Thiền sư An Thiền - Phúc Điền (1784-1863)
thien su an nhien
THIỀN
SƯ AN THIỀN - PHÚC
ĐIỀN (1784-1863)
ThS. Nguyễn Công Thanh Dung -
PGS.TS. Nguyễn Công Lý
(Trường Đại học KHXH&NV,
ĐHQG TP.HCM)
Thiền sư An Thiền
- Phúc Điền là một vị danh tăng Việt Nam thế kỷ XIX, một bậc tùng lâm thạch trụ
của Phật giáo Việt Nam dưới triều Nguyễn. Bài viết này sẽ giới thiệu về hành trạng
sự nghiệp và một số trước tác của ngài.
1.
Hành trạng và sự nghiệp
Từ hơn nửa thế kỷ qua, giới nghiên
cứu vẫn băn khoăn về thân thế của Thiền
sư Phúc Điền, không rõ Thiền
sư Phúc Điền và Sa-môn
An Thiền là một người hay hai người. Trong Việt
Nam Phật giáo sử luận, Nguyễn Lang viết thành hai đề mục, như vậy ngầm hiểu
là hai người khác nhau. Nhưng theo Lê Mạnh Thát thì An Thiền - Phúc Điền chỉ là một
người. Trong Tổng tập văn học Phật giáo
Việt Nam tập 3 (2002), Lê Mạnh Thát đã khẳng định Sa-môn An Thiền chính là
Phúc Điền Hòa thượng. Trong khoảng gần hai chục năm trở lại đây, qua một số bài
nghiên cứu, các khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Phật học, các luận văn Thạc sĩ Phật
học, Thạc sĩ Sử học, Tiến sĩ Hán Nôm
đã chứng minh rằng Sa-môn
An Thiền và Hòa thượng Phúc Điền đều là danh xưng của một người. Qua đó, hành
trạng của Hòa thượng Phúc Điền được biết đến như sau:
Hòa thượng An Thiền - Phúc Điền sinh vào
tháng 7 năm Giáp Thìn, niên hiệu Cảnh Hưng năm 45 (1784) dưới đời vua Lê Hiển
Tông, thế danh không rõ, nhưng được biết thân phụ của ngài họ Vũ và thân mẫu của
ngài họ Lê; ngài là người thôn Trường Thịnh, xã Bạch Sam, huyện Sơn Minh, phủ Ứng
Hòa, tỉnh Hà Đông (nay thuộc xã Trường Thịnh, huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội).
Năm 12 tuổi (1795), ngài xuất gia học đạo với Thiền sư Viên Quang Hải Tiềm tại chùa Đại
Bi (chùa Sét). Sau khi sư Hải Tiềm viên tịch, ngài sang chùa Phúc Thung [ngày
nay là chùa Nam Dư hạ tại phường Trần Phú, TP Hà Nội] cầu thọ giới Sa-di với
Hòa thượng Từ Phong Hải Quýnh, lúc đó ngài được 15 tuổi (1798). Hòa thượng Hải
Quýnh ban cho ngài pháp danh Tịch Tịch. Năm 20 tuổi (1803, năm thứ hai đời vua
Gia Long), ngài sang chùa Pháp Vân xã Phú Ninh cầu Tổ Từ Quang Tịch Giảng xin
được thế pháp, thọ Tỳ-kheo Bồ-tát giới và được ban pháp danh An Thiền.
Năm Minh Mệnh thứ 16 (1835), bấy giờ
đã 51 tuổi, ngài vào kinh đô Huế dự kỳ sát hạch Tăng sĩ, được triều đình ban giới đao và
độ điệp, lúc này ngài được tặng sắc hiệu Phúc Điền Hòa thượng. Trong lúc ở Huế,
ngài đã bỏ nhiều thời gian đến viếng thăm, tìm hiểu các ngôi chùa ở miền Trung
và miền Nam, thu thập được nhiều tư liệu về tình hình Phật giáo đương thời.
Cũng chính trong thời gian này, một số Nho
sĩ tại đây đã thụ giáo ở ngài, nhận là tục gia đệ tử. Những vị này đã chịu ảnh
hưởng tư tưởng của ngài để sau này hết lòng giúp ngài trong việc trước tác, dịch
thuật và ấn loát các tác phẩm Phật giáo.
Sau khi trở về Bắc, ngài tích cực
tham gia vào các hoạt động tu bổ chùa chiền, thu thập tài liệu lịch sử, biên soạn
dịch giải ấn loát kinh sách, giáo hóa đồ chúng. Năm Minh Mệnh thứ 21 (1840),
ngài được mời về trùng tu và trụ trì chùa Đại Giác xã Bồ Sơn, huyện Quế Dương,
tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc thôn Bồ Sơn, phường Võ Cường, thành phố Bắc Ninh, tỉnh
Bắc Ninh). Công việc của ngài được thuận lợi nhờ sau đó, vào năm Thiệu Trị
nguyên niên (1841), một vị đại thần triều Nguyễn là Nguyễn Đăng Giai được bổ về
làm Tổng đốc Ninh Thái (Bắc
Ninh và Thái Nguyên); vị này
là một nhà Nho
mộ Phật từng biết đến ngài khi ngài còn ở Huế nên đã hết lòng ủng hộ ngài. Tại
đây, ngài bắt đầu biên soạn
và ấn tống kinh sách.
Năm Thiệu Trị thứ 3 (1843), ngài tu
bổ chùa Phú Nhi, huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây. Năm Tự Đức nguyên niên (1848), lại
nhờ sự giúp đỡ của Nguyễn Đăng Giai, bấy giờ đã là Thượng thư bộ Hình kiêm Quốc
sử quán Tổng tài, ngài đứng ra kiến tạo chùa Liên Trì huyện Thọ Xương, Hà Nội,
có quy mô to lớn bậc nhất Hà thành lúc bấy giờ. Chùa Liên Trì sau đó cũng trở thành trung tâm
ấn loát kinh sách. Hiện nay bên bờ hồ Hoàn Kiếm còn lại ngôi tháp Hòa Phong, vốn
là di tích của chùa Liên Trì. Năm Tự Đức thứ 7 (1854), nhận lời mời của Sư tổ
Phổ Minh, ngài sang kế tục trụ trì chùa Liên Phái, tích cực khuyến hóa thập
phương trùng tu chùa. Đây cũng là nơi ngài sống những ngày cuối đời mình. Ngài
viên tịch năm Tự Đức thứ 16 (1863), thọ 80 tuổi.
Từ khi xuất gia cho đến lúc viên tịch,
gần 70 năm, ngài đã đi nhiều nơi, đến nhiều chùa. Hầu hết các chùa ở đồng bằng
Bắc Bộ đều in dấu chân của
ngài. Đến đâu, ngài cũng nghĩ cách tu tạo chùa tháp, phân phát kinh sách, giảng
giải thiền điển, đào tạo Tăng
Ni; trong đó, đóng góp lớn
nhất phải kể đến hệ thống tư liệu Phật giáo Việt Nam do chính ngài thu thập,
sưu tầm và biên tập.
Ngài viết rất nhiều sách và sách của
ngài thuộc nhiều thể loại khác nhau. Hoạt động của ngài cho thầy ngài có thiên
hướng lịch sử và giáo dục. Những trước tác của ngài cũng như những tài liệu
ngài công bố đều có giá trị thiết thực trong việc khuyến khích lòng từ bi, gợi
lòng khao khát hiểu biết về những người đi trước và noi theo tiền nhân.
Bàn về tư tưởng của Thiền sư Phúc Điền,
trong Lịch sử Phật giáo Việt Nam
(1988) của Viện Triết học có nhận xét:
“Phúc Điền không bàn nhiều đến tư tưởng, nhưng qua tác phẩm của ông, ta vẫn thấy
tinh thần tư tưởng của ông. Đó là tinh thần dung hợp, tinh thần thừa nhận tất cả
các quan điểm của các học thuyết, các tôn giáo, các tông phái, bất luận là
chúng có thực như thế nào” và “tinh thần dung hợp của Phúc Điền còn thể hiện
trong việc chấp nhận cả Thiền, Tịnh, Mật, không phân biệt đối xử, chỗ nào sử dụng
Phật phái nào có lợi thì sử dụng, không nề hà”.
Trong Luận văn Thạc sĩ năm 1988 “Tìm hiểu lịch sử Phật giáo Việt Nam qua bản
Đạo giáo nguyên lưu của Hòa thượng
Phúc Điền” của Thích Minh Tâm, tác giả nhấn mạnh đến việc lúc sinh thời,
“ngài Phúc Điền rất quan tâm đến việc đào tạo Tăng tài. Nhờ vào sự trợ duyên của Tổng đốc
Nguyễn Đăng Giai, Hòa thượng cho xây dựng nhiều ngôi chùa lớn có quy mô hàng
trăm gian vừa là nơi khắc in kinh sách để hoằng dương Chính pháp, vừa là nơi
cho chư Tăng trong Sơn môn tu tập.
Hòa thượng còn biên soạn hàng chục bộ sách dùng làm tài liệu học tập cho chư Tăng, đồng thời còn đứng
ra tổ chức khắc ván in kinh ở các chùa Đại Giác, Đại Quang, Liên Trì Hải Hội,
Liên Tông. Hiện nay trong kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm và thư viện chùa
Quán Sứ Hà Nội còn lưu giữ được 30 đầu sách được in ở các cơ sở in nêu trên”.
Cuối đời, ngài có để lại một bài kệ
như là một tổng kết về cuộc đời và tư tưởng của mình: “Các thuyết trần ngộ nhập/
Dĩ ngộ hoạch viên thông/ Đạo ngoại nguyên vô đạo/ Không trung cánh bất không/
Vu kim truyền Chánh
pháp/ Tụ tích diễn chân tông/ Dĩ vô sở đắc cố/ Bất tại cá ngôn trung.”
(Các thuyết đều giải bày sự giác ngộ của mình/ Lấy giác ngộ để đạt tới sự viên
thông/ Bên ngoài đạo thì vốn không có đạo/ Trong không thì càng không phải là
không/ Như nay truyền bá Chánh
pháp/ Là kéo dài chân tông tự ngày xưa/ Do vô mà thu được/ Không phải là ở lời
nói).
2.
Trước
tác
của An Thiền Phúc Điền
Như trên đã nói, Thiền sư Phúc Điền viết
nhiều sách, và những
sách được ngài chủ trương ấn
loát thuộc nhiều thể loại.
Lê Mạnh Thát trong Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam, tập
3 cho biết: Trong bài tựa Quốc âm tiểu luận
viết ở đầu sách Khóa hư giải âm,
chính ngài Phúc Điền đã ghi 34 bộ kinh sách Phật giáo do ngài dịch quốc âm và
được một nhóm Trưởng
lão lo liệu việc khắc bản ấn loát từ 1840 đến 1861, gồm: Kim cương
kinh 1 quyển, Di Đà kinh 1 quyển, Quy Sơn cảnh
sách 2 quyển, Sa-di sớ 2 quyển, Thiền lâm bảo huấn 4 quyển, Đại Đường Từ Ân xuất gia châm 1 thiên, Di Sơn đại
sư phát nguyện văn 1 bài, Vân Thê đại
sư phát nguyện văn 1 bài, Trúc song 3 quyển, Hộ pháp luận
1 quyển, Sưu tầm khắc in Khóa hư lục
của Trần Thái Tông 3 quyển, Thái căn đàm
1 quyển, Tam giáo nhất nguyên 1 quyển,
Nhân sinh nhất đán văn 1 bài, Bán điểm văn 1 bài, Hàn lâm sớ
1 quyển, Vương thị cảnh thế lương ngôn
1 thiên, Tân soạn Thích giáo chân ngôn
1 thiên, Tiên nho công luận 1 thiên, Thượng đường quốc ngữ 1 thiên, Phụng Phật Tổ đối liễu kỷ cú Hoa nghiêm phương san kinh
82 quyển, Giải hoặc thượng hạ 2 quyển,
Tam giáo quản khuy Nho Thích Đạo 3 tập,
Truyền đăng Phật Tổ 5 quyển, Phật Tổ thống chí, Cổ bản Phạn giáp 54
quyển, Kim vi phương sam 20 quyển, Tại gia tu trì, Đạo giáo nguyên lưu 2 quyển, Tiểu
Du-già 1 quyển, Lễ thiên địa tướng
tinh cập âm hồn bài vị 22 bài, Trùng khắc đại giới điệp 1 trương, Tân biên ngũ giới thập giới điệp 1 trương.
Lê Mạnh Thát cũng cho biết ông đã
sưu tập được một số tác phẩm, trong đó có Đạo
giáo nguyên lưu ba quyển, Tân tập tại
gia nhật dạ tu trì nghi thức một quyển, Phóng
sinh giới sát văn một tập, Tiểu Du-già,
Hàn lâm sớ… Tất cả đều bằng Hán văn.
Hòa thượng đặc biệt quan tâm đến những
bộ sách do người Việt Nam biên soạn, nên đã chú ý việc diễn giải sách Khóa hư lục của Hoàng đế Trần Thái Tông,
sách Tam giáo nhất nguyên của Trạng
nguyên Trịnh Tuệ đời Hậu Lê. Do số lượng tác phẩm của ngài đa dạng, ở đây sẽ giới
thiệu hai tác phẩm là Thiền uyển truyền
đăng lục và Đạo giáo nguyên lưu,
được giới nghiên cứu đánh giá là hai tác phẩm xuất sắc của ngài.
(1). Sách Thiền uyển truyền đăng lục được Hòa thượng Phúc Điền biên tập tại
chùa Liên Phái ở Hà Nội, gồm một bộ có tất cả 5 quyển: Quyển thượng còn có tên
là Đại Nam Thiền uyển truyền đăng tập lục
biên tập lại dựa vào Thiền uyển tập anh;
ba quyển kế tiếp sao lại quyển Thiền uyển
kế đăng lục
của Thiền sư Như Sơn, còn
quyển hạ có tên là Thiền uyển kế đăng lược
lục do chính Phúc Điền biên soạn. Nội dung của sách Thiền uyển kế đăng lược lục trình bày khái quát lịch sử phát triển
của Phật giáo Việt Nam, thuật truyện của ba vị Tổ Thiền phái Trúc Lâm đời Trần, ghi chép
tình hình Phật giáo đương thời, trong đó nhấn mạnh đến sự truyền thừa của hai
phái Tào Động và Lâm Tế, chép lại truyện một số danh tăng của các đời trước
cùng những hoạt động trùng tu, sửa sang chùa chiền của một số vua quan… Lịch sử Phật giáo Việt Nam của Viện Triết
học cho rằng “Thiền uyển kế đăng lược lục có giá trị như một cuốn lịch sử, giúp
ích nhiều cho việc tìm hiểu lịch sử Phật giáo Việt Nam trước đó cũng như tình
hình sinh hoạt Phật giáo đương thời của nước ta”.
(2). Sách Đạo giáo nguyên lưu, còn được gọi là Tam giáo Quản khuy lục (theo bài Tựa do Nguyễn Đăng Giai viết) hay Tam giáo thông khảo (theo Nguyễn Lang
trong Việt Nam Phật giáo sử luận) gồm
ba quyển Thượng, Trung và Hạ, dày 549 trang, ngoài phần giải thích về nguồn gốc
của ba tôn giáo Nho, Thích, Lão đang thịnh hành thời bấy giờ ra, sách còn là phần
hướng dẫn người sơ cơ nhập đạo, học chữ Hán, học giáo lý. Là một vị thiền sư
nên khi viết Đạo giáo nguyên lưu,
ngài Phúc Điền tập trung vào tán dương công đức của Đức Phật, còn đạo Nho và đạo
Lão chỉ là thứ yếu. Vì là các bài giảng được viết để phục vụ việc học tập trong
lúc an cư của chư Tăng
Ni đương thời, nội dung
sách không được sắp xếp theo thứ tự thời gian hay chuyên mục nào; nhưng ngài
Phúc Điền đã sử dụng nhiều tài liệu quý trong kinh điển đạo Phật cũng như kinh
thư của Nho, Lão. Đặc biệt, ngài Phúc Điền có lập các bảng tra cứu ở cuối quyển
Hạ cũng được xem là những tài liệu giúp ích rất nhiều cho việc giảng dạy và học
tập chữ Hán, đặc biệt là các bản Phạn Hoa
danh nghĩa, Bảng tra chữ khó, Bảng quốc âm. Đạo giáo nguyên lưu còn được coi là bộ sách nghiên cứu lịch sử Phật
giáo Việt Nam có niên đại sớm nhất mà chúng ta biết được. Hòa thượng Phúc Điền
đã tập trung trình bày vấn đề Phật giáo du nhập vào Việt Nam bắt đầu từ thời
Hùng Vương, đã sử dụng một hệ thống kinh Phật viết bằng chữ Hán, chữ Nôm hết sức
phong phú, lần lượt giới thiệu về các tông phái chính truyền pháp ở Việt Nam.
Qua sách này, ta thấy ngài Phúc Điền chủ trương Tam giáo nhất nguyên. Đạo giáo nguyên lưu được khắc in năm
1845 và đã được sử dụng làm sách giáo khoa trong các trường Phật học đương thời.
Có thể thấy Đạo giáo nguyên lưu là một đóng góp lớn cho lịch sử tư tưởng của
người Việt từ thời lập quốc.
3.
Tư tưởng và văn chương của ngài Phúc
Điền
Qua việc tìm hiểu sơ lược hai tác
phẩm quan trọng của ngài Phúc Điền, có thể thấy ngài là một nhà hoạt động, chú
trọng việc giáo dục hàng hậu học. Điều này cũng dễ hiểu vì khi ngài bắt đầu có
điều kiện để trước tác và ấn loát thì ngài đã 57 tuổi. Ngài trước tác với mục
đích hoằng pháp và giáo dục, nhưng các trước tác còn lại của ngài hiện hầu hết
được lưu trữ bằng Hán văn hoặc văn Nôm, chỉ có thể được phổ biến rộng rãi khi
đã được dịch giải hoặc phiên âm, và đó là một nhu cầu cấp thiết để lớp hậu bối
chúng ta có thể tiếp cận được tư tưởng và văn chương của ngài.
Nhìn chung, có thể thấy rằng ngài
Phúc Điền đã tiếp thu tư tưởng Thiền học của các thiền sư Việt Nam đời trước,
có khuynh hướng dung hợp mọi tư tưởng nhưng luôn luôn lấy các giá trị từ bi,
trí tuệ, giải thoát của Phật giáo làm xương sống.
Xét về thời đại, ngài Phúc Điền đã
trưởng thành trong loạn lạc. Năm 1795, khi ngài bắt đầu cuộc sống tu tập thì
triều đình Tây Sơn ở Phú Xuân đang rối ren cực độ, chỉ vài năm sau đã phải nhường
vai trò lãnh đạo cho triều Nguyễn. Ngài thực sự trở thành một vị Tỳ-kheo vào
lúc vua Gia Long mới trị vì được hai năm. Mặc dù vua Gia Long tích cực ủng hộ
Phật giáo, nhưng trong đời vua Gia Long ngay tại Huế, Phật giáo mới chỉ được
coi là bắt đầu phục hồi chứ chưa thể nói đến phát triển; huống chi ngài Phúc Điền
lại tu tập và hành đạo ở Bắc Hà.
Năm 1835, khi ngài Phúc Điền vào
Phú Xuân dự kỳ khảo hạch Tăng sĩ thì ngài cũng đã 52 tuổi. Ở tuổi đó, chấp nhận
cuộc khảo hạch tại một nơi xa và thành công để được nhìn nhận là một vị Tăng có
thẩm quyền hành đạo, giáo giới, truyền pháp… ngài Phúc Điền phải có một chí hướng
lớn lao trên con đường hướng dẫn chúng sinh đến chỗ an lạc giải thoát. Và công
nghiệp của ngài trong suốt 28 năm còn lại từ lúc chính thức được cấp độ điệp đã
chứng minh cho chí hướng ấy.
Hai mươi tám năm hành đạo của ngài
Phúc Điền trải suốt ba đời vua nhà Nguyễn là Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức.
Trong luận án Phật giáo Việt Nam thời Minh Mạng, tác giả Nguyễn Duy Phương có nhận
xét “Giai đoạn này có rất ít tác phẩm nghiên cứu triết lý Phật học ra đời, phần
lớn là các bộ sách có tính biên tập lại các tác phẩm cũ, hệ thống hóa tư liệu
và khảo cứu lịch sử Phật giáo Việt Nam và thế giới. Về tư tưởng, quan điểm của
các tác giả thời kỳ
này cũng không có sự đột phá hay đổi mới đáng kể nào, tựu trung vẫn là tinh thần
dung hợp các quan điểm của các học thuyết Phật, Lão, Nho đã có từ nhiều thế kỷ trước. Tăng sĩ là lực
lượng chủ yếu biên soạn, khắc in kinh sách, chứ không thấy sự góp mặt của vua
quan hay tầng lớp tri thức như các thời kỳ
trước. Điều đó đã phần nào phản ảnh sự trầm lắng trong đời sống học thuật của
Phật giáo đương thời”. Nhận định này có thể
chấp nhận được, nhưng về mặt tư tưởng, mặc dù chưa
phát hiện những dẫn xuất rõ rệt, chúng ta cũng có thể cảm nhận rằng chính việc
các tác phẩm như Đạo giáo nguyên lưu
và Thiền uyển truyền đăng lục được
lưu truyền trong các đạo tràng lớn thời bấy giờ đã góp phần tạo sự thăng hoa ở
phong trào Chấn hưng
Phật giáo vào thập niên 30 của thế kỷ XX.
Về mặt ngôn từ, chúng ta đọc lại nhận
định của nhà Nho
Nguyễn Đăng Giai, một vị trọng thần triều Nguyễn, viết trong bài tựa Đạo giáo nguyên lưu mà ông gọi là Tam giáo quản khuy lục rằng, “Tuy lời lẽ không mạch lạc
lắm, tuy văn lý không được đẹp đẽ lắm, nhưng trích lục quần thư, sưu tập chúng
kiến làm thành một sách, hợp với các cuốn ghi về nhân quả, cũng đủ là tài liệu
quan trọng dùng hàng ngày của hai tông phái Thiền, Tịnh… Sách này xứng đáng được
những kẻ hiền giả nơi cửa Phật đón đọc, cũng xứng đáng là cuốn sách của các cư
sĩ thiện tu”.
Như trên đã nói, ngài Phúc Điền trước
tác với mục đích hoằng pháp và giáo dục, hẳn là ngài không chú trọng quá nhiều đến việc trau chuốt
văn chương, nhất là như chúng ta đã biết, các tác phẩm của ngài có nhiều phần
được gom góp lại từ những bài giảng trong các kỳ an cư, có thể văn phong của
ngài thiếu tính nghệ thuật, nhưng hẳn đã làm lay động học giới Phật tử, nên đã
được gìn giữ và truyền đến chúng ta.
Việc tìm hiểu về hành trạng, tư tưởng
và văn chương của Hòa thượng Phúc Điền cho phép ta hình dung trước mắt một vị
lão tăng suốt đời cặm cụi nghiên tầm kinh điển, miên mật hành trì với một chí
nguyện lớn lao là đem những hiểu biết của mình đóng góp cho sự an lạc của chúng
dân vừa mới bắt đầu ổn định cuộc sống sau bao nhiêu năm loạn lạc thì đã thấy ở
chân trời những đe dọa một cuộc xâm lược mới, lần này là của một thế lực mới có
sức mạnh của công nghệ mới, điều mà người Việt chưa từng có kinh nghiệm. Thái độ
nhập thế của Hòa thượng Phúc Điền là hết sức cụ thể. Không nề hà tuổi tác. Ngài không từ nan bất kỳ
công việc nào, đã tổ chức được cả một hệ thống ấn loát rộng khắp để phổ biến
kinh sách nhà Phật, xây dựng được những giảng đường lớn để diễn giảng tư tưởng
nhà Phật theo cái nhìn của Phật tử Việt Nam.
Hẳn là chí nguyện và tư tưởng của
ngài đã được ngài gói ghém trong mấy câu thơ của bài kệ Thị tịch
mà chúng ta cần đọc lại thật kỹ. Bài kệ
Thị tịch
của Thiền sư Phúc Điền như sau:
“Các thuyết trần ngộ nhập
Dĩ
ngộ hoạch viên thông
Đạo
ngoại nguyên vô đạo
Không
trung cánh bất không.
Vu
kim truyền Chánh
pháp
Tụ
tích diễn chân tông.
Dĩ
vô sở đắc cố
Bất
tại cá ngôn trung.”
(Các
thuyết đều giải bày sự giác ngộ của mình/ Lấy giác ngộ để đạt tới sự viên
thông/ Bên ngoài đạo thì vốn không có đạo/ Trong không thì càng không phải là
không/ Như nay truyền bá Chánh
pháp/ Là kéo dài chân tông tự ngày xưa/ Do vô mà thu được/ Không phải là ở lời
nói).
Vấn đề của chúng ta là vẫn phải làm
thế nào để thực sự tiếp cận được với tư tưởng của ngài.
Tóm lại, qua
trình bày về hành trạng cùng giới thiệu những trước tác, có thể khẳng định Thiền
sư An Thiền - Phúc Điền là một danh tăng Việt Nam thế kỷ XIX, là một bậc tùng
lâm thạch trụ của Phật giáo Việt Nam triều Nguyễn. Chính nhờ giới hạnh và uy đức
của ngài nên triều đình nhà Nguyễn mới ban giới đao độ
điệp và ban tặng sắc hiệu Phúc Điền
Hòa thượng.
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn
Tuấn Cường (Thích Minh Nghiêm) (2016).
“Nghiên cứu tác phẩm Đạo giáo nguyên lưu của Hòa thượng Phúc
Điền”. Luận
án Tiến sĩ Hán Nôm, Học viện KHXH, Hà Nội.
2. Nguyễn Lang
(1994). Việt Nam Phật giáo sử luận. 3
tập. Hà Nội: Văn Học tái bản.
3. Nguyễn Công
Lý (cb), Nguyễn Công Thanh Dung (2022). Văn
học Phật giáo thời Lê - Nguyễn: diện
mạo, thành tựu, đặc điểm, tác gia tiêu biểu. Hà Nội: Khoa học Xã hội.
4. Nguyễn
Duy Phương (2019). “Phật giáo Việt Nam thời Minh Mạng”. Luận án Tiến sĩ Sử học.
5. Thích Minh Tâm (1988). “Tìm hiểu lịch sử Phật giáo Việt Nam qua bản Đạo giáo nguyên lưu của Hòa thượng Phúc Điền”. Luận văn Thạc sĩ Triết
học.
6.
Lê Mạnh Thát trong Tổng tập
văn học Phật giáo Việt Nam, tập 3.
TP.HCM: TP.HCM.
7. Nguyễn
Tài Thư (cb, 1988). Lịch sử Phật giáo Việt Nam. Hà Nội: Viện Triết học xuất bản.
8. Viện Sử học (1976). Lịch sử Việt Nam tập 1, tập 2. Hà Nội: Khoa học Xã hội.
Nguyễn Tài Thư chủ biên. 1988. Lịch
sử Phật giáo Việt Nam. Viện Triết học xuất bản. Hà Nội.
Xem Nguyễn Tuấn Cường (pháp danh Thích Minh Nghiêm) (2016) “Nghiên cứu tác phẩm Đạo giáo nguyên lưu của Hòa thượng Phúc Điền”, luận án Tiến sĩ Hán
Nôm, Học viện KHXH, Hà Nội.
Dẫn lai: Xem Nguyễn Duy Phương (2019), “Phật
giáo Việt Nam thời Minh Mạng”, luận án Tiến sĩ Sử học.