Thiền sư Thiệt Diệu Liễu Quán (1667-1742)
thien su thiet dieu
THIỀN SƯ THIỆT DIỆU LIỄU QUÁN (1667-1742)
PGS.TS. Nguyễn Công Lý*
1. Những vấn đề cần lưu ý về hành trạng và sự nghiệp
1.1.
Về các văn bản tiểu sử Tổ Liễu Quán hiện có
Thiền sư Liễu Quán (1667-1742) là một cao tăng Việt Nam, thuộc đời pháp thứ 35
tông Lâm Tế của Trung Quốc. Ngài là người khai lập Thiền phái Liễu Quán, do đó
thường được nhắc đến là Tổ Liễu Quán.
Tiểu sử Tổ Liễu Quán được chép trong Việt Nam Phật giáo sử lược của Thích
Mật Thể, Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang, Lịch sử Phật giáo
Đàng Trong của Nguyễn Hiền Đức, và tài liệu trên trang Wikipedia, tất
cả đều dựa trên bản văn bia minh tháp Tổ Liễu Quán. Sách Việt Nam Phật giáo
sử lược của Thích Mật Thể được phổ biến dưới dạng e-book và trên các trang
mạng Phật giáo như Thư viện Hoa Sen, Trang nhà Quảng Đức và Hoa
Linh Thoại, đều có đăng bản dịch bài Văn bia minh tháp Tổ Liễu Quán
do Hòa thượng Thích Thiện Siêu dịch.
Việc so sánh các bản tiểu sử của Tổ Liễu Quán được chép lại bởi các sách và các
tài liệu kể trên cho thấy nhiều chi tiết sai khác mặc dù tất cả đều khai thác từ
một nguồn là bài văn bia vừa nêu; trong đó bản tiểu sử chép trong Việt Nam
Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang dễ đọc nhất nhưng vẫn còn một vài sai sót
về niên đại và những sự kiện có liên quan đến niên đại cũng như trình tự những
sự kiện diễn ra trước lúc Tổ Liễu Quán nhập diệt. Bản hành trạng của Tổ Liễu
Quán ở đây lấy phần tiểu sử Tổ Liễu Quán trong Việt Nam Phật giáo sử luận
làm nền và dựa trên bài văn bia tháp Tổ Liễu Quán nói trên để chỉnh lý những sai
sót ấy.
1.2.
Nguồn sử liệu chính thức về hành trạng Tổ Liễu Quán
Nguồn sử liệu chính thức về hành trạng Tổ Liễu Quán vẫn là bản văn bia được dựng
trên tháp Tổ ở chùa Thiền Tôn trên núi Thiên Thai ở Huế. Bản văn bia này được
viết bởi Hòa thượng Thiện Kế, “người cháu trong đạo” của Tổ Liễu Quán, bấy giờ
đang hành đạo tại chùa Tang Liên ở Ô Lăng, thuộc tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc. Bản
văn này được khắc vào bia dựng ở bảo tháp của
Thiền
sư Liễu Quán vào tháng 4 năm Cảnh Hưng (1748, đời vua Lê Hiển Tông), 6 năm sau
ngày Tổ Liễu Quán viên tịch.
Bản dịch Văn bia minh tháp Tổ Liễu Quán của Hòa thượng Thích Thiện Siêu:
Bia minh tháp của Hòa thượng Liễu Quán thuộc dòng Lâm Tế chánh tôn đời thứ 35
được sắc phong là Chánh Giác Viên Ngộ.
Ôi, trong giáo pháp Phật-đà của ta, việc trọng đại nhất là gì? Con người sinh ra
không từ cửa tử mà đến, chết không vào cửa tử mà đi. Thế nên người xưa nằm non ở
tổ, bỏ ngủ quên ăn, chẳng tiếc thân mạng, đều vì việc lớn sinh tử. Ở thời giáo
suy pháp mạt này mà có người vì việc lớn sinh tử như Hòa thượng Liễu Quán, thật
là hy hữu.
Sư sinh giờ Thìn, ngày
18
tháng 11, năm Đinh Mùi (1667) tại làng Bạch Mã, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên
(nay là làng An Thạch, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên). Sư họ Lê, húy Thật Diệu,
hiệu Liễu Quán; đi tu từ nhỏ. Sư có thiên tư cao lớn, khí vũ siêu quần.
Sáu tuổi mồ côi mẹ, chí muốn xuất trần, được thân sinh đưa đến chùa Hội Tôn xin
tu học với Hòa thượng Tế Viên; được 7 năm thì Hòa thượng viên tịch. Sư tìm ra
Huế đô lễ Giác Phong Lão tổ ở chùa Hàm Long - Báo Quốc. Năm Tân Mùi (1691) xuống
tóc xuất gia, vừa tròn một năm lại trở về quê Phú Yên hằng ngày bán củi nuôi
cha. Thắm thoắt bốn năm thì cha qua đời. Năm Ất Hợi (1695), Sư trở lại Thuận đô
thọ giới Sa-di với Hòa thượng Thạch Liêm. Hai năm sau, nhằm năm Đinh Sửu (1697),
thọ giới Cụ túc với Từ Lâm Lão Hòa thượng.
Năm Kỷ Mão (1699), Sư tham lễ khắp chốn tòng lâm, cam sống đời đạm bạc, tâm
thường suy nghĩ: “Có pháp gì cao siêu nhất ta quyết bỏ thân mạng theo pháp đó tu
hành”. Nghe nhiều bậc
thiền
hòa các nơi nói: “Hòa thượng Tử Dung là vị khéo dạy người niệm Phật, tham thiền
nhất”. Năm Nhâm Ngọ (1702), Sư tìm đến Long Sơn, tham yết Hòa thượng Tử Dung,
cầu pháp tham thiền. Hòa thượng dạy tham cứu câu: “Vạn pháp quy nhất, nhất quy
hà xứ”. (Muôn pháp về một, một về chỗ nào). Ngày đêm tham cứu, trải qua tám chín
năm mà không ngộ được gì, tâm rất hổ thẹn. Ngày nọ nhân đọc
Truyền
đăng
lục
đến câu “Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hội xứ” (Chỉ vật truyền tâm, chỗ người
không hiểu) bỗng nhiên ngộ nhập. Song vì biển núi xa cách, không thể trình bày
chỗ ngộ với Thầy. Mãi đến xuân Mậu Tý (1708) mới trở lại Long Sơn cầu Hòa thượng
Tử Dung chứng minh, đem công phu tham cứu trình xin ấn chứng, đến câu “Chỉ vật
truyền tâm, nhân bất hội xứ”, Hòa thượng dạy: “Huyền nhai tán thủ, tự khẳng thừa
đương; tuyệt hậu tái tô, khi quân bất đắc” (Vực thẳm buông tay, tự mình đương
lấy; chết đi sống lại, dối ông sao được). Thế nào, thế nào, nói xem”. Sư vỗ tay
cười lớn: “Ha ha!”. Hòa thượng dạy: “chưa nhằm”. Sư thưa: “Bình chùy nguyên thị
thiết" (Cái cân nguyên là sắt). Hòa thượng dạy: “Chưa nhằm”. Hôm sau, Hòa thượng
dạy: “Công án ngày qua chưa rồi, nói lại xem”. Sư thưa: “Tảo tri đăng thị hỏa,
Phạn thục dĩ đa thời” (Sớm biết đèn là lửa, Cơm chín đã lâu rồi). Hòa thượng rất
khen.
Mùa hạ năm Nhâm Thìn (1712), Hòa thượng đến sách tấn rộng rãi toàn viện, Sư
trình bài kệ “Dục Phật” (Tắm Phật), Hòa thượng hỏi: “Tổ Tổ tương truyền, Phật
Phật thọ thọ, vị thẩm truyền thọ cá thậm ma?” (Tổ Tổ truyền cho nhau, Phật Phật
trao nhận với nhau, chưa rõ trao nhận cái gì?). Sư đáp: “Thạch quẩn trừu điều
trường nhất trượng, Quy mao phất tử trọng tam cân” (nghĩa: Măng đá nảy cành dài
một trượng, phủ phất lông rùa nặng ba cân). Hòa thượng lại dạy: “Cao cao sơn
thượng hành thuyền, Thâm thâm hải để tẩu mã” (Thuyền đi trên đỉnh núi cao, Ngựa
chạy dưới đáy biển sâu) là thế nào?” Sư thưa: “Chiết giác nê ngưu triệt dạ hống,
Một huyền cầm tử tận nhật đàn” (Đàn cầm đứt dây rung suốt buổi, Trâu đất gãy
sừng rống thâu đêm). Mỗi mỗi nêu ra và vào thất cầu chứng, Hòa thượng xem xong,
rất vui, rất bằng lòng ấn khả. Sư gặp cơ hội, lấy trí biện đáp rất thích hợp,
như nắp đậy hộp, sữa hòa nước. Cơ duyên rất nhiều, không thể chép hết.
Năm Nhâm Dần (1722), Sư trở lại Huế, trú ở Tổ đình luôn trong ba năm Quý Sửu,
Giáp Dần và Ất Mão thể theo lời thỉnh cầu của cư sĩ Tể Quan hộ pháp và các hàng
xuất gia tại gia, mở bốn giới đàn lớn. Năm Canh Thân (1740) lại tấn đàn Long Hoa
truyền giới rồi trở về Tổ đình.
Bấy giờ chúa Nguyễn quý trọng đạo đức
Sư,
có tâm ân cần vì pháp đối với đạo vị của Sư nên xuống chiếu sắc mời
Sư
vào cung, nhưng
Sư
vốn cao thượng, chí nguyện ở suối rừng mà tạ từ chiếu chỉ, không đến.
Mùa xuân năm Nhâm Tuất (1742) lại mở giới đàn ở chùa Viên Thông; đến mùa thu năm
ấy nhuốm bệnh nhẹ, giống như không bệnh; đến giữa tháng 10, Sư gọi môn đồ đến
dạy rằng:“Duyên ở đời đã hết, ta sắp đi đây”. Môn đồ khóc lóc, Sư bảo: “Các
ngươi khóc cái gì? Chư Phật ra đời còn nhập Niết-bàn, ta nay đến đi rõ ràng, về
tất có chỗ, các ông không nên buồn khóc”.
Đến tháng 11 năm ấy (năm 1742), trước khi thị tịch mấy ngày,
Sư
ngồi ngay thẳng, lấy viết chép kệ từ biệt đời. Kệ rằng: “Hơn bảy mươi năm trong
thế giới, Không không sắc sắc thảy dung thông, Ngày nay nguyện mãn về nhà cũ,
Nào phải bôn ba hỏi Tổ tông”. Tuy nhiên như vậy, câu cuối cùng của Lão tăng hiểu
thế nào, hãy nói: “Nguy nguy đường đường, vĩ vĩ hoàng hoàng. Tích nhật giá cá
lai, kim triêu giá cá khứ, yếu vấn lai khứ sự nhược hà. Trạm trạm bích thiên thu
nguyệt hao, đại thiên sa giới lộ toàn thân” (Nguy nguy đường đường, sáng láng
rực rỡ. Ngày xưa cái ấy đến, ngày nay cái ấy đi, cần hỏi việc đến đi thế nào.
Trời xanh lặng lặng trăng thu sáng, thêm giới đại thiên lộ toàn thân). Ngài nói
thêm, “Sau khi ta đi, các ông hãy nên nghĩ đến vô thường mau chóng, siêng học
Bát-nhã, chớ bỏ qua lời ta. Mỗi người hãy nên cố gắng”.
Vào ngày 22, sáng sớm uống trà, nói chuyện và hành lễ xong, Sư hỏi: “Bây giờ là
giờ gì?” Môn đồ đáp: “Giờ Mùi”. Sư an nhiên thị tịch. Chúa sắc làm bia ký ca
ngợi đạo hạnh của Sư, ban thụy hiệu là “Chánh Giác Viên Ngộ Hòa thượng”.
Sư sinh giờ Thìn ngày
18
tháng 11 năm Đinh Mùi, thọ 76 tuổi; 43 năm được truyền y, 34 năm thuyết pháp lợi
sinh. Đệ tử nối pháp có 49 người. Hàng tại gia, xuất gia được lợi ích nhờ sự hóa
đạo của sư có cả ngàn vạn.
Ngày 19 tháng 2 năm Quý Hợi (1743), nhập tháp tại phía nam núi Thiên Thai thuộc
xã An Cựu, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên. Kế tôi gặp lúc đi đến phương nam
hỏi han, nghe nói sư đạo phong cao lớn, hành hóa ở xứ này, độ người vô số, khế
hợp tâm Phật tổ, nối đời xuất gia, công hạnh và kiến giải
chân thật, xa gần đều khâm phục. Rất tiếc tôi không kịp được gặp. Nay các môn
nhân và đồ chúng nghĩ rằng: Tháp đã làm xong, cần phải dựng bia ký, biết Kế tôi
là người trong cuộc, chắc biết việc trong cuộc nên đặc biệt yêu cầu tôi viết bài
minh để dựng bia. Kế tôi thẹn mình bút mực sơ sài, đâu dám nhận lãnh. Song kẻ
hèn này đã ở trong cửa pháp, tình pháp hữu hẳn khó chối từ; vả lại, khâm phục
đạo phong cao khiết, nếu không nêu cao sự nghiệp hoằng pháp độ sinh của Sư, thời
đời sau không có ai chép lại.
Ôi, nếu lấy mắt thường xem thời thấy có tướng sinh diệt đi lại; nếu lấy mắt đạo
xem thời không phải vậy. Sư tuy tịch diệt mà thật đã chứng cảnh Niết-bàn không
sinh không diệt, đâu cần tán dương.
Nhưng vì Sư trong lúc ở đời có nhiều công đức, sự nghiệp lớn lao, không thể để
cho mai một. Song sự tướng ở đời và nhân duyên vào đạo của Sư sợ chưa được rõ
hết, nên tôi soạn lời bia ký này; thí như người mù sờ voi, chỉ ghi lại được đôi
phần mà thôi.
Bài minh ghi rằng:
Lờ đờ nước chảy, Nguồn xa dòng dài.
Đèn tuệ nối lửa, Đạo tổ sáng hoài.
Cháu con vô số, Như voi như rồng.
Núi báu bỗng hiện, Tôn phong siêu lạ,
Trí biện dung thông, Cơ thiền nhạy bén.
Hóa duyên đã mãn, Ai nấy tôn phong.
Bên núi Thiên Thai, Dựng tháp Vô Phùng.
Pháp thân hiển lộ, Ở giữa muôn trùng.
Năm Cảnh Hưng thứ 9 (1748), tháng Tư, ngày Tốt, Trung Hoa, Phúc Kiến, huyện Ôn
Lăng, chùa Tang Liên, cháu trong đạo là Hòa thượng Thiện Kế soạn.
1.3.
Hành trạng Tổ Liễu Quán theo thông tin trong Việt Nam Phật giáo sử luận
+
Thuyết minh lý do cần chỉnh lý
Văn bia để kỷ công một cá nhân là loại văn được khắc trên đá, cần phải cô đọng
mà ghi nhận được những sự kiện quan trọng trong cuộc đời của người được lập bia;
bên cạnh đó, nội dung văn bia còn có những lời tán tụng hoặc thể hiện cảm xúc
của người viết văn bia về những kỷ niệm đối với người được dựng bia, do đó nhiều
chi tiết liên quan đến bối cảnh của cuộc đời của người được dựng bia không được
nêu ra. Bản văn bia kỷ công Tổ Liễu Quán cũng vậy, những sự kiện liên quan đến
cuộc đời tu tập và hành đạo của Tổ chỉ chiếm 70% nội dung bản văn, trong đó
những lời đối đáp giữa các vị cao tăng cũng có một phần quan trọng. Vì thế, ngay
cả trường hợp bia Tổ Liễu Quán được gìn giữ nguyên vẹn, sử dụng làm tài liệu
nguồn để dựng lại hành trạng của ngài.
Dưới đây là sơ lược hành trạng Tổ Liễu Quán căn cứ trên văn bản của Việt Nam
Phật giáo sử luận sau khi đã chỉnh lý một vài sai sót về niên đại so với
những gì
được
ghi trên bia minh của Tổ:
+ Viết lại hành trạng Tổ Liễu Quán
Tổ Liễu Quán là người làng Bạch Mã, huyện Ðồng Xuân, tỉnh Phú Yên, sinh năm 1667
từ một gia đình nghèo. Ngài mồ côi mẹ từ hồi lên sáu tuổi. Năm mười hai tuổi
ngài đi chùa Hội Tôn với cha. Gặp
Thiền
sư Tế Viên, ngài rất kính mến và xin ở lại chùa để học đạo. Cha ngài ưng thuận.
Làm chú tiểu ở chùa Hội Tôn, ngài được
Thiền
sư Tế Viên thương yêu. Ngài làm việc vặt, nấu nước, nhặt rau, thực hành hai thời
khóa tụng hàng ngày, học chữ Hán,
luật
Sa-di
và những kinh điển dễ học. Bảy năm sau, thiền sư viên tịch. Lúc bấy giờ ngài mới
mười chín tuổi. Tang lễ của thầy làm xong, ngài để chùa cho các sư huynh trông
nom, một mình lên đường học đạo.
Năm 1690, ngài vượt núi băng ngàn ra tận núi Hàm Long ở Thuận Hóa (ngày nay là
tỉnh Thừa Thiên Huế) cầu học với
Thiền
sư Giác Phong. Năm 1691 ngài được chấp nhận ở lại đây (chùa Hàm Long, sau này là
chùa Báo Quốc) để tu học. Mới được một năm tròn thì nghe tin thân phụ bị bệnh,
ngài xin phép trở lại quê nhà để lo chăm sóc cho cha. Hàng ngày ngài lên rừng
đốn củi, đem về đổi gạo nấu cơm cho cha ăn. Bốn năm sau, thân phụ ngài từ trần.
Lo ma chay cho cha xong, ngài lại lên đường học đạo. Năm 1695, nghe nói
Thiền
sư Thạch Liêm tổ chức giới đàn lớn tại chùa Thiền Lâm, Thuận Hóa, ngài đến xin
thọ giới Sa-di. Sau đó, năm 1697, ngài đến xin thụ giới Tỳ-kheo tại Giới đàn do
Thiền
sư Từ Lâm làm Hòa thượng Ðường đầu.
Hai năm
sau,
ngài lại lên đường cầu học, tham lễ khắp các tổ đình. Năm 1702 ngài được gặp
Thiền
sư Tử Dung tại chùa Ấn Tôn núi Long Sơn, Thuận Hóa. Thiền sư dạy ông tham khảo
công án: “Muôn pháp về một, một về chỗ nào?” (Vạn pháp quy nhất, nhất quy hà
xứ?). Ông rút về núi Phú Yên tĩnh cư, tham cứu đến năm năm mà chưa phá vỡ được
công án ấy, trong lòng lấy làm hổ thẹn. Một hôm đọc Truyền đăng lục đến
câu “trỏ vật mà truyền tâm, chính vì vậy mà người ta không hiểu” (Chỉ vật
truyền tâm, nhân bất hội xứ), thoạt nhiên ngài thấy tỏ ngộ, bèn buông sách
xuống.
Mùa xuân năm 1708, ngài trở ra Long Sơn, trình bày công phu
của
mình với
Thiền
sư Tử Dung. Hòa thượng Tử Dung nói: “Hố thẳm buông tay, Một mình cam chịu. Chết
đi sống lại, Ai dám chê mình”. Liễu Quán vỗ tay cười. Tử Dung nghiêm nét, nói:
“Chưa được”. Liễu Quán lại thưa: “Cái cân vốn là sắt” (Bình thùy nguyên thị
thiết). Tử Dung lắc đầu. Sáng hôm sau, Tử Dung thấy
ngài
đi ngang, gọi lại bảo: “Chuyện ngày hôm qua nói chưa xong, hôm nay hãy nói lại
xem”. Liễu Quán đọc: “Sớm biết đèn là lửa,
Cơm chín đã lâu rồi!”
Bấy giờ Tử Dung không tiếc lời khen ngợi.
Mùa hè năm 1712 khi hai người gặp nhau lần thứ ba tại đại lễ Toàn Viện được tổ
chức ở Quảng Nam, Liễu Quán đem trình Tử Dung bài kệ Tắm Phật mà ngài mới
làm.
Tử Dung hỏi: “Tổ truyền cho Tổ, Phật truyền cho Phật, chẳng hay họ truyền nhau
cái gì nhỉ?”.
Liễu Quán đọc liền hai câu: “Búp măng trên đá dài hơn trượng, Cây chổi lông rùa
nặng ba cân”.
Tử Dung lại đọc: “Chèo thuyền trên núi cao, Phi ngựa dưới đáy biển”.
Liễu Quán đáp lời: “Dây đứt đàn tranh chơi suốt buổi, Gãy sừng trâu đất rống
thâu đêm” Tử Dung gật đầu tỏ ý rất bằng lòng.
Thiền sư Liễu Quán lúc bấy giờ đã 46 tuổi. Ngài đã có nhiều đạo tràng hành đạo:
chùa Thiền Tôn và chùa Viên Thông ở Thuận Hóa; các chùa Hội Tôn, Cổ Lâm và Bảo
Tịnh ở Phú Yên. Chùa Thiền Tôn được tạo dựng ở núi Thiên Thai (thuộc địa phận
làng An Cựu, huyện Hương Trà, phủ Phú Xuân, nay thuộc thôn Ngũ Tây, xã Thủy An,
thành phố Huế), vào khoảng năm 1708. Mãi đến năm 1747, nghĩa là năm năm sau khi
Thiền
sư Liễu Quán tịch, chùa mới được chúa Nguyễn Phúc Khoát ban biển ngạch sắc tứ.
Ðại hồng chung hiện giờ của chùa cũng được đúc vào năm đó, tức là năm Cảnh Hưng
thứ tám. Chùa Viên Thông (nằm trong địa bàn xã An Cựu, huyện Hương Thủy, tỉnh
Thừa Thiên Huế) cũng được Tổ Liễu Quán tạo dựng ở chân núi Ngự Bình. Chúa Nguyễn
Phúc Khoát (1738-1756) rất sùng kính đạo hạnh của ngài, nhiều lần triệu thỉnh
vào phủ, nhưng ngài một mực từ chối, không muốn lui tới nơi triều đình. Vì vậy,
chúa thường tới chùa Viên Thông ở chân núi Ngự Bình để thăm ngài và hỏi đạo. Vì
lý do đó, ngọn núi kia được gọi là núi Ngự. Bốn giới đàn lớn được tổ chức liên
tiếp trong ba năm, từ 1733 đến 1735 tại Thừa Thiên, có sự tham dự của các cao
tăng và các bậc tể quan cư sĩ ở kinh đô; Tổ Liễu Quán được thỉnh cầu chủ tọa.
Giới Phật tử rất hâm mộ ngài, cho nên năm 1740 lại thỉnh cầu ngài chủ tọa giới
đàn Long Hoa. Xong giới đàn này, ngài trở về chùa Thiền Tôn.
Năm 1742, tuy đã 76 tuổi, ngài vẫn được thỉnh làm Hòa thượng Ðường đầu của giới
đàn tổ chức tại chùa Viên Thông. Ðệ tử thụ giới của ngài kể cả xuất gia lẫn tại
gia có tới gần bốn ngàn người.
Mùa thu năm ấy (1742), Tổ Liễu Quán an trú tại chùa Viên Thông; có lúc nhuốm
bệnh nhẹ, giống như không bệnh. Khoảng giữa tháng 10, ngài gọi môn đồ đến dạy
rằng: “Duyên ở đời đã hết, ta sắp đi đây”. Môn đồ khóc lóc, ngài bảo: “Các ngươi
khóc cái gì? Chư Phật ra đời còn nhập Niết-bàn, ta nay đến đi rõ ràng, về tất có
chỗ, các ông không nên buồn khóc”.
Đến sáng ngày 21 tháng 11 âm lịch, ngài gọi thị giả mang giấy bút tới, và viết
bài kệ sau đây:
Thất thập dư niên thế giới trung, Không không sắc sắc diệc dung thông.
Kim triêu nguyện mãn hoàn gia lý, Hà tất bôn mang vấn tổ tông.
(Ngoài bảy mươi năm cõi sắc không, Sắc không không sắc đã dung thông
Sáng nay vẹn ước, về quê cũ, Há phải tìm cầu hỏi tổ tông).
Viết kệ xong, ngài nói: “Sau khi tôi đi, quý vị phải nghĩ đến sự vô thường nhanh
chóng của cuộc đời mà siêng năng tu tập trí tuệ, chớ quên lời dặn của tôi”.
Vào ngày 22, sáng sớm uống trà, nói chuyện và hành lễ xong, ngài hỏi: “Bây giờ
đã đến giờ chưa?”. Môn đồ đáp: “Thưa đã đúng giờ”. Nghe như thế xong ngài nhắm
mắt mà tịch trong tư thế kiết-già.
Chúa Chúa Nguyễn Phúc Khoát sắc làm bia ký ca ngợi đạo hạnh của ngài, ban thụy
hiệu là “Chánh Giác Viên Ngộ Hòa thượng”.
Tháp của ngài được dựng tại chùa Thiền Tôn trên núi Thiên Thai. Ngài là người
thuộc đời thứ 35 dòng Lâm Tế.
Thiền sư Liễu Quán đã làm cho
Thiền
phái Lâm Tế Trung Quốc trở thành một thiền phái linh động, có gốc rễ ở Ðàng
Trong
như Nguyễn Lang đã khẳng định trong công trình
Việt Nam Phật giáo sử luận.
Trước ngài, Phật giáo ở Ðàng Trong mang nặng màu sắc Quảng Ðông. Ngài đã Việt
hóa
Thiền
phái Lâm Tế, và làm cho
thiền
phái này trở thành
thiền
phái của đa số Phật tử Ðàng Trong. Kiến trúc lễ nhạc bắt đầu trút bỏ màu sắc
Trung Quốc và từ từ mang lấy màu sắc dân tộc. Những bài tán lễ như “Cực lạc
từ
hàng”
chẳng hạn, đã hoàn toàn mang màu sắc Việt. Bốn vị đệ tử lớn của ngài là Tổ Huấn,
Trạm Quan, Tế Nhân và Từ Chiếu đã tạo lập bốn trung tâm hoằng đạo lớn, và hàng
chục
tổ
đình được tạo dựng khắp Ðàng Trong trong thế kỷ
XVIII
đã thuộc về môn phái Liễu Quán. Phong trào
Chấn hưng
Phật giáo
nửa đầu
ở thế kỷ
XX
đã dựa trên cơ sở của môn phái mang tên ngài.
2.
Bài kệ truyền pháp và kệ thị tịch của ngài Liễu Quán
Tất cả mọi tài liệu nói về Tổ Liễu Quán đều không cho biết Tổ có để lại những
trước tác nào hay không. Do đó, hiện chỉ có một bài kệ thị tịch và bài kệ truyền
pháp có thể sử dụng để tìm hiểu tư tưởng của Tổ. Về phương diện thực tiễn, rõ
ràng Thiền phái Liễu Quán đã ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động Phật giáo miền Nam
Việt Nam (từ Quảng Bình đổ vào) cho đến tận cuối thế kỷ XX. Cho nên chỉ có thể
đoán định rằng tư tưởng của Tổ, mặc dù học hành tu tập dưới sự hướng dẫn của các
vị thiền sư người Trung Quốc, vẫn có thừa kế phong vị thiền kiểu
“hòa
quang đồng trần”
và
“cư
trần lạc đạo”,
khiến cho tác giả Việt Nam Phật giáo
sử
luận
nhận định rằng ngài Liễu Quán “đã Việt hóa
Thiền
phái Lâm Tế, và làm cho thiền phái này trở thành thiền phái của đa số Phật tử
Ðàng Trong”. Và cũng có thể đoán định rằng chính cuộc sống thời niên thiếu của
Tổ đã quyết định thiên hướng ấy: Tổ mồ côi mẹ từ sớm, xuất gia làm điệu từ lúc
mới mười hai tuổi, có những giai đoạn phải trở về nhà để phụng dưỡng cha già
bằng việc kiếm củi độ nhật, khoảng thời gian năm sáu năm tham khảo công án mà
Thiền
sư Tử Dung đã trao…
Trước khi tịch, ngài
để lại bài kệ truyền pháp sau đây:
Thiệt tế đại đạo, Tính hải thanh trừng, Tâm nguyên quảng nhuận, Ðức bổn từ
phong, Giới định phước huệ, Thể dụng viên thông, Vĩnh siêu trí quả, Một khế
thành công, Truyền trì diệu lý, Diễn xướng chính tông, Hành giải tương ứng, Ðạt
ngộ chân không.
(Ðường lớn thực tại, Biển thể tính trong, Nguồn tâm thấm khắp, Gốc đức vun
trồng, Giới định cùng tuệ, Thể dụng viên thong, Quả trí siêu việt, Hiểu thấu nên
công, Truyền giữ lý mầu, Tuyên dương chính tông,
Hành giải song song, Ðạt ngộ chân không.)
Ngài Liễu Quán có pháp danh là Thiệt Diệu. Chữ “Thiệt” là thế hệ thứ 35 của dòng
Thiền Lâm Tế (? - 866) người đời Đường, Trung Quốc. Khi xuất kệ thành lập chi
phái thì ngài Liễu Quán là Sơ Tổ (Đệ nhất Tổ) dòng Thiền Lâm Tế Liễu Quán ở Việt
Nam.
Về
bài kệ thị tịch của Tổ cũng như hầu hết những bài kệ thị tịch của các thiền sư
khác, đều nói lên thái độ an nhiên trước sinh tử, xác định cuộc đời của các ngài
đã hoàn mãn mọi công việc cần làm trong một tâm thái ung dung, làm hết lòng mà
không cầu toàn. Lời bài kệ thị tịch của Tổ rõ ràng nói ý đó:
Thất thập dư niên thế giới trung, Không không sắc sắc diệc dung thông
Kim triêu nguyện mãn hoàn gia lý, Hà tất bôn mang vấn tổ tông.
(Ngoài bảy mươi năm cõi sắc không, Sắc không không sắc đã dung thông
Sáng nay vẹn ước, về quê cũ, Há phải tìm cầu hỏi tổ tông).
Hành giả mỗi khi đã chứng ngộ, đã dung thông cái lẽ sắc không, thấu rõ bản thể
chân như tự tại rồi thì cần gì phải truy tìm nguồn cội, gốc gác của bản thân, tự
tính nữa.
Tóm lại, qua hành trạng và sự nghiệp của Tổ Liễu Quán cho ta thấy Tổ cũng là một
nhân vật hành động. Thái độ hành động của ngài thật quyết liệt khi tâm nguyện
của ngài được ghi trong bài bia mình rằng, “Có pháp gì cao siêu nhất ta quyết bỏ
thân mạng theo pháp đó tu hành”. Và quả thực, ở một góc độ nào đó, ngài đã thành
tựu tâm nguyện của mình. Chắc chắn hành trạng của những vị kế thế của Tổ cũng có
mang những dấu ấn của Tổ, và có lẽ đó là điều
hàng
hậu học chúng ta cần để tâm suy nghĩ.
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Công Lý (cb), Nguyễn Công Thanh Dung (2022). Văn học Phật giáo thời
Lê - Nguyễn: diện mạo, thành tựu, đặc điểm, tác gia tiêu biểu. Hà
Nội: KHXH.
2. Nguyễn Hiền Đức (1995). Lịch sử Phật giáo Đàng Trong. 2 tập. HCM: Tổng
Hợp TP.HCM.
3. Nguyễn Lang (1994). Việt Nam Phật giáo sử luận. 3 tập. Hà Nội: Văn
Học. tái bản.
* GVCC Trường Đại học KHXH & NV, ĐHQG TP.HCM.