tiểu đoạn ghi chép về truyền thừa Ni phái, tập
trung chủ yếu ở tờ 114a. Đây là phần ghi chép sơ lược, là cơ sở ban đầu để hình
thành nên tập Thiền uyển truyền đăng lục, quyển hạ.
Thiền uyển truyền đăng lục là một bộ sách gồm 5 quyển do Hòa thượng Phúc
Điền dựa trên các Thiền sử để biên soạn. Bài tựa “San khắc truyền đăng thủ trần
gia bản” nằm ở đầu sách Kế đăng lục
cho biết, bốn quyển đầu thì soạn giả lấy hai sách Thiền uyển tập anh, Kế đăng
lục (ba quyển: nhất, tả và hữu) để in lại, quyển hạ do chính ngài biên tập.
Trong tủ sách của chúng tôi có hai quyển thượng, hạ sách Thiền uyển truyền
đăng lục. Quyển hạ, nội dung có 65 tờ và 8 tờ phương danh công đức. Tờ đầu,
mặt a bị sờn, hư một số chỗ ở phần trên và dưới, được bồi hồ để giữ gìn.
Kết cấu sách được phân chia như sau: 10 tờ đầu, soạn giả ghi chép các sử liệu về
Tứ pháp, sơ khởi thiền học Đại Nam, danh đức triều Trần, hình ảnh và hành trạng
ba vị Tổ sư phái Trúc Lâm Yên Tử. Tờ 11 đến tờ 43 ghi chép truyền thừa các chùa
ở các tỉnh Hà Nội, Sơn Tây, Bắc Ninh, Hải Dương, chú trọng Thiền phái Lâm Tế. Tờ
43b đến tờ 51 ghi chép sự ủng hộ của vua, quan triều Nguyễn đối với Phật giáo,
cũng như danh sách các chùa ở kinh đô cùng các tỉnh thuộc miền Trung, miền Nam.
Phần sau là bài văn Nôm Thượng đường, các bài dịch Nôm và giải thích các
thuật ngữ Tam giáo.
Trong bài nghiên cứu này, chúng tôi chú trọng phần ghi chép của Hòa thượng Phúc
Điền về Ni giới phái Lâm Tế nằm từ tờ 42a5 đến tờ 43b1, chiếm hơn 1 tờ rưỡi,
tương đương với 3 trang. Phần này nằm phía sau phần ghi chép truyền thừa chùa
Hoằng Ân (tức chùa Quảng Bá, Hà Nội), nằm phía trước mục “cung lục” ghi chép các
vua quan triều Nguyễn ủng hộ Phật Giáo. Đây là nguồn tư liệu chính để khảo về
phái Ni, ghi chép truyền thừa các chùa thuộc tỉnh Hà Nội xưa, giới thiệu những
vị Ni ở các tỉnh Bắc Ninh, Nam Định, Sơn Tây và Hưng Hóa. Hòa thượng Phúc Điền
viết phái Ni không nhiều, nhưng đối với tư liệu Hán Nôm, những ghi chép sơ lược
vẫn là nguồn tư liệu quý hiếm.
Chúng tôi sử dụng thêm tư liệu văn khắc, nhất là văn bia các chùa, đôi khi còn
dùng văn chung liên quan đến các vị trụ trì thuộc Ni phái. Văn bia, văn chung
thường bổ sung sử liệu về hành trạng. Các ấn bản khắc in kinh sách thực hiện từ
triều Cảnh Thịnh nhà Tây Sơn đến triều Nguyễn cũng được sử dụng tham khảo. Các
vị Tỳ-kheo-ni, Sa-di-ni xuất hiện trong phần pháp cúng ở cuối kinh. Ghi chép đạo
hiệu, ngôi chùa sở tại cùng số tiền đóng góp. Đôi khi một số bản in có tựa, bạt
giới thuyết sơ lược về vị khắc bản thuộc Ni giới. Trong đó, phần cung tiến Tôn
sư cũng được chú trọng, nhằm biết được vị thầy của vị Tỳ-kheo-ni đó, cơ sở để
lập sơ đồ phổ hệ.
Chúng tôi còn sử dụng các Cúng tổ khoa, Cúng Tôn sư khoa tại các chùa.
Mảng tư liệu này có số lượng lớn, nhưng chỉ mới tìm được một số khoa tại chùa
Tam Huyền, Mộc Quan Nhân, Bồ Đề, Triệu Khánh. Đáng chú ý Thỉnh tôn sư khoa
tức khoa cúng cho Tỳ-kheo-ni Diệu Chấn, bản gốc lưu tại chùa Triệu Khánh. Học
giả Lê Quốc Việt nhã ý cung cấp phỏng ảnh. Nhân đây, xin tri ân.
Đó là những nguồn tư liệu chính để khảo về sự truyền thừa phái Ni dòng Lâm Tế
tại Hà Nội. Bước đầu, chỉ sơ khảo truyền thừa là chính, giới thiệu một số chùa
Ni xưa. Tất cả nằm trong khung thế kỷ XIX, dưới triều Nguyễn trị vì.
2. Phái Ni trong Thiền uyển truyền đăng lục, quyển hạ
Xin trích dịch đoạn có liên quan như sau: “Hà Nội, chùa Liên Tôn, phái Ni Lâm
Tế, Đại Tỳ-kheo-ni Thiện Quang Diệu Nhẫn Tổ sư khai sơn chùa Phúc Thung, xã Nam
Dư. Truyền xuống đời thứ 2 Đại Tỳ-kheo-ni Diệu Trinh, truyền xuống đời thứ 3 Đại
Tỳ-kheo-ni Diệu Thành, truyền xuống đời thứ 4 Tỳ-kheo-ni Diệu Cần.
Tỳ-kheo-ni Diệu Chấn chùa Tiên Động, Sài Sơn, tỉnh Sơn Tây, truyền xuống thứ
hai Đại Tỳ-kheo-ni Diệu Bính khai sơn chùa Phổ Quang, truyền xuống đời thứ ba
Đại Tỳ-kheo-ni Diệu Tuấn, truyền xuống đời thứ tư Đại Tỳ-kheo-ni Diệu Chính chùa
Mai Động. Truyền xuống đời thứ 4 Tỳ-kheo-ni pháp danh Từ Niệm trụ trì chùa Hàm
Long huyện Từ Liêm.
Đại Tỳ-kheo-ni pháp danh Thanh Cần sơ khai chùa Thái Cam, Thọ Xương. Sư thanh
đồng xuất gia, quê người thôn Nhân Mục quan, họ Nguyễn. Lúc đầu đến chùa Sùng
Phúc trong thôn, hạ đao cắt tóc, học tập tu trì. Năm Minh Mạng thứ ba, sư tạo
điện Tiên Linh, các chùa Bồ Đề, Thái Cam, Sùng Phước, tạo tượng đúc chuông công
đức viên thành, mở hội lớn khánh thành, việc xong cung thỉnh Hòa thượng [chùa]
Tam Huyền, Hòa thượng Phúc Điền thọ giới Bồ-tát. Năm 70 tuổi, dám xin Hòa thượng
Phúc Điền cho đệ tử Tỳ-kheo-ni pháp danh Kim Tuế, lập làm Thượng tọa sơn môn,
thống lĩnh ba chùa Thái Cam, Bồ Đề, Sùng Phúc, ngày đêm hương đèn phụng thờ,
thầy trò truyền trao, nối đèn Phật Tổ để giữ đạo hiếu. Truyền xuống đời thứ 2
Tỳ-kheo-ni pháp danh Kim Tuế, họ Trần quê người Thổ Khối, Gia Lâm, Bắc Ninh. Năm
Ất Tỵ, đến chùa Thái Cam xuất gia. Đến năm Bính Ngọ, cung thỉnh Hòa thượng Phúc
Điền thọ giới Sa-di. Đến năm Canh Tuất (1850), y chỉ Hòa thượng Phúc Điền tiến
thọ giới Tỳ-kheo-ni. Năm Mậu Ngọ (1858), thọ giới Bồ-tát, đệ tử 3 người thọ giới
Sa-di.
Tỳ-kheo-ni pháp danh Kim Đài chùa Phúc Lâm, Tam Cức, Yên Phong, tỉnh Bắc
Ninh, quê người xã Đỗ Xá, Đường Hào, Hải Dương, họ Nguyễn. Năm 17 tuổi xuất gia,
lúc đầu đến chùa Tiêu Sơn y chỉ [thọ] tam quy ngũ giới. Ngày sau cầu Hòa thượng
Phúc Điền thọ giới Sa-di, Bồ-tát.
Đại Tỳ-kheo-ni Diệu Thận khai sơn chùa Địa Linh, Tây Hồ, Hà Nội. Truyền xuống
đời thứ 2 Đại Tỳ-kheo-ni Diệu Quýnh, truyền xuống đời thứ 3 Tỳ-kheo-ni Diệu
Thùy, truyền xuống đời thứ 4 Tỳ-kheo-ni Diệu Đạo.
Đại Tỳ-kheo-ni Diệu Vượng khai sơn chùa Cung Thận, tỉnh Sơn Tây truyền xuống
đời thứ 2 Tỳ-kheo-ni Diệu Lạn, truyền xuống đời thứ 3 Tỳ-kheo-ni Diệu Tuấn.
Đại Tỳ-kheo-ni Minh Kính khai sơn chùa Trúc Phê Linh Quang, tỉnh Hưng Hóa,
truyền xuống đời thứ 2 Tỳ-kheo-ni Diệu Từ.
Hòa thượng Phúc Điền khai sơn chùa Hoàng Vân thôn Nhuệ, Đan Phượng, tỉnh Sơn
Tây truyền xuống đời thứ 2 Tỳ-kheo-ni pháp danh Quang Cảnh. Tỳ-kheo-ni pháp danh
Diệu Nghĩa chùa Đại Để, tỉnh Nam Định”.
Đó là sự truyền thừa các chùa ở Hà Nội như Phúc Thung, Phổ Quang, Triệu Khánh
(Mai Động), Thái Cam, Sùng Phúc, Bồ Đề, Địa Linh… Ghi chép đơn giản về truyền
thừa chùa Phúc Lâm tại tỉnh Bắc Ninh. Tỉnh Sơn Tây thì ghi chép truyền thừa ở
chùa Hoàng Vân, Cung Thận. Ghi được hai đời trụ trì chùa Linh Quang ở tỉnh Hưng
Hóa. Đối với chùa Thái Cam, Hòa thượng công bố được sơ lược hành trạng hai vị Ni
là Thanh Cần và Kim Tuế. Hai vị có quan hệ với soạn giả tập sách và cùng là giới
tử của Hòa thượng Phúc Điền.
3. Khảo về phái Ni dòng Lâm Tế
Đầu tiên bàn đến truyền thừa chùa Phúc Thung
福椿寺.
Đây là ngôi chùa thuộc chốn Tổ Liên Tông,
Đệ tam tổ chùa Liên Tông
là Hòa thượng Từ Phong Hải Quýnh kiêm quản trụ trì. Ngài nhận chùa Phúc Thung
dưới triều Tây Sơn và giao cho đệ tử Ni làm đương gia, chăm sóc và nuôi dưỡng Ni
chúng. Do đó, trong Thiền uyển truyền đăng lục, quyển hạ, Hòa thượng Phúc
Điền xếp chùa Phúc Thung lên làm đầu và cho rằng “Hà Nội, Liên Tôn tự Lâm Tế
Ni phái 河内蓮尊寺臨濟尼派”.
Sách cho Đại Tỳ-kheo-ni Thiện Quang Diệu Nhẫn khai sơn chùa Phúc Thung là chưa
chính xác. Căn cứ Vân Thê quy ước (AC. 567) khắc bản năm Cảnh Hưng thứ 36
(1775), cuối phần mục lục có ghi: “Phúc Thung tự Tỳ-kheo-ni hiệu Diệu Châu,
kế đăng hiệu Diệu Nhẫn hộ kinh”. Ni sư Diệu Châu là thầy của sư Diệu Nhẫn và
đều là học trò của Hòa thượng Hải Quýnh. Thiền uyển truyền đăng lục,
quyển hạ mục truyền thừa chùa Liên Tôn, tờ 28b có đoạn ghi chép: “Chùa Hộ
Quốc giáp Yên Khánh, khai sơn Tổ sư Lân Giác thượng sĩ. Truyền xuống đời thứ 2
Đại Tỳ-kheo-ni Thiện Quang Diệu Nhẫn. Sư họ Phạm quê xã Thổ Khối, tỉnh Bắc Ninh,
từ nhỏ xuất gia. Năm 80 tuổi, một hôm an tọa niệm Phật quay về hướng Tây mà tịch”.
Hành trạng Ni sư Diệu Nhẫn chỉ biết sơ lược, niên đại thuộc thế kỷ XVIII. Sư có
thể viên tịch đầu niên hiệu Gia Long triều Nguyễn, từng kế thừa trụ trì chùa
Phúc Thung, Hộ Quốc và thừa lệnh Hòa thượng Hải Quýnh, sư đứng ra hưng công khắc
ván trùng san Ngũ đăng hội nguyên vào năm Cảnh Thịnh thứ 5 (1797). Quyển
thủ, tờ 37a ghi danh sách chư Ni ủng hộ khắc kinh như sau: “Tỳ-kheo-ni Diệu
Nhẫn, Diệu Lý, Diệu Bính, Diệu Chính, hiệu Tịch Hân, Diệu Khiết, Diệu Linh, Diệu
Nghiêm cùng khắp tông đồ hàng pháp tử, pháp tôn, pháp điệt; hiệu Diệu Hậu”.
Điều đó cho thấy Phúc Thung là cơ sở truyền thừa phái Ni của phái Liên Tông.
Truyền thừa của chùa Phúc Thung cũng truyền sang quê sư Diệu Nhẫn là xã Thổ
Khối, với ngôi chùa Sùng Phúc.
Bài tựa sách Kiến tính thành Phật do Hòa thượng Chân Nguyên Tuệ Đăng
soạn, bản in này, đoạn cuối được in thêm vào giới thiệu người tổ chức khắc ván
như sau:
“Nay, Sa-di-ni hiệu Diệu Thịnh là người Kiêu Kỵ, Gia Lâm. Sinh ra được 7
tuổi, bỗng nghe đạo Phật, vui theo được ý chỉ nơi Tỳ-kheo-ni chùa Phúc Thung, rõ
thấu chân như. Đến năm Mậu Dần, 21 tuổi đến chùa Sùng Phúc, Thổ Khối thọ giới
Bồ-đề, ngày tháng gìn giữ, hiểu giác tính vốn đều không…”.
Sách trùng san mùa xuân năm Ất Dậu (1825), Minh Mạng thứ 6 có mời “Thân sư
Sa-di-ni hiệu Diệu Nhân chứng san, đồng đồ Sa-di-ni hiệu Diệu Nghị hộ san”.
Năm Mậu Dần, sư Diệu Thịnh 21 tuổi, tức năm 1818, suy ra sư sinh năm 1798. Bài
tựa, sư kể mình xuất gia tại chùa Phúc Thung. Dựa theo truyền thừa thì lúc này,
Phúc Thung do Tỳ-kheo-ni Diệu Trinh trụ trì. Truyền thừa Ni phái tại chùa Sùng
Phúc, Thổ Khối hiện vẫn chưa tìm được các sử liệu. Đây là ngôi chùa do phái Ni
trụ trì từ xưa cho đến ngày nay.
Diệu Trinh trong Đại Phương quảng bát Như Lai trí đức bất tư nghị kinh in
năm Mậu Tuất (1838), Minh Mạng thứ 19
ghi là Trinh Tường với tháp hiệu Viên Quang, tức sư đã viên tịch. Lúc này, chùa
do Tỳ-kheo-ni Thích Thành kế thừa. Thích Thành được Thiền uyển truyền đăng
lục ghi là Diệu Thành. Các Tỳ-kheo-ni ghi tên hiệu giống như tên hiệu của
các vị nữ tại gia.
Hai vị Tỳ-kheo-ni Diệu Bính (?-?) và Diệu Chấn (1754-1836)
đều là môn đồ của Hòa thượng Từ Phong Hải Quýnh. Diệu Bính xuất hiện trong bản
in Ngũ đăng hội nguyên, đứng sau hai vị Diệu Nhẫn và Diệu Lý. Khi chùa Am
cửa Bắc (Phổ Quang tự hay Phổ Quang viện) được hình thành thì sư được cung thỉnh
về trụ trì. Chùa Phổ Quang do bà Châu Thị Tế, vợ của quan Thoại Ngọc hầu lập đầu
niên hiệu Gia Long (1802-1820).
Diệu Chấn là học trò của Diệu Bính. Hòa thượng Phúc Điền đã đưa Diệu Chấn lên vị
trí đời thứ nhất và cho Tỳ-kheo-ni Diệu Bính khai sơn Phổ Quang tự. Những ghi
chép này không có tính thuyết phục. Lại cho Diệu Chấn xuất thân từ “chùa Tiên
Động, núi Sài, tỉnh Sơn Tây”. May chúng ta còn tham khảo Thỉnh tôn sư khoa,
thì biết rõ, Diệu Chấn vốn họ Bùi, người Phí Xá, Thanh Miện, Hải Dương. Bà xuất
thân là cung nữ hầu phủ chúa Trịnh. Khi Tây Sơn đánh ra Bắc Hà, thì bà mới đi ở
ẩn và bén duyên với Phật pháp, được thọ học với Hòa thượng Hải Quýnh, chùa Liên
Tông. Sau đó, xuất gia với vị Ni trụ trì chùa Quảng Nghiêm (chùa Trăm Gian) ở
Chương Mỹ. Khoa cúng không ghi đạo hiệu của vị thầy sư Diệu Chấn, nhưng ta đoán
đó là Diệu Bính. Khi tình hình Phật giáo ổn định, Diệu Bính được thỉnh về Phổ
Quang thì Diệu Chấn nghiễm nhiên an trụ nơi chùa Triệu Khánh (Mai Động). Sư được
tôn xưng là vị Tổ đầu của chùa Triệu Khánh và đệ nhị trụ trì chùa Phổ Quang.
Năm Minh Mạng thứ 8 (1827), Tâm địa giới Diệu Chấn được sự hậu thuẫn của các vị
thiện tín đứng khắc ván bộ Nhân vương hộ quốc Bát-nhã kinh. Sư cung thỉnh
Hòa thượng Giác Trí Thanh Lương chùa Tiêu soạn tựa và Hòa thượng Vô Sinh Tính
Tĩnh chùa Quỳnh Lâm chứng san. Cuối tựa, sư cung tiến cho “Tôn sư Từ Phong
tháp Liên Tông Hòa thượng Sa-môn Hải Quýnh Chiêu Chiêu chứng san. Bản sư Viên
Tịnh tháp Tỳ-kheo-ni hiệu Diệu Bính chứng san”.
Hòa thượng Hải Quýnh Chiêu Chiêu là vị truyền giới và sư Diệu Bính là thầy nuôi
dưỡng sư nên người. Lúc này, Diệu Bính đã viên tịch và Diệu Chấn qua Phổ Quang
tự kế thừa trụ trì. Sư giao chùa Phổ Quang cho đệ tử mình là Tỳ-kheo-ni Diệu
Tuấn, còn chùa Triệu Khánh do Tỳ-kheo-ni Diệu Chính trông coi.
Đây là hai vị cao đệ của sư Diệu Chấn. Hai thầy trò Diệu Bính và Diệu Chấn mở
rộng truyền thừa, không còn hành đạo ở khu vực Thanh Trì mà lan truyền vào trung
tâm của thành Thăng Long xưa. Chùa Phổ Quang được các thế hệ Ni liên tục trùng
tu tôn tạo, với những vị Ni trưởng luôn ủng hộ khắc bản in kinh. Tỳ-kheo-ni
Nguyên Nhâm đứng khắc ván bộ Ma-ha Bát-nhã ba-la-mật kinh (30 quyển),
Đại phương đăng đại tập kinh (30 quyển)… Đệ tử kế thừa là Tỳ-kheo-ni Đàm
Tiến trùng san Pháp cú thí dụ kinh (4 quyển), Bách dụ kinh (2
quyển) vào năm Ất Hợi (1935), Bảo Đại thứ 10.
Liên Tông có nhiều chi nhánh truyền sâu rộng tại Hà Nội. Chi Tam Huyền với vị Tổ
Tính Tuyền (?-1761) gầy dựng, đã truyền đến các chùa như Phúc Khánh (chùa Sở),
Linh Tiên (chùa Bằng), Quang Ân. Chi đó cũng đào tạo nhiều vị thiền Ni nổi
tiếng. Hòa thượng Phúc Điền ghi chép về Tỳ-kheo-ni pháp danh Thanh Cần (có tư
liệu ghi là Đàm Cần). Ni trưởng là vị Tổ khai phái của chùa Thái Cam. Cúng
chư vị giác linh tổng khoa liệt kê các vị Tỳ-kheo-ni như sau:
“Nam-mô ma-ha Tỳ-kheo-ni giới hiệu Đàm Oánh thiền sư nhục thân Bồ-tát thiền
tọa hạ.
Nam-mô ma-ha Tỳ-kheo-ni giới hiệu Đàm Cần thiền sư nhục thân Bồ-tát thiền tọa
hạ.
Nam-mô ma-ha Tỳ-kheo-ni giới hiệu Đàm Tâm thiền sư nhục thân Bồ-tát thiền tọa
hạ.
Nam-mô ma-ha Tỳ-kheo-ni giới hiệu Đàm Túc thiền sư nhục thân Bồ-tát thiền tọa
hạ…”
Dựa theo khoa cúng thì Tỳ-kheo-ni Đàm Oánh là thầy của Ni Thanh Cần. Khi về
nhận các chùa trụ trì, Thanh Cần đứng ra tu bổ các chùa mà nay còn lưu khắc công
đức trong bia. Mãi khi lớn tuổi, Ni trưởng mới cầu thỉnh Hòa thượng Tam Huyền,
Hòa thượng Phúc Điền thọ giới Bồ-tát. Đệ tử lớn của sư là Tỳ-kheo-ni pháp danh
Kim Tuế, là người kế thừa kiêm quản các ngôi chùa mà sư trụ trì. Phương danh
công đức sau sách Thiền uyển truyền đăng lục, quyển hạ có ghi: “Thái
Cam Bật-sô-ni pháp danh Diệu Cần, trưởng tọa Bật-sô-ni pháp danh Thanh Đức cúng
tiền thập quán”.
Thanh Cần ở đây ghi Diệu Cần, có thêm đệ tử là Thanh Đức.
Thiền môn tu trì kinh chú luật nghi mục “Bản quốc lịch đại Tổ sư truyền
đăng nhị phái” do Hòa thượng Phúc Điền soạn, cho sự truyền thừa phái Ni ở chùa
Địa Linh, Tây Hồ thuộc “Từ Phong Tổ sư thứ chi truyền”, tức truyền chi
thứ từ Hòa thượng Từ Phong. Hòa thượng liệt kê được 3 đời như Tỳ-kheo-ni Diệu
Thận, Diệu Quýnh và Diệu Thùy. Đến khi biên tập Thiền uyển truyền đăng lục,
quyển hạ thì bổ sung thêm đời thứ 4 là Tỳ-kheo-ni Diệu Đạo. Vị Tỳ-kheo-ni đầu
tiên là Diệu Thận thì trong bản in Phật thuyết quán Di Lặc Bồ-tát thượng sinh
Đâu Suất đà thiên kinh (AC.436) khắc bản năm Gia Long Nhâm Thân (1812) ghi “Tây
Hồ phường Địa Linh tự tự Chiếu Thận”, tức sinh tiền sư ghi tên tự theo kệ
phái. Rất hiếm Tỳ-kheo-ni được ban tên theo kệ phái dòng Đột Không Trí Bản, mà
thường cho tên với chữ đầu là “Diệu”, sau này thì thống nhất cho chữ đầu là chữ
“Đàm”.
Truyền thừa tại chùa Cung Thận tỉnh Sơn Tây được ba đời Tổ Ni là Diệu Vượng,
Diệu Lạn và Diệu Tuấn. Chùa hiện chưa rõ vị trí và sử liệu, được Hòa thượng Phúc
Điền cho vào “Từ Phong Tổ sư thứ chi”, tức thuộc phái Liên Tông tại Hà
Nội. Sinh thời Hòa thượng Phúc Điền được cung thỉnh trụ trì chùa Đại Giác tại Bồ
Sơn. Ngài được sự ủng hộ của quan Nguyễn Đăng Giai nên đại trùng tu chùa Đại
Giác quy mô, đào tạo Tăng tài và Hòa thượng nhận nhiều ngôi chùa như Đại Quang
(Phú Nhi), Báo Thiên, Liên Trì, Liên Phái, Hoàng Vân. Trong sách Thiền môn tu
trì kinh chú luật nghi, khi khảo về hai phái Lâm Tế, Tào Động tại miền Bắc,
Hòa thượng sử dụng thuật ngữ “Bồ Sơn phái” để chỉ sự truyền thừa do ngài truyền
hạ. Phái Bồ Sơn
có nhiều chùa ở các tỉnh Bắc Ninh, Hà Nội, Sơn Tây. Đôi khi còn có đệ tử hành ở
Nam Định, hay lên Hưng Hóa truyền giáo. Về Ni phái thì Hòa thượng truyền cho mấy
vị đệ tử Ni thọ giới với ngài như Tỳ-kheo-ni pháp danh Quang Cảnh
ở chùa Hoàng Vân, Tỳ-kheo-ni Diệu Nghĩa chùa Đại Để, tỉnh Nam Định, Tỳ-kheo-ni
Minh Kính
chùa Linh Quang, Trúc Phê, tỉnh Hưng Hóa, Tỳ-kheo-ni pháp danh Kim Đài chùa Phúc
Lâm (Bắc Ninh). Lời Túc thỉnh nằm cuối bản in Hộ pháp luận giải âm
cho biết, bần đạo Ni Kim Đường chùa Triệu Khánh, xã Chân Hộ, huyện Yên Phong
(Bắc Ninh) đứng ra san khắc Bảo huấn giải âm, Hộ pháp giải âm đã xong,
xin ấn tán tại chùa Bồ Sơn ngày 15 tháng 2 năm Tự Đức 16 (1863).
Nhờ văn bản Túc thỉnh, chúng ta biết thêm lão Ni Kim Đường cũng là môn nhân của
Hòa thượng Phúc Điền.
Ngoài ra, tại Hà Nội có chùa Viên Minh (tục danh chùa Hai Bà) có sự truyền thừa
nhiều đời phái Ni. Tấm bia Viên Minh thiền tự kỷ niệm bi chí (K.13547)
lập năm Nhâm Thân (1932) Bảo Đại thứ 7 cuối bia có liệt kê các đời Tổ chùa như
sau:
Tổ đời thứ nhất: Tỳ-kheo-ni hiệu Đàm Kiền;
Tổ đời thứ hai: Tỳ-kheo-ni hiệu Đàm Chất;
Tổ đời thứ ba: Tỳ-kheo-ni hiệu Đàm Nghĩa;
Tổ đời thứ tư: Tỳ-kheo-ni hiệu Đàm Hinh;
Tổ đời thứ năm: Tỳ-kheo-ni hiệu Đàm Thuần.
Vị lập bia là Tỳ-kheo-ni hiệu Đàm Thu trụ trì chùa, tức là vị trụ trì đời thứ
sáu. Bia liệt kê danh sách các đời Tổ nên không cho biết thông tin về hành trạng
và pháp phái. Chưa rõ sơn môn Viên Minh thuộc phái nào của Lâm Tế tông.
Lại có chốn Tổ Sùng Khang do Tỳ-kheo-ni Tịnh Tâm khai phái, được truyền thừa
nhiều đời, chi nhánh truyền khắp đến các chùa của Hà Nội hiện nay. Gần cuối thế
kỷ XIX, chốn tổ Sùng Phúc, một tổ đình lớn của phái Tam Huyền, với nhiều đời
thiền tổ nổi tiếng, thế mà bỗng không có người kế đăng. Dân xã mới đến Sùng
Khang cung thỉnh trưởng tọa là Tỳ-kheo-ni hiệu Đàm Quang (1853-?) về trụ trì. Từ
đây, Tam Huyền do chư Ni quản lý. Tấm bia Trùng tu Sùng Phúc tự bi ký cho
biết: “Tôn sư trước làm trưởng tọa chùa Sùng Khang, xã Đại Cát.
Sư quê tại xã Hạ Trì, huyện Hoài Đức, họ Nguyễn. Năm 14 tuổi, xuất gia nương tựa
vào chùa Sùng Khang. Năm 15 tuổi, thọ Sa-di giới. Năm 20 tuổi, đăng đàn thọ
Tỳ-kheo-ni Bồ-tát giới, pháp hiệu Đàm Quang, đầy đủ độ điệp khả chứng. Năm Quý
Mùi (1883), bản xã thỉnh đến trụ trì, sáng chiều hương đèn, không bỏ công việc,
sửa cái hư, bỏ cái tệ, không sợ lao nhọc. Tuổi đã dần cao, nay hơn sáu mươi vậy.
Thân hào thiện tín hai thôn biết đầy đủ công đức của sư không thể quên ghi chép.
Năm Kỷ Dậu (1909) sửa sang thượng điện, tiền đường, đối liễn. Năm Kỷ Sửu (1889),
trùng tu nhà tổ, tượng thánh mẫu, cung điện. Năm Kỷ Hợi (1899) trùng tu hai hành
lang, tam quan. Năm Canh Tý (1900), trùng tu tượng Phật, tượng Tổ. Năm Ất Tỵ
(1905), đại tu tiền đường, tượng Phật, Tổ cung điện, hành lang các tòa, và hai
hành lang, am tháp, trước sau tốn tiền đến 3 nghìn nguyên. Tôn sư bèn tiện
khuyến hóa, đôn đốc hoàn thành các việc có công đức lớn, nên ghi chép vậy”.
Đàm Quang xuất gia tu học tại chùa Sùng Khang nhưng lại thuộc sơn môn Trung Hậu.
Cúng tôn sư khoa, đường thỉnh thứ nhất ghi: “Tuổi 14 đến chùa Sùng
Khang Đại Cát, nghiệp sư cắt tóc, lầu cao bốn cấp mới lên. Năm 20 tuổi, được Hòa
thượng chùa Tây Thiên Trung Hậu truyền y, trao giới cụ túc một thừa cao bước”.
Ni trưởng Đàm Quang còn kiêm trụ trì chùa Nga My ở Hoàng Mai. Hiện nay, các vị
Ni ở Tam Huyền và Nga My đều là lớp con cháu của Ni Trưởng.
Chúng tôi chỉ chọn được hai ngôi chùa Ni lớn, có truyền thừa xuyên suốt để giới
thiệu thêm, cho thấy phái Ni vẫn hưng thịnh và truyền thừa mạnh. Nhất là từ khi
đất nước qua phân, rồi thống nhất, tại miền Bắc, số lượng Tăng Ni giảm, nhiều
chốn Tăng không có người kế nối, nên Ni phái được bổ nhậm, giữ nhiều ngôi chùa
quan trọng tại Thủ đô Hà Nội cùng các chùa ở các huyện ngoại thành.
Tiểu kết
Bước đầu tìm hiểu về Ni phái, chủ yếu truyền thừa các chùa ở Hà Nội thời Nguyễn.
Phải nói rằng, Hòa thượng Phúc Điền là người chú ý đến tình hình Ni giới. Ngài
ghi chép riêng về Ni phái của dòng Lâm Tế thuộc Thiền phái Liên Tông. Các chùa
như Phúc Thung, Phổ Quang, Triệu Khánh, Địa Linh vẫn là chốn Ni tràng, với nhiều
đời chư Ni kế thừa trụ trì. Nhiều chốn Ni cũng bị tuyệt dứt do không có người
thừa kế, hoặc sự tác động của ngoại giới, chùa cảnh bị thu hẹp như Phổ Quang ở
cửa Bắc.
Ghi chép truyền thừa về Ni giới ở ta thời xưa, cách ghi chép ngắn gọn, thường
ghi các đời trụ trì một ngôi chùa. Nhiều vị thiền tổ Ni, chỉ nhắc đến tên, hoặc
cho vài thông tin như tộc tính, quê quán. Cái cần vẫn là quá trình xuất gia, thọ
giới và học đạo thì chỉ ghi một câu chung, làm khó mà biết được nguồn cội.
Thường sử dụng kính ngữ đối với vị Hòa thượng truyền giới, nên không biết rõ đạo
hiệu ngài, như ghi “Tam Huyền Hòa thượng”, “Trung Hậu Hòa thượng”, tức lấy tên
chùa để ghi về ngài. Điều đó khó cho thế hệ chúng ta sau này, nếu như không có
tư liệu ghi chép về vị Hòa thượng kia thì chẳng biết ngài đạo hiệu gì.
Thường Ni phái phụ thuộc cộng đồng Tăng, các vị Tỳ-kheo-ni luôn tiếp nối hai
dòng. Một dòng do thầy mình thế độ và dòng khác lại ăn nhập vào vị Hòa thượng
truyền giới, hoặc đắc pháp với vị Hòa thượng. Vị Tỳ-kheo-ni đó luôn xưng mình
thuộc môn phái của vị Hòa thượng như trường hợp Ni trưởng Đàm Quang chùa Tam
Huyền luôn cho mình thuộc sơn môn Trung Hậu. Việc sắp xếp các đời pháp cho Ni
phái khá là rắc rối. Bởi, các Tỳ-kheo-ni thuộc thế kỷ XIX trở về trước ít được
ban tên theo kệ phái, mà sử dụng chữ “Diệu” làm chữ đầu, giống tên hiệu như các
vị nữ tại gia. Một vài vị có pháp danh theo kệ phái như Tỳ-kheo-ni Chiếu Thận,
chùa Địa Linh, nhưng thế hệ sau cũng đổi thành Diệu Thận. Hay Bật-sô-ni Thanh
Cần, lúc thì ghi Diệu Cần, thế hệ sau chuyển thành Đàm Cần. Các Tỳ-kheo-ni với
pháp húy ở chữ “Đàm” chỉ mới xuất hiện đầu thế kỷ XX, do quy định ngầm “Nam
Thanh, Nữ Đàm” mà tương truyền do Tổ sư Nguyên Biểu chùa Bồ Đề khởi xướng.
Sử liệu ghi chép truyền thừa đã ít, lại không có hành trạng từng vị Tỳ-kheo-ni,
nên việc lập hệ phổ là điều khá khó đối với chúng ta. Hòa thượng Phúc Điện ghi
chép truyền thừa Ni phái trong Thiền uyển truyền đăng lục, quyển hạ là
ngài ghi các đời trụ trì chùa. Đôi khi các đời trụ trì trùng với truyền đăng,
nên sắp xếp thế thứ chuẩn. Còn như các đời trụ trì không tương xứng với việc kế
đăng thì việc khảo truyền thừa dễ rơi vào việc chép sai là điều chắc chắn. Do
vậy, theo thiển ý soạn giả, việc lập phổ hệ truyền thừa cho Ni phái thì nên tuân
thủ quy cách xưa của các Tổ, tức sắp vị Tỳ-kheo-ni theo pháp phái chư Tăng, hoặc
như Hòa thượng Phúc Điền chép từng đời các chùa do Tỳ-kheo-ni trụ trì, thì may
ra còn khả dĩ.
Hoài Cổ lâu, trước tiết Trung Thu năm Quý Mão (2023).