Tìm hiểu về các bản viết tay lá cọ ở Ấn Độ
TÌM HIỂU VỀ CÁC BẢN VIẾT TAY TRÊ
TÌM HIỂU VỀ CÁC BẢN VIẾT TAY TRÊN LÁ CỌ Ở ẤN ĐỘ
E.B. Wilson và J. Rice
- Vô Ưu lược dịch
Ở Nam và Đông Nam Á, lá cọ là một vật liệu được sử dụng phổ biến làm nền cho các
bản viết tay và tranh vẽ trước khi giấy ra đời.
Trong bài viết này, chúng tôi sẽ thảo luận về ý nghĩa lịch sử và văn hóa của các
bản viết tay trên lá cọ và cấu trúc vật lý của chúng. Mặc dù không thể xác định
được lá cọ được sử dụng làm “giấy” viết bắt đầu từ khi nào, nhưng có bằng chứng
cho thấy rằng nó có mặt từ khá sớm ở các khu vực khác nhau trên thế giới. Một
trong những tài liệu sớm nhất có nói đến việc ghi chép trên lá cọ là một văn bản
Phật giáo Pāli sơ kỳ từ thế kỷ V tr.TL, ở đó có đề cập đến nhiều loại vật liệu
khác nhau dùng làm nền viết.
Trong chuyên luận của mình, Naturalis Historia, Pliny the Elder (23-79
TL) cũng đã ghi lại việc sử dụng lá cọ để viết tài liệu ở Hy Lạp và La Mã.
Mục đích chung của các bản viết tay là lưu giữ và truyền bá kiến thức, và lá cọ
là một phương tiện thuận tiện. Các bản viết tay trên lá cọ là “các vật thể nhỏ,
nhẹ và dễ vận chuyển…”.
Các văn bản quan trọng đã được viết và sau đó được sao chép lại và lưu hành khắp
Nam Á, Trung Á và Đông Nam Á. Một số lượng lớn các bản viết tay lịch sử vẫn còn
tồn tại (ước tính lên tới 30 triệu bản), nhưng đây chỉ là một số lượng rất nhỏ
so với các bản viết tay có thể đã từng tồn tại.
Các bản viết tay trên lá cọ thực sự rất bền. Chúng “có thể tồn tại một thiên
niên kỷ hoặc hơn nếu được xử lý tốt.”
Tuy nhiên, khí hậu và việc sử dụng dẫn đến sự xuống cấp. Trước hết, do bản chất
hữu cơ của chúng, các lá cọ có thể bị phân hủy. Ở những khu vực nóng ẩm của Nam
Á, chẳng hạn như Nam Ấn và Sri Lanka, chúng có tuổi thọ khoảng 400-500 năm.
Tuy nhiên, ở Trung Á, các bản viết tay trên lá cọ có thể tồn tại lâu dài hơn do
độ ẩm thấp và nhiệt độ mát hơn.
Một số trong những văn bản viết tay này đã được sử dụng nhiều và bị hư hại theo
thời gian. Do đó, các văn bản này được sao chép lại, và sau đó các phiên bản bị
hư hỏng hoặc xuống cấp sẽ bị loại bỏ, thường là bằng cách đốt hoặc ngâm trong
nước để thể hiện sự tôn kính.
Do đó, không có gì ngạc nhiên khi các phiên bản viết tay trên lá cọ đầu tiên đã
bị mất.
Việc sử dụng các bản viết tay trên lá cọ đạt đến đỉnh điểm vào đầu thế kỷ XIX.
Trong thực tế, hầu hết các bản viết tay còn tồn tại đều có niên đại từ đầu thế
kỷ XIX. Có nhiều bản viết tay còn sót lại từ những năm 1820 và 1830 hơn bất cứ
thời kỳ nào khác.
Điều này một phần là do việc sử dụng giấy và công nghệ in tương đối chậm ở Ấn Độ.
Giấy thủ công bắt đầu dần thay thế lá cọ từ thế kỷ XVIII, trong khi máy in, được
người Bồ Đào Nha đưa vào Ấn Độ vào thế kỷ XVI, đã không được áp dụng rộng rãi
cho đến cuối thế kỷ XIX.
Ngày nay, vẫn còn những nơi ở Ấn Độ mà ở đó người ta tạo ra những bản viết tay
trên lá cọ và chúng trở thành đối tượng thu hút sự quan tâm của một số học giả
phương Tây quan tâm đến nghệ thuật sách. Ở Orissa, các bản viết tay trên lá cọ (chủ
yếu chứa các hình minh họa được vẽ để bán cho khách du lịch) đang được tạo ra
bằng những phương pháp truyền thống, nhưng cũng sử dụng các cải tiến như in lụa
hoặc cơ học và các cấu trúc mới như lá khâu và lá hai lớp có chứa các đường cắt
và gáy.
Về mặt lịch sử, các bản viết tay được lưu giữ bởi các vị thầy, vua chúa và các
tổ chức tôn giáo, chẳng hạn như đền chùa và tu viện.
Cũng có những bộ sưu tập lớn trong nhà của những người Bà-la-môn, các thành viên
của giai cấp tư tế mà họ thừa hưởng những bản văn này từ tổ tiên của họ.
Do đó, các bản viết tay trên lá cọ đã được lưu giữ trong nhiều điều kiện khác
nhau, điều này cuối cùng đã ảnh hưởng đến sự tồn tại và tình trạng của chúng
ngày nay.
Hiện nay, các bản viết tay trên lá cọ của Nam Á có thể được tìm thấy trong các
thư viện và viện bảo tàng ở cả khu vực Nam Á và những nơi khác, mặc dù nhiều bản
viết tay vẫn được lưu giữ riêng trong các bộ sưu tập cá nhân và tại các đền chùa
và tu viện. Điều này tạo ra những thách thức về bảo tồn cũng như đạo đức. Như
Sah đã chỉ ra, “Mặc dù thực tế là các bản viết tay thì thiêng liêng, nhưng hàng
trăm, nếu không muốn nói là hàng ngàn bản, đã bị thất lạc mỗi năm do sự bỏ bê.”
Trong 10 đến 15 năm qua, chính phủ Ấn Độ đã nỗ lực rất nhiều để xác định vị trí,
lập tài liệu và bảo tồn các bản viết tay trên lá cọ trên toàn quốc. Ngoài ra còn
có những nỗ lực quốc tế, chẳng hạn như dự án Ký ức thế giới của UNESCO,
với hy vọng bảo tồn cả văn hóa vật chất của các bản viết tay trên lá cọ và kiến
thức văn hóa lưu giữ ở trong đó. Ví dụ, một dự án được thực hiện bởi Chương
trình Lưu trữ Nguy cấp của Thư viện Anh và nó cho thấy là cần thiết bởi vì
“các bản viết tay được lưu giữ trong các kho tư nhân bị bám bụi, dễ gãy vỡ và có
nguy cơ bị hư hại hàng ngày do thiếu kiến thức bảo quản.”
Ở dự án này, “200.000 trang bản viết tay trên lá cọ từ năm quận ở Bắc Kerala, Ấn
Độ” chứa thông tin về “lịch sử, khoa học, toán học, kiến trúc, triết học và kinh
điển” đã được làm sạch cẩn thận trước khi được lưu trữ kỹ thuật số.
2. Tầm quan trọng văn hóa của các bản viết tay trên lá cọ
Các bản viết tay trên lá cọ là một phần quan trọng trong quá trình phát triển
kiến thức văn hóa Nam Á và thực hành tôn giáo. Ở Nam Á, vào khoảng thế kỷ I
tr.TL, đã có một sự thay đổi từ việc truyền đạt kiến thức văn hóa bằng lời nói
sang các tài liệu ghi chép, đầu tiên là trên đá, sau đó là trên lá cọ, và cuối
cùng là trên giấy.
Như vậy, trong khoảng hai thiên niên kỷ, các bản viết tay, và đặc biệt là các
bản viết tay trên lá cọ, là cách thức chính để truyền tải kiến thức.
Tính đa dạng ở nơi những bản viết tay trên lá cọ là một lý do tại sao việc bảo
quản chúng lại quan trọng đến vậy. Các bản viết tay trên lá cọ bao gồm nhiều
ngôn ngữ và chữ viết trải rộng khắp tiểu lục địa, đồng thời bao gồm nhiều chủ đề
khác nhau. Các bản viết tay trên lá cọ ghi lại và truyền đạt kiến thức về lịch
sử, y học, chiêm tinh, nghệ thuật và văn hóa.
Chúng cũng được sử dụng để ghi lại thông tin hành chính và những thông tin khác.
Ngoài ra, một số bản viết tay là những tác phẩm nghệ thuật tinh xảo. Tuy nhiên,
ảnh hưởng quan trọng nhất của chúng là phát triển và truyền bá các văn bản tôn
giáo của ba truyền thống tôn giáo Nam Á - Ấn Độ giáo, Kỳ-na giáo và Phật giáo.
Chúng cũng có ảnh hưởng đến việc truyền bá Ấn Độ giáo và Phật giáo đến Đông Nam
Á và Đông Á.
Trong cả ba truyền thống tôn giáo, việc bảo tồn kiến thức thông qua nghiên cứu,
giảng dạy và viết ra thành văn bản là điều được quan tâm. Các văn bản được lưu
giữ ở nơi các bản viết tay trên lá cọ được “viết, sao chép, nhân bản và bảo
quản” bởi các tu sĩ và các học giả và được lưu giữ tại các trung tâm tôn giáo và
đền chùa.
Trong Kỳ-na giáo và Phật giáo, các bản viết tay trở nên quan trọng về mặt nghi
lễ. Do đó, những truyền thống tôn giáo này là trung tâm của câu chuyện về việc
sử dụng các bản viết tay trên lá cọ và tầm quan trọng đương đại của chúng ở Nam
Á.
Các bản viết tay đã đóng một vai trò quan trọng trong đời sống trí tuệ, tôn giáo
và cộng đồng của Kỳ-na giáo ở các bang Gujarat và Rajasthan ở Tây Ấn.
Những văn bản mà chúng quan trọng nhất trong cuộc sống hàng ngày của người Kỳ-na
thì được sao chép thường xuyên hơn. Nhiều trong số những văn bản này chứa đựng
những lời dạy của Mahavira, một trong những nhân vật tôn giáo chính trong đức
tin Kỳ-na giáo. Đặt mua các bản viết tay là một cách thể hiện lòng sùng đạo và
“... thiết lập nơi cất giữ chúng là một trong những nhiệm vụ của người tín đồ,
như một phần của sự ủng hộ và sự nhiệt tâm của họ đối với cộng đồng tu sĩ.”
Do đó, các thư viện và kho lưu trữ đã trở thành một không gian quan trọng trong
các cộng đồng Kỳ-na. Những Jnan bhandar (kho chứa tri thức) được bắt đầu từ thế
kỷ VIII. Trong thực tế, những thư viện này thường giống các nơi lưu trữ hơn, với
các bản viết tay được cất giữ trong “những căn hầm nhỏ, tối tăm, không được
thông gió, hoặc trong những căn phòng tương tự trên mặt đất.”
Những điều kiện này thường bảo vệ các bản viết tay trên lá cọ khỏi bị hư hại vì
chúng là những nơi khô ráo, tối và mát mẻ.
Trong Kỳ-na giáo, các tín đồ thường tôn kính những văn bản này. Mỗi năm một lần
vào ngày lễ được gọi là Jnan Panchami, những tín đồ Kỳ-na đến các thư viện “để
kính lễ cả kiến thức được chứa đựng trong các bản viết tay và chính các bản viết
tay vật lý.”
Các bản viết tay trên lá cọ cũng quan trọng đối với sự phát triển và truyền bá
Phật giáo, đặc biệt là Phật giáo Đại thừa. Điều này một phần là do sự tôn kính
đối với kinh sách và các bản viết tay của một số cộng đồng Phật giáo, đặc biệt
là vào thời kỳ Pala (thế kỷ thứ VIII-XII). Bát-nhã bát thiên tụng
(Aṣṭasāhasrikā Prajñāpāramitā) là “một trong những bản văn Đại thừa quan trọng
nhất và sớm nhất” đã được viết ra.
Vào thời Pala, địa vị của Bát-nhã bát thiên tụng “trở nên nổi bật đến mức
[các bản viết tay của văn bản này] đã trở thành đối tượng thờ phụng.”
Ngay cả ngày nay, việc đọc tụng và tôn kính các bản kinh tạo thành “một phần
quan trọng trong thực hành Phật giáo.”
Do tầm quan trọng và sự tôn kính rộng rãi Bát-nhã bát thiên tụng, có
nhiều thư viện và viện bảo tàng lưu giữ các bản chép tay của bản kinh này hoặc
các văn bản dẫn chiếu nó. Bản Bát-nhã bát thiên tụng do Thư viện Wellcome
(London) lưu giữ có niên đại từ năm 1075 TL và ở trong tình trạng tuyệt vời.
Ngoài ra còn có một bản viết tay hoàn chỉnh của bản kinh này tại Viện Nghệ thuật
Detroit; bộ kinh chép tay này bao gồm “249 tờ được viết trên cả hai mặt ngoại
trừ trang phải của tờ đầu tiên.”
Theo phần ghi chép ở cuối cuốn sách, bản viết tay được thực hiện vào khoảng năm
1160 TL.
Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan ở Thành phố New York cũng lưu giữ một bộ viết
tay trên lá cọ của bản kinh này, nhưng nó cũng chứa đựng một số hình minh họa
sớm nhất từ thời kỳ Pala (1000-1200).
Bởi vì ý nghĩa văn hóa và tôn giáo của những văn bản này, các học giả, thủ thư
và nhà bảo tồn đã cố gắng tìm cách đưa những văn bản cổ này vào thế kỷ XXI và
giúp cho nhiều người có thể tiếp cận chúng hơn, cả ở Nam Á và bên ngoài Nam Á.
Do đó, việc thực hiện số hóa và cơ sở dữ liệu trực tuyến, xem đây như một phương
tiện bảo tồn di sản chứa đựng trong các bản viết tay trên lá cọ cũng như văn hóa
vật chất của chính các bản viết tay, là một điều hết sức cần thiết.
Ngoài các vấn đề kỹ thuật còn có những vấn đề đạo đức quan trọng cần xem xét về
việc bảo tồn các bản viết tay trên lá cọ. Đầu tiên, có một thực tế là một số bản
viết tay trên lá cọ được coi là vật thể thiêng liêng. Ví dụ, khi các giáo sư từ
Viện Công nghệ Rochester đánh giá và số hóa 36 bản viết tay tại một tu viện ở Ấn
Độ, các tu sĩ là những người duy nhất được phép chạm vào “những chiếc lá mỏng
manh và thiêng liêng”.
Giáo sư Mukund cho biết rằng “các học giả… mỗi lần lấy một chiếc lá và đặt nó
lên bàn để chụp ảnh.” Theo Sharma và cộng sự, “ở một số khu vực của Ấn Độ, người
ta tin rằng bản thân bản viết tay trên lá cọ là đối tượng được thờ phụng và là
phần cốt lõi của văn bản được nhân cách hóa dưới danh nghĩa của một vị thần hoặc
nữ thần.”
Florian mô tả sự tôn trọng và cẩn thận cần phải có đối với các đồ tạo tác nói
chung vì chúng tượng trưng cho “các tài liệu về mỹ học, tín ngưỡng, phong cách
sống và công nghệ của một dân tộc.”
Thứ hai, nhiều bản viết tay trên lá cọ đã bị các thế lực thực dân đưa ra khỏi
Nam Á mà không có sự cho phép hoặc ý kiến của các cộng đồng Hindu, Kỳ-na và Phật
giáo. Nhiều bản viết tay trên lá cọ được lưu giữ trong các viện bảo tàng cách xa
nguồn gốc của chúng, bao gồm một số bản viết tay tại Hoa Kỳ. Mặc dù khái niệm
này chắc chắn gây tranh cãi, nhưng một số người sẽ lập luận rằng bất kỳ bản viết
tay nào bị lấy đi dưới chế độ thuộc địa thì nên trả lại cho con cháu của chủ sở
hữu chúng (quyền tài sản) hoặc hồi hương chúng (quyền văn hóa).
Ngay cả việc số hóa các bản viết tay trên lá cọ, với những lợi ích rõ ràng về
tính khả dụng ảo và bảo vệ bản gốc, cũng tạo nên nhiều mối quan tâm khác nhau.
Mallan và Park trích dẫn một bài tiểu luận của Walter Benjamin lập luận rằng,
“việc đưa tác phẩm nghệ thuật ra khỏi bối cảnh đặc biệt của nó sẽ phá hủy tinh
hoa của nó.”
Ngoài ra, bất kỳ ý định nào nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc lưu giữ vĩnh
viễn các bản viết tay gốc chắc chắn khác với truyền thống phổ biến của người Ấn
Độ rằng các bản viết tay trên lá cọ cũ hoặc bị ném xuống sông hoặc bị đốt cháy
sau khi nội dung trí tuệ của chúng đã được sao chép vào những trang giấy mới.
Theo Thư viện Anh, “cho đến gần đây, việc thả các bản chép tay xuống biển hoặc
sông vào những ngày kiết tường được coi là cách làm tốt nhất để bảo tồn chúng,
để tránh tội chứng kiến sự mục nát của chúng.”
Samuel viết rằng “nếu không có người thích hợp để sao chép, các bản viết tay
được phép chết một cái chết tự nhiên.”
3. Cơ cấu vật lý, thiết kế và cấu trúc các bản viết tay trên lá cọ
Trong số hơn 2.400 loài cọ phân bố trên toàn thế giới, có một số loài được xác
định thường được sử dụng làm “giấy” viết: Borassus flabellifer (cọ đường),
Corypha umbraculifera (cọ talipot, lá buông, lá bối), Corypha taliera và Corypha
utan. Theo Thư viện Đại học Cornell, loại lá cọ thường được sử dụng cho các bản
viết tay là lá cọ Palmyra và Talipot.
Lá từ các loài khác nhau thì khác nhau về màu sắc, độ dẻo, độ mịn, độ bền, khả
năng phản ứng với thời gian và tính nhạy cảm với sự tấn công của côn trùng.
Những đặc điểm này của lá ảnh hưởng trực tiếp đến các bản viết tay được tạo ra
từ chúng.
Lá cọ thường được thu hoạch khi còn non, thích hợp nhất là vào mùa khô, và cần
được xử lý bổ sung hoặc ngâm tẩm trước khi chúng có thể được sử dụng cho các bản
viết tay. Quy trình xử lý chính xác được sử dụng khác nhau tùy theo loại lá và
phong tục địa phương, nhưng có thể bao gồm: đun sôi trong nước, sữa hoặc các
chất lỏng khác, sấy khô trong lò sấy, xử lý bằng khói, làm khô bằng không khí,
chôn trong bùn, chà nhám, chà xát hoặc đánh bóng, và xử lý lá bằng nghệ hoặc dầu
như dầu mè.
Các loài cọ được được sử dụng cho các bản viết tay:
Tên khoa học |
Tên phổ thông |
Ghi chú |
Borassus flabellifer |
Palmyra (Palmyrah) palma; Cọ rượu |
Lá dày, khá dẻo, dễ gãy vỡ theo thời gian; bề mặt như sáp.
Thường viết bằng cách khắc chữ, không bám (mực hoặc sơn) tốt khi viết
trên bề mặt.
Phân bổ rộng (cận nhiệt đới, nhiệt đới); được trồng rộng rãi. |
Corypha taliera |
Như trên |
Lá màu nâu có gai đen, dày, không dẻo. Đã tuyệt chủng ngoài tự nhiên;
chỉ còn lại một số lượng nhỏ mẫu vật được trồng trọt. |
Corypha umbraculifera |
Cọ Talipot; Cọ quạt Sritala |
Màu sáng, mỏng, dẻo, độ bền hàng thế kỷ; lá dài tới 50cm; viết tốt trên
bề mặt (mực hoặc sơn). Phổ biến ở Ấn Độ, Sri Lanka, được đưa vào các khu
vực khác của Đông Nam Á. |
Corypha utan |
Cọ Gebang, cọ Buri |
Viết tốt trên bề mặt (mực hoặc sơn); có mặt ở Đông Nam Á, Úc. |
Khi lá đã sẵn sàng sau quá trình xử lý ban đầu, chúng được cắt theo kích thước
và nếu chưa được thực hiện trước đó, gân lá thường bị loại bỏ. Đôi khi, gân lá ở
giữa được giữ lại, lá được gấp lại và chỉ phần bên ngoài của lá được dùng để
viết. Mặc dù các bản viết tay trên lá cọ có thể có chiều dài khác nhau, từ chỉ
vài cm đến hơn 1m, một kích thước điển hình hơn là dài khoảng 60cm và rộng
khoảng 7cm. Thông thường các bản viết tay là hình chữ nhật, lặp lại hình dạng
của những chiếc lá bị cắt, nhưng các bản viết tay đôi khi mang những hình dạng
hoa mỹ hơn như hình “cá, động vật và lưỡi kiếm”. Những chiếc lá đã cắt tỉa được
buộc thành cuộn hoặc bó từ một vài đến hàng trăm lá, và có thể được đặt giữa các
tấm bìa, thường làm bằng gỗ. Một đến ba lỗ được tạo ra trên lá và tấm bìa, như
vậy có thể xuyên dây qua và buộc lại để cố định nội dung. Những chiếc lá nhỏ có
thể chỉ có một lỗ ở giữa, nhưng điển hình hơn là những chiếc lá dài có lỗ ở hai
đầu. Một định dạng ít phổ biến hơn là một bản chép tay hình quạt, với một cái
ghim (đôi khi làm bằng kim loại) cố định các lá ở một đầu. Perumal cho biết rằng
“nếu [bản chép tay] có nhiều hơn 200 lá, sợi chỉ không thể giữ được lá, hoặc nó
sẽ làm hỏng các lỗ trên lá. Trong trường hợp này, một thanh đồng nhỏ hoặc một
thanh tre được xỏ vào lỗ còn lại của [bản viết tay]”.
Bìa ngoài, đặc biệt là những bìa được đặt trên các văn bản tôn giáo được sử dụng
trong các đền chùa hoặc tu viện, đôi khi có các hình minh họa được vẽ đầy màu
sắc tinh xảo, và thậm chí có thể được khảm bằng ngà voi hoặc xà cừ. Sau khi hoàn
thành, các bản viết tay thường được bọc trong vải, và đôi khi cũng được đựng
trong các hộp gỗ bảo vệ. Lớp vải bọc bên ngoài theo truyền thống có màu đỏ hoặc
vàng, những màu được cho là có tác dụng xua đuổi sâu và côn trùng.
Xin lưu ý thêm, các bản viết tay bằng các chất liệu khác mà chúng mô phỏng cấu
trúc của những bản chép tay làm từ lá cọ thực tế cũng được tìm thấy ở Ấn Độ, mặc
dù chúng nằm ngoài phạm vi của bài viết này. Những “chiếc lá” thay thế này được
làm từ “vàng, bạc hoặc đồng mạ vàng” và thậm chí cả những tấm ngà voi.
Phương pháp viết và vẽ minh họa trên lá cọ phụ thuộc vào loại lá cọ được sử dụng
làm nền. Như Van Dyke giải thích, “về truyền thống, việc viết trên lá cọ được
thực hiện theo hai cách: văn bản hoặc được khắc hoặc được viết trên bề mặt.”
Lá cọ Talipot, vật liệu nền được sử dụng cho những bản viết tay sớm nhất còn sót
lại ở Ấn Độ, thường có mực hoặc bột màu được quét trên bề mặt. Mực được sử dụng
cho chữ viết có nhiều thành phần khác nhau tùy theo khu vực, nhưng thường chứa
muội than, nước và chất kết dính chẳng hạn như “...chất kết dính có gốc thực vật
như hồ làm từ tinh bột hoặc nhựa gỗ táo...”
Sah cho biết rằng ở Ấn Độ, “chất kết dính phổ biến là nhựa cây hoặc dầu [mè].”
Các nguồn mực khác bao gồm: nước ép táo gai đen hoặc lá đậu “trộn với than...,
dầu [mè] và nghệ.” Các loại dầu được thêm vào mực vì đặc tính diệt côn trùng của
chúng, có thể bao gồm những loại sau: “long não, sả, thầu dầu, cỏ chanh, gỗ
tuyết tùng, mù tạt, cây thường xanh, bạch đàn, đinh hương và mè.”
Mực hầu như có khả năng được phết bằng cây sậy hoặc bút lông, với khoảng trống
khá rộng rãi và chính xác xung quanh các lỗ đóng sách vì các cạnh của lá có thể
bị mòn. “Người viết... thường để lại lề lớn, vì vậy thậm chí sau hàng trăm năm,
khu vực văn bản của bản viết tay vẫn còn nguyên vẹn.”
Hình minh họa được vẽ bằng các màu lấy từ thực vật hoặc khoáng chất mà Van Dyke
và Meher xác định bao những màu sau: đen, xanh lam, vàng, đỏ, và màu trắng. Các
sắc độ, sắc thái và các màu khác được pha trộn từ bảng màu cơ bản này.
Mặt khác, những chiếc lá cọ Palmyra (Borassus flabellifer) được sử dụng bút kim
loại để khắc và sau đó bôi muội đen hoặc một chất màu khác vào các rãnh hình
thành trên lá để làm cho chữ viết có thể nhìn thấy được. Bút khắc cũng có thể
được làm bằng xương hoặc ngà voi. Việc khắc chữ trên lá đòi hỏi nhiều kỹ năng và
sự khéo léo để tránh làm thủng hoặc rách lá. Các đặc điểm vật lý của lá cũng
quyết định phần nào đến việc lựa chọn và hình thức của văn bản và hình minh họa.
Ví dụ, các bản viết tay “bằng chữ viết Devanagari, vốn yêu cầu các nét ngang,
thường được viết”, trong khi các chữ viết tròn trịa hơn có thể dễ dàng được khắc
hơn…
Kết luận
Các bản viết tay trên lá cọ rất quan trọng đối với lịch sử, văn hóa và truyền
thống tôn giáo của Nam Á. Chúng là một trong những phương tiện truyền thông lâu
đời nhất chứa các văn bản cổ vẫn còn được sử dụng cho đến ngày nay. Mặc dù chúng
phổ biến, với hàng triệu bản viết tay trên lá cọ vẫn còn tồn tại trên khắp thế
giới, nhưng chúng cũng rất mong manh và mối đe dọa mất cả kiến thức và văn hóa
vật chất là rất thực tế. Trong bài viết này, chúng tôi đã thảo luận về một số
tầm quan trọng lịch sử của các bản viết tay trên lá cọ ở Ấn Độ cũng như những
thách thức bảo tồn chúng. Việc bảo tồn các bản chép tay trên lá cọ là rất mực
quan trọng vì nó giúp bảo vệ kho tàng trí tuệ của Ấn Độ và các vùng lân cận.
Nguồn:
https://surface.syr.edu
Jyotshna Sahoo, Bismita Sahoo, Basudev Mohanty, và Nrusingh Kumar Dash,
"Indian Manuscript Heritage and the Role of National Mission for
Manuscripts",
Library Philosophy and Practice (E-Journal)
(June 30, 2013).
Wolf L. Eiserhardt, Jens-Christian Svenning, W. Daniel Kissling, and
Henrik Balslev. "Geographical Ecology of the Palms (Arecaceae):
Determinants of Diversity and Distributions Across Spatial Scales",
Annals of Botany
108, no. 8 (Dec 1, 2011): 1392.
Deepakshi Sharma, Manager Rajdeo Singh, and Bhushan Dighe.
"Chromatographic Study on Traditional Natural Preservatives used for
Palm Leaf Manuscripts in India."
Restaurator. International Journal for the Preservation of Library and
Archival Material
39, no. 4 (Dec 19, 2018): 251